lan

Những Ý Nghĩ Rời Ngày 80 Tuổi

Nguyên Vũ

Vợ chồng Vũ Ngự Chiêu-Hoàng Đỗ Vũ- tại đền Hùng (3/2005) trong cuộc du khảo Việt Nam năm 2004-2005, với học bổng Fulbright của BNG, và Rockefeller của Đại học Massachusetts-Boston.

Thật khó ngỡ tôi có thể sống tới tuổi 80—dù chỉ là tuổi khai sinh. Cha mẹ cho tôi “mang tiếng khóc bưng đầu mà ra” ngày mồng 6 tháng 10 năm Nhâm Ngọ —tức 13/11/1942—tại Phụng Viện thượng, tục gọi là Me Vừng, quận Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, sau ngày cha thoát khỏi cuộc buộc đá thả sông, tới những trại tù khổ sai của Việt Cộng từ Lang Hít, Bắc Kạn, tới Liên Khu IV, định cư tại tỉnh lỵ Hải Dương hoang tàn, đổ nát, rổi dàn xếp cho mẹ và hai anh em tôi trốn ra đoàn tụ, khi làm giấy thế vì khai sinh hai anh em tôi đều được khai sinh với năm tây lịch, và ngày tháng âm lịch. Ngày sinh trên giấy tờ trở thành 6/10/1942. Bởi thế, từ buổi di dân qua Mỹ, mỗi năm tôi có tới ba sinh nhật. 6/10, 13/11một ngày tây lịch nào đó tương ứng với ngày 6/10 âm lịch [như Chủ Nhật, 30/10/2022, hay 6/10 Nhâm Dần]:

. Vợ tôi—người tình đầu đời từ trại Bác Ái xóm Cây Quéo, Gia Định 62 năm trước, cũng nguồn cảm hứng của những vần thơ khởi đầu văn nghiệp, đoàn tụ trên đất Mỹ đã 35 năm—thường tăng khẩu phần lương thực với lời chúc “Happy Birthday.”

Cư Trần Lạc Đạo

Petrus Key Là Ai ?

Vũ Ngự Chiêu, Ph. D. , J.D.

Petrus Key, sau này đổi thành Petrus Trương Vĩnh Ký, P.J.B. Trương Vĩnh Ký, Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, hay Petrus Ký, thường được coi như một văn hào của miền Nam dưới thời Pháp thuộc. Có người xưng tụng Petrus Key như “đại ái quốc,” “đại học giả,” “bác học,” thông thạo tới “26 thứ tiếng.” Dưới thời Pháp thuộc (1859-1945, 1949-1955), rồi Cộng Hòa Nam Kỳ Quốc (1/6/1946-15/5/1948), Quốc Gia Việt Nam (1/7/1949-26/10/1955), và Việt Nam Cộng Hòa
(26/10/1955-30/4/1975), người ta lấy tên Petrus Key (Ký) đặt cho trường trung học công lập [lycée] lớn nhất ở Sài Gòn, đúc tượng để ghi công lao, v.. v… Với chính sách giáo dục nhiều hạn chế (nhắm mục đích ngu dân [obscuranticisme] và ràng buộc trâu ngựa [cơ mi]), [4] được đặt tên cho trường công lập lớn nhất miền Nam là vinh dự không nhỏ; vì nơi đây chỉ có con ông cháu cha cùng những học sinh xuất sắc được thu nhận, qua các kỳ thi tuyển khó khăn.
Thực chất, chúng ta biết rất ít về Petrus Key. Hầu hết chi tiết về gia đình, thân thế và hoạt động tuyên truyền, chính trị của Petrus Key đều chịu ảnh hưởng chung của hai trào lưu trong nước: Đó là “cung văn” và “đào mộ.”



Phê Bình Tập Văn ” Luận Bàn Minh Triết &Minh Triết Việt” của Hoàng Ngọc Hiến

Lê Việt Thường

Mục Lục

i 1  Phê Bình LBMT&MTV:”Ngả Rẽ” Giữa Triết Đông & Triêt Tây “

Bài 2..Phê Bình LBMT&MTV: Minh Triết Phương Đông & Triết Học Phương Tây

Bài 3..Phê Bình LBMT&MTV: Lý Nhất Quán Trong Triết Đông

Bài 4..Phê Bình LBMT&MTV: Chữ HÒA Của Phương Đông & Chữ ĐỒNG Của CSVN

Bải 5..Phê Bình LBMT&MTV: Về Cái Gọi Là “Minh Triết Hồ Chí Minh” Của Đám Bồi Bút CSVN

Bài 6..Phê Bình LBMT&MT: Lối Ngụy Biện Lẫn Lộn Cái “Giả” Vơi Cái “Thât” Của Đám Văn Nô CSVN(Phần 1)

