HỒI KÍ (Phần VI, Chương XXX8)

 

Nguyễn Hiến Lê

PHN VI 
Giai đo
n 1975 – 1981
(Ph
n này viết xong năm 1980, năm 1981 sa li nhiu ch)

CHƯƠNG XXX 

CHẾ ÐỘ TẬP THỂ Ở MIỀN NAM

…..

GIÁO DC – VĂN HÓA

Giáo dc

Chính quyền rất coi trọng giáo dục, mở rất nhiều nhà trẻ, trường học từ mẫu giáo tới đại học. Giáo dục mới đầu hoàn toàn miễn phí (1), do đó có vẻ rất bình đẳng. Ở đại học, sinh viên nào cũng được trợ cấp mỗi tháng 18 đồng, tuy không đủ, nhưng cũng đỡ cho cha mẹ. Dĩ nhiên phải như vậy, nếu không thì không ai cho con học đại học được. Các đồng bào thiểu số cũng được dạy dỗ như người kinh, đó cũng là điểm đáng khen nữa.

Trẻ em được cưng nhất, được coi là cháu bác Hồ. Nhà trẻ nào cũng đẹp, có vườn rộng. Tại khu tôi ở, trên đường Nguyễn văn Trỗi (xưa là Trương Minh Giảng), hai nhà trẻ ở cách nhau có vài trăm thước, đều rộng rãi, mát mẻ; hồi mới mở, đi ngang qua tôi còn thấy mươi trẻ em và vài cô giáo, một năm sau không thấy bóng trẻ nữa. Cha mẹ không muốn gởi con, vì chúng không được săn sóc kĩ, mà thuê một người già giữ giùm. Ở Hà Nội có những tư nhân chuyên giữ trẻ tại nhà mình, mỗi trẻ phải trả mười, mười mấy đồng một tháng. Có phúc nhất là được ông bà nội hay ngoại trông nom cho. Nhiều bạn già của tôi phải làm “Vú đực” giữ cháu. Cái gì quốc doanh cũng không bằng tư doanh. Chỉ vì lương cán bộ ít quá, đói quá thì ai mà hăng hái cho được.

Mỗi thị xã có một cung thiếu nhi. Ðúng là một cái cung: rộng lớn, lộng lẫy ở giữa một khu vườn trồng nhiều cây cao, bóng mát.

Các trường mẫu giáo mọc ra như nấm. Riêng thị xã Long Xuyên đầu năm 1975 chỉ có dăm trường, thì năm 1980 có tám chục trường (kể cả ngoại ô) (2). Ðiều đó dễ hiểu. Trẻ em là mầm non của quốc gia, trẻ lại dễ uốn, tương lai của chế độ ở trong đám đó, cho nên cần phải đào tạo kĩ, khắp.

Và người ta dạy phải ghi ơn bác Hồ trước hết. Sau ngày 60-4-75 mấy tháng, một cô giáo hỏi các em một lớp mẫu giáo ở Long Xuyên:
– Ai nuôi nấng các em?

Chúng nhao nhao lên, vui vẻ đáp:
– Thưa cô, ba má.

Cô giáo bảo:
– Không phải. Bác Hồ nuôi chứ không phải ba má.

Và cô chỉ hình bác Hồ cho chúng coi. Chúng tiu nghỉu, chẳng hiểu gì cả. Bác Hồ là ai? Chúng đã gặp lần nào đâu? Có bồng bế chúng lần nào đâu? Có mua kẹo bánh cho chúng đâu? Cha mẹ các em đó nghe con kể vậy, bất bình, có người không cho con tới lớp nữa. Họ không hiểu đường lối cách mạng, lạc hậu quá.