Bài 14.Phê Bình LBMT&MTV: Lối Ngụy Biện Lẫn Lộn Cái “Giả” Vơi Cái “Thât” Của Đám Văn Nô CSVN(Phần 2)

Bài 15.Phê Bình LBMT&MTV: Lối Ngụy Biện Lẫn Lộn Cái “Giả” Vơi Cái “Thật” Của Đám Văn Nô CSVN(Phần 3)

Bài 22 Phê Bình LBMT&MTV: Lối Ngụy Biện Lẫn Lộn Cái “Giả” Vơi Cái “Thât” Của Đám Văn Nô CSVN(Phần 4)

Bài 16 Phê Bình LBMT&MTV:Việt Tộc Đi Trước Tây Phương Nhiều Ngàn Năm Trong V/Đ “Hòa Giải Chân Thực”

Bài 17 Phê Bình LBMT&MTV: Thủ Thuật “Hòa Giải Hòa Hợp” Bịp Bợm Của CSVN Với Đám Dân Chủ CUỘI

Bài 18 Phê Bình LBMT&MTV: Dung Hòa “Bản Sắc Dân Tộc” Với Khuynh Hướng “Toàn Cầu Hóa”

Bài 20 Phê Bình LBMT&MTV: Thủ Thuật” Nói Một Đàng, Làm Một Nẻo” Của Hồ Chí Minh & CSVN 

Bài 21 Phê Bình “LBMT&MTV:Lạc Việt Đi Trước Tây Phương Rất Lâu Về Mặt Bảo Đảm AN SINH Cho Người Dân

Bải 23 Phê Bình LBMT&MTV: Giá Trị Triết Đông  Được Xác Nhận Bởi Triết Học Khoa Học Tân Tiến Ngày Nay


Phụ Lục… Continue reading

Tam Tự Kinh 三 字 經 Tân Biên

Việt Nhân

Đây là sách khai tâm cho trẻ em, sách này có tên là Tam Tự Kinh tức là Kinh có 3 chữ rất dễ học thuộc lòng, đây là Minh triết để ghi sâu vào tâm khảm các em, lúc trí óc còn trong trắng, để nhớ suốt đời. Đây là tư tưởng chỉ đạo cho đời sống con Người Á Đông.

Chúng tôi dựa theo những sự khai quật không tiền khoáng hậu vể nền Văn hoá Đại chủng Việt của Triết gia Kim Định để dẫn giải các bài của Kinh.  Rất nhiều chỗ rất khác với những sự giải thích của Hán Nho mà người Tàu đã truyền bá cho Tổ tiên ta.

Sở dĩ chúng tôi dùng đến Tam Tự Kinh là vì đây là Kinh điển chung cho cả đại chủng Việt toàn Đông Á, không riêng gì Tàu.  Khi người Tàu thôn tính hầu hết đại chủng Việt, bèn thâu lấy luôn cả nền văn hoá phương Nam, công thức hoá thành Kinh điển, rồi tìm cách làm cho người Việt quên gốc, để độc chiếm lấy nền văn hoá đó.   Nhà Hán đã cạo sửa, xen dậm và xuyên tạc nền Văn hoá “ khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo “ của nên Văn Hoá Nông nghiêp phương Nam thành văn hoá “ Dĩ cường lăng nhược “ của nền Văn Hoá Du mục phương Bắc để phò các chế độ chuyên chế.

Nguồn Gốc Của Danh Xưng VIỆT trong các nền văn hóa cổ

Lang Linh


会矢

 “Phương Việt hội thi”, có thể hiểu là “Liên minh quốc gia Việt” 

Chữ Việt trên Giáp Cốt văn nhà Thương ( 1556 – 1122 B.C)

Bình gốm có khắc chữ của văn hóa Lương Chử ( 3300 – 2300 B.C )

Chủ Nghĩa Nhân Vị

Lê Xuân Nhuận

Chưa bao giờ cái-gọi-là “Chủ Nghĩa Nhân Vị được một số nhân-vật hoài-Ngô ca-tụng và tán-dương ồn-ào như vào khoảng đầu thế-kỷ 21 này.Trọng-tâm và cao-điểm của vụ này là một Chương (Chương 2) trong một tập tài-liệu nghiên-cứu lịch-sử của 2 tiến-sĩ người Việt tại Úc là Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn. Chương 2 này là của Tiến-Sĩ Nguyễn Ngọc Tấn có nhan đề là “Chủ Nghĩa Nhân Vị  Con Đường Mới, Con Đường của Tiến Bộ”.

…….. Lại nữa, TS Tôn Thất Thiện cũng viết: “TS Tấn đã trích dẫn những tuyên bố, phát biểu của các Ông Nhu Diệm, và những khảo luận của những nhà học giả Việt Nam có uy tín để chứng minh rằng ‘Nhân Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt’, và ‘với biện chứng mạch lạc rõ rệt của Triết Gia Kim Định, Chủ Nghĩa Nhân Vị, Tâm Linh Đông Phương của Ông Ngô Đình Diệm và Ông Ngô Đình Nhu bắt nguồn từ nền tảng văn hóa của Việt Nam’ v.v…”
Nhưng trong toàn-bộ tác-phẩm vĩ-đại của đại-sư triết-gia Kim Định, tuy cũng “về nguồn” nói về “con người, tư duy và đạo sống cao đẹp của dân tộc Việt Nam” nhưng dù đã có Nhân-Ái, Nhân-Bản, Nhân- Chủ, Nhân-Dũng, Nhân-Đức, Nhân-Hoà, Nhân-Linh, Nhân Loại, Nhân-Lực, Nhân-Nghĩa, Nhân-Phẩm, Nhân-Quyền, Nhân- Tâm, Nhân-Trị, Nhân-Văn, (Tam Tài) Thiên Địa Nhân, Thiên Nhân Tương Dữ, v.v… chứ tuyệt-nhiên không hề có Nhân Vị, nhất là và dù cho An Vi đến sau Nhân Vị. Thế thì làm sao cho rằng Nhân Vị cũng tương-đồng với An Vi?
Chỉ có ở trong đầu óc của các vị “hoài Ngô” mới có câu chuyện ngược đời: Cái ra sau ảnh-hưởng lên cái ra trước!

PUTIN: XÂM LƯỢC ĐỂ SINH TỒN? BIDEN & TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI NGÀY TÀN CỦA ĐÔNG PHƯƠNG ĐỎ

CHÍNH ĐẠO

Chuyến tham dự Hội Đồng Đặc Biệt ASEAN-Mỹ tại Oat-shing-tân trong hai ngày 12-13/5/2022 của Phạm Minh Chính, tiếp nối bằng phiên họp Đại Hội Đồng LHQ tại New York có khiến Việt Cộng tỉnh mộng Đông Phương Đỏ, hay tiếp tục liên hoan trong thiên đường mù Đông Phương Đỏ của Trung Nam Hải?

Phần Kim Jong-un—nhà hiệp sĩ Don Quichotte bụng phệ, có tướng đi tay chân chân vung vẩy “chữ bát” giống Ngô Đình Diệm—sẽ đi về đâu? Chuyến viếng thăm Nhật Bản và Nam Hàn của TT Biden từ 20 tới 24/5/2022 sẽ vô cùng quan trọng cho Asia nói chung, và khối Đông Phương Đỏ nói riêng. Liệu Biden có can đảm sửa lại sai lầm ấu trĩ, nhưng độc hại của Richard M Nixon, trao trả cho Đài Loan nền độc lập tối thượng, thoát khỏi mối đe dọa quỉ dữ Tàu Cộng? Liệu chính phủ Biden đủ dũng cảm bảo thẳng Trung Nam Hải rằng biển Đông Nam Asia không phải là ao cạn sau nhà Trung Cộng?

Hiện Tượng Kỳ Quái – Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng

Lê Việt Thường

KHI NHÀ CHÍNH TRỊ ĐI ‘LÀM VĂN HÓA’
Đây là trường hợp của một nhà CHÍNH TRỊ CHUYÊN NGHIỆP.
Thay vì sinh hoạt như bao người làm Chính Trị Chuyên Nghiệp khác, người này nghĩ là phải làm một cái gì ‘trội hơn’, ‘nổi hơn’ nhằm gây sự chú ý của người khác, chứ cứ lập đi lập lại mãi các Chiêu Bài Chính Trị như DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN, HÒA GIẢI HÒA HỢP thì lâu ngày các ‘Đồng Hương’ của mình cũng ‘ngán ngẫm’ như phải ăn cơm ‘nếp tẻ’ mỗi ngày.
Vị này mới có ‘sáng kiến’ ghé sang lãnh vực VĂN HÓA để mong ‘tô điểm’ cho ‘sự nghiệp chính trị’ cũng chưa lấy gì làm ‘rạng rỡ’ lắm

Đúng là ‘nhất cử lưỡng tiện’ tha hồ ‘nói hươu nói vượn’ với độc giả, mà không sợ bị mang tiếng là ĐẠO VĂN! Không may cho tác giả là tình cờ chúng tôi cũng có đọc qua tác phẩm nêu trên nên mới tìm ra MỎ VÀNG là NGUỒN ‘sáng kiến’ của nhà Chính Trị ‘giàu sáng kiến’ của chúng ta .
Chúng tôi xin được liệt kê sơ qua dưới đây một số cái gọi là ‘sáng kiến’ và NGUỒN Thực Sự của cái gọi là ‘sáng kiến’ của tác giả để Quý Độc Giả có thể so sánh