Họ không hiểu chế độ ta là chế độ tập thể, cá nhân phải tách gia đình để sống trong cơ quan, gia đình không quan trọng bằng đoàn thể, vậy thì trẻ thoát li gia đình càng sớm càng tốt, vợ chồng sống xa nhau càng nhiều càng tốt; ở Bắc vợ chồng làm việc hai tỉnh, vài tháng mới gặp nhau một lần là chuyện thường. Lí tưởng là trẻ mới sinh ra, được xã hội nuôi thay cha mẹ, dạy cho tới khi thành người, thành cán bộ. Lí tưởng đó chưa biết bao giờ mới đạt được. Hiện nay cán bộ vẫn phải cần có đại gia đình, có cha mẹ trông nom con cái cho, nấu ăn cho, làm nhiều việc trong nhà cho, vì ở tập thể họ thấy không thích bằng ở nhà riêng, cho con vô nhà trẻ không bằng có cha mẹ săn sóc cho. Nhà tôi ở Long Xuyên không năm nào không giữ giùm một vài đứa trẻ, con của mấy đứa cháu đảng viên cán bộ. Thiếu nữ Hà Nội trong giới phong lưu những năm trước thế chiến, khi kiếm chồng chỉ đặt một điều kiện: Phi cao đẳng bất thành phu phụ; thiếu nữ ngày nay đặt tới năm điều kiện mà họ gọi là 5B: Bằng cấp, Bìa, Buồng, Bà, Bình bịch, nghĩa là có bằng phó tiến sĩ, có sổ riêng của hạng cán bộ cao cấp để mua nhu yếu phẩm, có buồng riêng, vợ chồng không phải ở chung với một gia đình khác trong một phòng ngăn đôi tại cơ quan, có bà nội hay ngoại làm bếp, giữ con cho, và có xe máy dầu (Honda, Vespa…) mà ngoài Bắc gọi là xe bình bịch. Tôi không biết phụ nữ ở các nước xã hội chủ nghĩa khác có đòi nhiều như vậy không, nhưng đọc sách báo, tôi thấy họ cũng không muốn sống tập thể mà ước ao có một “ổ ấm” riêng, như phụ nữ các nước tư bản.

*
* *

Khi mới mở thêm trường mẫu giáo nào, cô giáo phải đi năn nỉ từng nhà gởi con tới học. Em nào nghỉ lâu quá mà không cho hay thì cô giáo phải đích thân tới tận nhà hỏi xem vì lí do gì. Cô nào chán dạy, xin thôi thì hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ đừng thôi; họ cũng cứ thôi, thôi nhiều quá. Kì khai giảng 1980-1981, Long Xuyên có khoảng 100 cô giáo mẫu giáo thôi dạy mà thị xã chỉ đào tạo cấp tốc được 70 cô (3); niên khóa 1981-1982 cần 100 cô, chỉ có 15 đơn xin dạy.

Học mẫu giáo một hai năm, sáu tuổi lên cấp I, năm năm sau lên lớp 6, cấp II, khỏi thi. Lên lớp 10, cấp III thì phải thi.

Năm 1975, một giáo viên cấp I ở Bắc vào cho tôi hay trong cả 3 cấp đó, giáo viên giờ học nào cũng phải tuần tự theo đúng 5 bước: bước 1: ổn định lớp trong 2 phút; bước 2: kiểm tra bài cũ 10 phút; bước 3: giới thiệu bài mới 1 phút; bước 4: giảng bài mới 20 phút; bước 5: củng cố bài mới, tức tóm tắt lại cho học sinh hiểu rõ, dễ nhớ. Năm bước đó từ xưa nhà giáo nào cũng biết, cũng theo, chỉ khác là không bị khép vào thời điểm: bước 2 và 4 có thể dài ngắn tùy môn.

Ðiều lạ lùng nhất là người ta còn bắt buộc:
● cùng một ngày đó, một giờ đó, tại khắp các trường (ít nhất là cấp I) trong nước từ Lạng Sơn đến Cà Mau phải dạy cùng môn đó, cùng một bài đó, cùng trong một sách đó.
● hơn nữa, trong một giờ học đó, tới phút nào đó, các giáo viên toàn quốc cũng phải làm những công việc đó, hỏi lại bài cũ chẳng hạn, rồi tới phút nào đó lại nhất loạt làm công việc sau, chẳng hạn giảng bài mới…;
● cùng một trường, các giáo viên dạy cùng một lớp phải họp nhau cùng soạn bài với nhau cho ngày hôm sau để cùng đặt những câu hỏi như nhau khi hỏi lại bài cũ, cùng giảng những điều như nhau khi dạy bài mới…

Tôi hỏi giáo viên cấp I ở Bắc vào đó:
– Thế lỡ hôm đó thầy giáo một lớp nào đau, nghỉ thì sao?

Ðáp:
– Có người thay.

Lại hỏi:
– Ở trong Nam này miền Tây nhiều nơi vào giữa mùa lụt trường phải tạm đóng cửa nửa tháng thì sao?

– Tôi không biết. Ti giáo dục ở tỉnh sẽ giải quyết.

Tôi lại hỏi:
– Ở Nga, Trung Hoa có vậy không?

– Ðó là chính sách của Nga, mình theo họ, không biết Trung Hoa có theo không.
Tôi nghĩ bụng: những chỉ thị vô lí như vậy, ai mà thi hành triệt để được, sẽ thành “lettre morte” như người Pháp nói thôi. Và quả nhiên năm 1981 nó đã thành như vậy.

Nhà giáo đó lại còn cho tôi hay: sách giáo khoa mà sai -và vẫn thường sai- chẳng hạn bảo Sài Gòn nằm trên bờ sông Cửu Long thì tất cả các giáo viên cũng phải dạy sai như vậy, không được phép sửa; rồi báo cáo lên ti, ti lên bộ. Chỉ có bộ mới có quyền sửa sai, và phải hai ba năm sau, in sách mới, người ta mới sửa.