Ba Mô Thức Căn Bản Của Việt Nho

Đông Lan

Hát Cho Việt Nam – Từ Yên

Giỗ Tổ Hùng Vương

Trích Sách “Kinh Hùng Khải Triết”, Triết Gia Kim Định

 Kính Thưa Quý Vị,

Hôm nay chúng ta hội nhau để Giỗ Tổ Hùng Vương, một lễ trọng đại hơn hết của Việt Nam vì bao hàm không những TỔ QUỐC mà luôn cả TỔ NGƯỜI. Càng trọng thể hơn nữa vì đây là một lễ đặc trưng của Việt Nam không một nơi nào khác trên thế giới có cả, các nơi chỉ có ngày Quốc Khánh hầu hết là để kỷ niệm một biến cố lịch sử nào đó như phá ngục Bastille của Pháp, hay ngày 4th July của Mỹ, cũng chỉ là ăn mừng Độc Lập chứ không phải là giỗ tổ theo hai nghĩa trên nói lên sự độc lập cả hàng dọc đối với đất trời, cũng như hàng ngang đối với các bạo lực chuyên chế. Chính vì nét đặc trưng đó, nên chúng tôi xin nói ít lời về hai ý nghĩa trên. Vậy trước hết là Giỗ TỔ NGƯỜI. Ngày Giỗ Tổ của Việt Nam có thể gọi được là ngày Sinh Nhật của Con NGƯỜI mà Hùng Vương là một điển hình, một mẫu mực cổ sơ tức một mô thức phổ biến của con người Đại Ngã Tâm Linh được Việt Nho quan niệm như là ‘nơi quy tụ Đức của Trời cùng Đất’ (nhân giả kỳ thiên địa chi đức), nghĩa là một vật Lưỡng Thê sống cả hai chiều kích: cả Tâm lẫn Vật. Chính vì thế mà Hùng Vương sinh ra từ mẹ Tiên và cha Rồng tức là đức Trời Đất đã hàm ngụ ngay từ trong thân mẫu

Ý Nghiã Chữ Hùng

Bây giờ chúng ta hướng suy tư vào chữ Hùng vì là chữ then chốt trong huyền sử nước ta. Muốn hiểu chữ Hùng cho đúng nghĩa phải vượt qua những nghĩa thường nghiệm như hùng dũng trong chiến trường, hay trong những công việc nguy hiểm như ta thường hiểu về các anh hùng. Đó chỉ là những nghĩa luân lý thông thường chưa phải là chính. Nghĩa chính phải là nghĩa chỉ sự thắng chính mình, khó hơn thắng kẻ địch gấp bội. Thắng quân thù có thể chỉ là cái thắng khí huyết. Anh hùng trung thực khó hơn nhiều: phải là thắng chính mình để nắm vận mạng mình, để tự đạo, tự đạt, tự thành = self-achievement, rồi từ đó tiến lên nghĩa siêu linh ở đợt Tam tài đứng ngang cùng trời đất. Nếu trời là chủ, đất là chủ thì người cũng là chủ, như một ông vua độc lập không ỷ lại vào trời hay đất nhưng tự mình làm chủ lấy mình đó gọi là Nhân Chủ. Đó mới là ý nghĩa chữ Hùng trung thực. Đó mới là đợt cao nhất kể cả trên cấp tối cao siêu linh, nên con người phải mất bao thời gian mới đạt tới sự hiểu biết nọ.

Một Cái Nhìn Về Huyền Sử Tiên Rồng

Lê Việt Thường

Trên hành trình đi về với Văn Hóa Viễn Đông và Việt Nam, có một TRỞ NGẠI lớn lao là đại đa số giới Trí Thức gọi là “Tây Học” thường không nắm vững Tinh Hoa của Văn Hóa Viễn Đông và Việt Nam, nên có thói quen áp dụng một cách Sai Lạc, không đúng chỗ các Phạm Trù của TÂY PHƯƠNG vào môi trường Văn Hóa Viễn Đông và Việt Nam, nhất là trong lãnh vực Huyền Thoại học. Do dó, vấn đề ưu tiên và cốt yếu ở đây có lẽ là phải HIỂU ĐÚNG Thần Thoại,Huyền Thoại, Huyền Sử là gì?

I) VAI TRÒ HUYỀN THOẠI, SỬ TRUYỆN

A) ĐẠI CƯƠNG

Phần này chúng tôi đã trình bày đầy đủ trong một bài viết trước đây . Ở đây, chúng tôi xin tóm tắt vừa đủ để áp dụng cho trường hợp này.

Chúng ta biết rằng Huyền Thoại, Sử Truyền kỳ rất phổ biến ở thời kỳ sơ khai của mọi dân tộc. Sử Cổ Truyền của dân tộc Việt được mở đầu bằng họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân với 18 đời Hùng Vương và các truyện đi kèm như được chép trong sách “Lĩnh Nam Trích Quái”…..Còn ở bên Tây Phương, một trong những nguồn văn hóa là Thần Thoại Hy Lạp khởi đầu từ Sử Thi truyền miệng…..

Ukraina: Cuộc Chiến Tiền Đồn Bẩn Thỉu

Chính Đạo

Ngày 25/2/2022, một ngày sau khi Vladimir Putin cho lệnh đại quân Nga xâm lăng Ukrania từ ba hướng Đông Nam, Đông Bắc và Tây Bắc, trong khi oanh tạc cơ và tên lửa đủ cỡ tàn phá, khủng bố các thành thị, bất ngờ nhận được e-mail của Vũ Thái Khiêm, sinh viên electrical engineering tại Đại hoc Texas-Tyler: “Gỉa sử Mỹ không có support từ NATO mà Nga & Trung Quốc cả 2 đánh Mỹ cùng lúc thì ông nội nghỉ Mỹ có thắng được không? Tôi đáp: “…Dear Khiem: Thứ nhất, không có chuyện “giả sử” cháu nêu ra đâu. NATO là một sản phẩm của chiến lược hoàn cầu của Mỹ. Thứ hai, không thể có một liên minh chân thành Nga-Tàu Cộng chống Mỹ. Thứ ba, cơn điên rồ của Vladimir Putin  và Xi-Jinping khi xâm lấn lân bang và mở rộng “vùng ảnh hưởng” [sphere of influence] theo lối tằm ăn dâu—chưa đủ khiến chiến tranh nguyên tử xảy ra. Trong nhiều thập kỷ tới, thế giới chí biến chuyển giữa hai đối cực chiến tranh lạnh [cold war] và hòa bình nóng [hot peace].”Sẽ có những cuộc chiến tiền đồn [outpost wars] mà bom nguyên tử loại bỏ túi [low-yield nuclear bombs]—giống kiểu hai trái bom thả xuống nước Nhật năm 1945—có thể được xử dụng; nhưng những kho bom có sức công phá gấp cả ngàn lần vẫn được bảo vệ kỹ lưỡng ở Mỹ, Âu Châu, Nga, và Trung Hoa.

Nhìn Lại Chiến Thắng Xuân Kỷ Dậu 1789

Vũ Ngự Chiêư & Hoàng đỗ Vũ

Quà Tết Ất Mùi, 19/2/2015
cho Thái Khiêm , Tường Vi

Quang Trung Nguyễn Huệ (1752-1792) và nhà Tây Sơn (1778-1802) là một thí dụ tiêu biều của lối viết sử một chiều trong khối sử văn cổ điển. Các tác giả thường chọn một phe để tái dựng giai đoạn lịch sử này, chẳng hạn, như “sử mệnh cách mạng của thợ thuyền đồng ruộng hay nông dân,” từng được Karl Marx thời trẻ gọi là”bị khoai của cách mạng vô sản [bag of potatoes].” Những người đứng về phe nhà Thanh (Qing, 1644- 1912) thường “hiếu đại”coi đây là một trong 10 võ công của Hoằng Lịch (niên hiệu Càn Long [Qian long], 1735-1796, TTH 1796-1799), vì cuối cùng, “Nguyễn Quang Bình”— Quang Trung thực hay giả—cũng phải đích thân sang Nhiệt Hà [Johol] và Bắc Kinh [Beijing] làm lễ “bảo tất” [ôm đầu gối] Hoằng Lịch vào ngày thọ 80 tuổi—Một tiền lệ trong lịch sử bang giao hơn 7 thế kỷ giữa hai nước, mà chính Hoằng Lịch hai lần viết thành thơ, hay khắc vào mộ bia giả Quang Trung bên Hồ Tây Hà Nội năm 1792 (có lẽ đã mất tích, hay bị vua quan Nguyễn san bằng, theo luật được làm vua, thua làm giặc).

Tết Là Gì ?