Tôi thấy kì cục quá, không tin nổi, năm sau hỏi một giáo sư đại học Hà Nội, ông xác nhận là đúng: cái gì bộ giáo dục in thì phải coi là pháp điển, phải tuân theo triệt để. Nhưng ông ta lại nói thêm: một trường cấp II nọ gặp trường hợp đó cho phép giáo viên muốn dạy theo sách cũng được, muốn dạy đúng sự thực cũng được; cấp trên có hỏi, ông ta sẽ trả lời và chịu trách nhiệm.

Tôi hỏi:
– Như vậy thì cứ dạy đúng sự thực?

– Chỉ có một số ít thôi, còn đa số theo đúng sách, không dám sửa.

Tôi hiểu chính sách của người ta rồi: luyện tinh thần kỉ luật, làm tiêu ma óc phán đoán, ý chí cá nhân; và tôi không trách một đứa cháu tôi ở Hà Nội, một cán bộ cao cấp, vào hạng trí thức, năm nay trên 60 tuổi, có tú tài Pháp hồi thế chiến thứ nhì mà không có một chút tinh thần phê phán nào hết, trên nói sao thì tin vậy, đúng như người Pháp nói: có thể “avaler touts sorts de couleuvres”.

Muốn vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lí lịch. Gần đây một hiệu trưởng ở Hà Nội có uy tín, được sinh viên trọng, phải nhường ghế cho người khác vì ông ta có lương tâm, thí sinh điểm cao mới cho vô đại học, lại công bố số điểm của mỗi thí sinh nữa, bị cấp trên trách là không có lập trường giai cấp. Còn ở Nam thì một ông bạn tôi làm ở ti giáo dục thành phố Hồ Chí Minh bảo chính phủ sắp các thí sinh thành 12 thành phần: thành phần 12 thấp nhất gồm con ngụy quân ngụy quyền hạng nặng; rồi tới thành phần 11 gồm con ngụy quân, ngụy quyền hạng trung, cha còn đương “cải tạo”; cao hơn một cấp là con ngụy quân ngụy quyền hạng nhẹ, con đại tư bản v.v…, cao hơn nhiều là con lao công, thợ thuyền, cao nhất là con gia đình cán bộ hay liệt sĩ… Tôi nhớ đại khái như vậy. Những thí sinh thuộc thành phần 12, 11, 10 thì dù học giỏi cũng không được chấm bài, đừng thi vô ích. Vì vậy mà trên tôi đã nói: giáo dục chỉ có vẻ bình đẳng thôi. Một cán bộ giáo dục ở Hà nội mới phàn nàn với tôi: con mình học giỏi, có tên trong danh sách được tuyển đi học ở Nga, mà không chạy chọt thì già đời cũng không được đi.

Có nơi thí sinh không có quyền lựa chọn trường. Tỉnh cần bao nhiêu sinh viên trong ngành nào thì chỉ cho thi vào những ngành đó lấy đủ số thì thôi.

Ở Ðại học và Cao đẳng, sinh viên ăn ở tập thể, được nhà trường nuôi, nhưng vẫn phải xin cha mẹ mỗi tháng từ 100 đến 200 đồng để mua thêm thức ăn. Ra trường chắc chắn được bổ dụng, số lương cao nhất mới đầu chỉ vào khoảng 60 đồng (từ 1980 trở về trước, giữa 1981 mới tăng lên). Thủ trưởng bắt làm gì cũng phải làm; cán sự điện tử mà làm lao công, dược sĩ mà giữ kho… Một đứa cháu tôi học lớp 11 được khen là tiên tiến mà muốn bỏ học, tập bán chợ trời, cha mẹ khuyên bảo gì cũng không nghe, đáp: “Dù con có học 5-6 năm nữa thì cũng chỉ tốn tiền ba má, mà tốt nghiệp ra, làm kĩ sư thì cũng không đủ ăn, tối về vẫn phải đạp cyclo để kiếm thêm, thôi thì tập buôn bán hay lao động từ bây giờ lại hơn.”

Vì tất cả những lẽ trên, ở Nam thanh niên chán học, số học sinh lớp 12 kém xa năm 1974 như trên tôi đã nói.

Một điểm tấn bộ là chính quyền mở nhiều lớp bổ túc văn hóa cho công nhân viên, cán bộ. Dạy buổi tối, mỗi tuần học hai buổi, mỗi buổi 2 giờ. Có đủ các cấp I, II, III. Vài cán bộ y sĩ, dược sĩ bốn năm chục tuổi, thời kháng chiến không được học, nay học bổ túc từ lớp tư, lớp năm; đêm nào cũng học, một năm lên 2, 3 lớp.