Muốn hiểu được tầm quan trọng của tết cần nhớ lại với Việt nho thì siêu hình là thời gian và tình cảm. Cả hai đều vô hình nhưng lại có thực, một đàng là chất liệu làm nên con người, một đàng thì tràn ngập toàn thể con người dưới tên bao quát là tình, tâm tình. Đó là hai then chốt của con người, con người cần phải “tuỳ thời”. “Tuỳ thời chi nghĩa đại hĩ tai”, vì tuỳ thời cũng chính là sống theo tình, tức là đạo. Đó là những việc không thể bỏ dù một giây. Nhưng có những lúc cần trọng thể hóa: đó là những thời điểm khởi đầu mùa, đầu năm, Nho gọi là tiết, ta đọc là Tết. Đó là ngành chữ thời.

Mùa Xuân Trong Luận Ngữ

Lê Việt Thường

Trong một bài viết trước đây (1), chúng tôi có nhắc đến hai câu Ca Dao sau đây về TẾT mà chúng ta thường nghe:

     “Tháng giêng ăn Tết ở nhà
…..Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè”

Và chúng tôi có đưa ra nhận xét là có lẽ vì không nắm vững ý nghĩa ngày Tết, nên ngày nay có những người Việt không những ngạc nhiên mà đôi khi còn tỏ ra bực bội về nội dung văn hóa của hai câu trên. Thật vậy, có điều nghịch lý sau đây : nước ta nghèo mà lại có cái Tết dài nhất “thiên hạ”, trong khi Âu Mỹ giàu sang lại có khuynh hướng cắt giảm các ngày nghĩ lễ, Tết nhất bằng cách khuyến khích Lao Động.

Tuy nhiên, “nên nhớ lại Tây Âu mới làm việc quần quật từ lúc có khoa học kỹ thuật. Còn triết lý lao động thì lại đến muộn hơn nữa, mới chừng một thế kỷ rưởi nay” thôi. Còn trước kia, Triết Cổ Điển Tây Phương “đã xao lảng việc đề cao lao động thì chớ, lại còn coi việc làm là hình phạt hay là cái chi hèn hạ, chỉ đáng dành cho Nô Lệ (gọi là servile). Aristotle cho việc lao tác là bất xứng với người Tự Do. Cũng vì đó mà triết Cổ Điển với Plato, Aristotle….. đã không tìm cách phá chế độ Nô Lệ, lại còn bào chữa cho là cần thiết để xã hội tồn tại. Vì xã hội mà thiếu lao động thì sản xuất sao nổi, mà ai lao động cho đây nếu không có Nô Lệ. Đây quả là một tang chứng về vụ Triết Học đã phản bội Con Người vốn

Vua Hùng của Người Việt Có Phải Vua Nước Sở không?

Lang Linh

Lịch sử Trung Quốc đã xác nhận nguồn gốc của nước Sở là quý tộc nhà Chu, là người Hoa Hạ, Hùng Dịch được phong cho đất Hồ Bắc, được họ gọi là “Sở Man”. Các tên có chứa chữ Hùng của vua nước Sở: Chúc Hùng, Hùng Lệ, Hùng Cuồng, Hùng Dịch, từ chi tiết “lấy họ Mị”, đã cho thấy, đây là các tên của các vị vua nước Sở, không phải là họ Hùng, mà họ chính xác là họ Mị.

Như vậy, chúng ta có thể thấy được nguồn gốc của nước Sở là vùng đất được nhà Chu phân phong cho các quý tộc của triều đại mình, đây là vùng đất mà nhà Thương đã chiếm được của tộc Việt. Các tên gọi của các vị vua nước Sở cũng cho thấy đây đơn thuần là tên, không phải các vị vua này có họ là Hùng, vì vậy sự suy diễn cho rằng vua nước Sở là vua Hùng là hoàn toàn không chính xác.

TỪ VIỆC “ ĐOẠT VĂN ” TỚI HÀNH VI “ CƯỚP QUYỀN TÁC GIẢ ”

Việt Nhân

Số là trước đây, Tôn Phi của Nghiệp đoàn Sinh viên Việt Nam trong nước  đã mệnh danh “ Phong trào Việt Hưng  “ để  tự động in sách của T.G.Kim Định để kiếm Lợi, nhưng không sinh hoạt gì về Văn Hoá Viêt .

Chúng tôi xin đính kèm  bài viết và hình của Tôn Phi, người đã tự động dùng tên của chúng tôi và ông Vương Trùng Dương  để lập ra Tủ sách khuyến học, và tự động in bài của chúng tôi, .một lần nữa tôi xin  nói rõ là tôi không liên hệ bất cứ việc gì với Tôn Phi và Văn Bút Việt Nam trong nước .

Xin đính kèm bài của Tôn phi về việc làm của Tôn Phi.

NHẬT KÝ. (ĐÔI DÒNG TÂM SỰ)

Triệu Vũ

….Vì tên của Cha có nghiã là “nước” nên Việt Minh nghĩ ra cách trói tay chân lại, rồi thả Cha xuống sông Kẻ Sặt, hiểu theo nghĩa “cho trôi sông” hoặc “mò tôm”. Quá nửa đêm, trời tối đen (Cha kể lại lúc sinh tiền) hai khuỷu tay bị trói  gặt ra phía sau, họ dẫn Cha lội xuống sông từ bờ phía nam. Khi  mực nước ngang bụng, một người trong bọn họ lấy đoạn dây thừng, khom người cột hai cổ chân của Cha, nhưng hình như chỉ quấn vài vòng lỏng lẻo và cột sơ sài ….rồi xô Cha vào dòng nước. Cha cố gắng rút bàn chân khỏi vòng dây thừng, dùng chân đạp nước, nín thở và cố lặn  sang bờ bên kia. Khi trồi lên, không ngờ chui vào giữa đám bèo tây dầy và lớn, đang trôi chầm chậm. Bọn thi hành lệnh thủ tiêu gồm ba người, nán lại một lúc nữa rồi biến dạng trong đêm. Sau này  gia đình biết được người cột dây thừng nơi cổ chân Cha đêm ấy là người đã mang ơn Ông Bà nội, cứu sống cả nhà anh ta ngày trước…Cha vẫn dùng hai chân đạp nước, ngửa đầu tựa trên đám bèo. Khi đã thực an toàn, Cha lên bờ phía bắc, toàn thân lạnh run, nhưng phải nhanh thoát khỏi nơi này. Tay vẫn còn bị trói, trên người chỉ còn cái quần đùi ngắn, Trời vẫn chưa sáng. Cha chạy đến nhà người phu xe kéo-còn gọi là xe tay- ở Phố Gỏi, cách bờ sông gần một cây số. Người phu xe rất ngạc nhiên và xúc động nghe cha yêu cầu giúp đỡ. Ông ta kéo cha vào trong nhà và vội

Từ Văn Tổ Tới Văn Miếu – Khi Rồng Việt Nam Uốn Khúc

Trích sách” Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên”- Triết Gia Kim Định

Các nước Á Phi vì đang mải miết tranh thủ độc lập và lo đuổi kịp đà tiến kỹ thuật, chưa nhận ra trạng huống bi thảm kia, nên nhào vô theo sát Âu Mỹ trên con đường dẫn tới những người không phẩm tính, không niềm tin, không một lý tưởng để hăng say… Có cần chúng ta phải theo Âu Mỹ trong vấn đề này chăng?

                   … ước ao đồng bào ta rút ra được kinh nghiệm để thiết lập nên một nền văn hóa dân tộc nối liền với nhân tộc, một nền triết An Vi đặt ngoài mọi tranh luận ý hệ ngoại lai cũng như các tranh thủ và vận động của các tôn giáo, một nền văn hóa dân tộc mà bất cứ người nào, hễ đã là con dân nước Việt cũng phải học, phải đọc, phải coi trọng như một di sản của tổ tiên trối lại, như một bửu bối giữ nước, càng ngày càng trở nên cần thiết trong một nước đa giáo.

                  Còn nếu đòi một “tôn giáo” cho quốc gia thì đó sẽ là “Gia Tiên” và “Quốc Tố” tức linh khí của nước non cũng gọi là Rồng Việt.

—————————————————————————————————————

Các tộc người tại Indonesia có phải người Việt cổ không ?

Lang Linh

Trong những năm gần đây, báo chí và các trang thông tin Việt Nam thường xuyên đăng tải và tuyên bố rằng họ đã tìm thấy người Việt cổ tại Indonesia, các bài báo được đăng trên các trang mạng thường cho rằng các tộc người Indonesia như người Minangkabau, người Dayak, người Toraja, người Batak Toba là những “tộc người Việt cổ” [1], nếu thử tìm bằng các từ khóa liên quan tới người Việt cổ, chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp những thông tin về hậu duệ người Việt cổ tại Indonesia, với tần suất xuất hiện rất dày. Điều này cho thấy quan điểm cho rằng các tộc người này là người Việt có độ phổ biến rất cao, được nhiều người Việt biết tới, gây ra những ngộ nhận không nhỏ về nguồn gốc dân tộc.