Học xong mỗi khóa phải thi. Nhưng thi rất dễ. Nghe nói có thầy đọc câu trả lời cho thí sinh chép, vì bắt những cán bộ mấy chục tuổi đảng thi lại hoài thì cũng kì, mà lại bị cấp trên trách là không biết dạy. Tiện hơn hết là cho đậu bừa đi. Ai cũng biết đó chỉ là hình thức. Có dược sĩ trình độ mới lớp tư, học rút trong hai năm hết lớp 10, như vậy đủ rồi. Một nhân viên công an cấp cho tôi giấy phép đi đường một tháng mà đề từ 31-1 đến 31-2-1980.

Văn hóa

Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của b Văn hóa ngy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Ðôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1979 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc.

Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh Phụ Ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.

Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà sản xuất hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.

Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.

Một nhóm ba thanh niên cũng xin vào xét tủ sách của tôi. Nhà tôi tiếp họ, hỏi:
– Các cháu học ở đâu? Có đọc sách ông Nguyễn Hiến Lê không?

Một người học Ðại học, đáp có đọc sách tôi. Nhà tôi bảo:
– Nhà này là nhà ông Nguyễn Hiến Lê đấy.

Họ vội vàng xin lỗi rồi rút lui.

Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ tịch thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao.

Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí… Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.

Mấy bạn tôi luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nữa); còn lại đem bán kí lô cho “ve chai” một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.

Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới mắt công an.

Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.

Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có được trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.

Bà Ðông Hồ quen ông Giám đốc thư viện thành phố, bán được một số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về nhà mỗi khi cần dùng tới.

Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin sở Thông tin văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.

Ít tháng sau tình hình lắng dịu lần rồi yên, không nhà nào bị kiểm kê. Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn “phần thư” kể như qua hẳn (4). Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ sách nữa, ai xin tôi cũng cho.

Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi đó là những công cụ giáo dục quần chúng. Ở Sài gòn chỉ thấy bán vài tạp chí Nga, Ba lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng kí trước ở sở Bưu điện. Một người cháu tôi từ Pháp gởi về cho tôi một tờ Nouvel Oservateur (của khối cộng), số đó bị chặn lại. Nghe nói tờ Humannité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán trong nước. Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung hoa nào bán ở Sài gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt. Ở các thư viện Hà nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người đọc lén được.

Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai có đủ tiền mua? Cán bộ văn hóa vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!

Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp, các thuốc tây không có prospecties cho biết cách dùng, trị bệnh gì…, mà chỉ cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết mà thi hành chỉ thị được; và ở thi này, thư máy bay từ Sài gòn ra Hà nội mất có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài gòn qua Pháp, Gia Nã Ðại mất hai tháng, có khi bốn tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?

Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Một anh bộ đội đi xe đò từ Long xuyên lên Sài gòn nghe hai chị bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến… mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cáo cho kiểm soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội, khi xe tới bến Phú lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi: “Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu còn biết chút gì về thế giới nữa?”

Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectulle). Chúng ta có thể tin lời đó được.

Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10.000 bản trở lên, có thứ 30.000, 100.000 bản tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lí do. Hà nội mỗi năm xuất bản không biết được 100 nhan đề không (trong này, thời trước được khoảng 1.000 nhan đề); sách được gởi đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng “đói sách”; lại thêm nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị, như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học, sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát hành đã bán chợ đen ở Hà nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch sử tỉnh Vĩnh phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long xuyên không làm sao kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê Nin toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo, người ta mua về để bán kí lô.

Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.

_______________________
(1) Niên khóa 1981-1982 ở An giang mỗi học sinh từ mẫu giáo đến hết cấp III (lớp 12) đều phải đóng học phí 3 đồng một tháng.
(2) Nhưng tới lớp 12 thì số học sinh lại kém năm 1974 xa.
(3) Hầu hết cơ quan nào cũng vậy: kinh tế (ngân hàng), thủy lợi… năm nào cũng đào tạo thêm nhân viên mà vẫn không đủ vì họ thôi nhiều quá. Một cán bộ bảo: có vậy thì nhà giáo mới có việc chứ.
(4) Tôi lầm. Giữa năm 1981, vì ở khắp các thành phố, thị xã, các sách đồi trụy, băng nhạc ngụy, cả phim đồi trụy nữa lại lưu hành, nên có vụ kiểm kê các quán cà phê, sách cũ, nhưng lần này các sách khảo cứu Việt miền Nam và các sách Anh, Pháp không bị hốt.

Hết: Giáo dục-Văn hóa Xem Tiếp: Y tế – Tư pháp

Tìm Kiếm