Triết Lý An Vi và Phép Thiền Chỉ Quán

Đông Lan

Mở đầu phép Qui Tâm theo Triết Lý An Vi, là bước Tri Chỉ, có nghĩa là Biết Dừng. Biết dừng là ở đâu? Dừng nơi chốn nên dừng. Tu theo pháp Nhân Chủ An Vi, là dừng lại nơi chính Trung, chính phận, chính vị của Người. Chúng ta đã hiểu Trung là gì, Chính là gì, Người là gì, tức là ta đã biết những nguyên tắc căn bản của định luật vũ trụ mà ta là một thành phần nhỏ bé mà linh thiêng, mầu nhiệm. Trên con đường Qui Tâm, ta có thể áp dụng trợ duyên từ Thiền Chỉ Quán để đạt thanh tịnh và cũng là trau giồi đạo đức cá nhân. Từ Tri Chỉ đến Thiền Chỉ là một kết hợp hài hòa giữa cái biết và làm, là dừng lại nơi Lưỡng – Nhất – Tính của vạn vật.

Từ Tri Chỉ đến Thiền Chỉ, Định Trí, Tĩnh Lặng, An Vi rồi cuối cùng Tâm thức lại xóa bỏ cả An lẫn Vi chính là Pháp Thiền Chỉ Quán của Phật Giáo.

Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa

Rạng ngày 13/11/1956, một cuộc biểu tình vĩ đại với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu Khởi Nghĩa đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục:

Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Tiêu diệt đảng cờ Hồng
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta



Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty công an Nghệ An, hô thật to những khẩu hiệu:

Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân.

Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu,.

Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt…

Công an tỉnh lẫn trốn từ lâu trước khí thế nàỵ Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế

Triết Lý và Thi Ca

Lê Việt Thường

..Triết Gia Heidegger tự hỏi là cuối cùng có sự khác biệt nền tảng nào chăng giữa NHÀ THƠ biết Suy Tư và NHÀ TƯ TƯỞNG có tâm hồn Thi Sĩ ? Theo ông, trên nguyên tắc, Thi Sĩ không cần phải biết Suy Tư và Tư Tưởng gia không cần phải biết làm Thơ. Nhưng muốn trở thành THI HÀO, THI BÁ, tức Thi Sĩ Hàng Đầu, có một loại Suy Tư mà Nhà Thơ cần phải thực hiện, có cùng chung một nội dung, tinh hoa với loại Suy Tư mà Tư Tưởng Gia Hàng Đầu phải thực hiện: đó là loại SUY TƯ mang tính chất Tinh Khiết, Thâm Hậu,Vững Chắc của THI CA, tức loại Suy Tư mà Ngôn Từ và nội dung chính là hiện thân của Dòng Thơ Lai Láng!

………….

Tóm lại, chủ trương Ý-TÌNH- CHÍ của VIỆTNHO có vẻ đi rất đúng đường TIẾN HÓA của Khoa Học và Triết Học ngày nay. Triết Gia Heidegger cũng có nhận định như sau “Chỉ duy nhất có THI CA mới đứng trên cùng bình diện với TRIẾT LÝ và Suy Tư Triết Lý”.(10) Và có lẽ chỉ Ở TRÊN ĐỈNH CAO VÚT CỦA TRIẾT LÝ và THI CA NGƯỜI TA MỚI BẮT GẶP ĐƯỢCMINH TRIẾT

Cuộc Cách Mạng 1/11/1963

Vũ Ngự Chiêu

Trích: Ngô Đình Nhu, Chết Khó Nhắm Mắt

(6) Khi Lodge đứng dạy cáo từ, Diệm nói: Làm ơn nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi là một đồng minh tốt và thẳng thắn [good and frank ally]. Tôi muốn bộc trực và giải quyết các vấn nạn bây giờ hơn là nói về chúng sau khi chúng ta đã mất tất cả. (Câu này giống như đề cập đến cuộc đảo chính có thể xảy ra). Nói với Tổng thống Kennedy rằng tôi nghiêm túc ghi nhận những đề nghị của ông ta và muốn thực hiện chúng nhưng chỉ còn vấn đề thời điểm (timing).

Cơ sở tiếp cận và nghiên cứu về thời kỳ Hồng Bàng

Lang Linh

Kỷ Hồng Bàng là một trong những giai đoạn gây tranh cãi nhất trong lịch sử Việt Nam, vì nhiều yếu tố, nên kỷ Hồng Bàng không được nhiều người Việt chấp nhận về cơ sở thực tế, các quan điểm này thường dựa trên một số lập luận cơ bản, như vấn đề thời điểm xuất hiện của truyện họ Hồng Bàng trong sách Lĩnh Nam chích quái, hay những yếu tố mang tính thần thoại không có thực trong truyện, từ đó họ cho rằng họ Hồng Bàng không tồn tại trong hiện thực lịch sử. Bên cạnh đó, cũng có một số học giả và nhà nghiên cứu Việt Nam như tác giả Tô Như [1], học giả người Mỹ như Liam Kelley [2] đã viết một số bài viết cho rằng truyền thuyết họ Hồng Bàng là truyền thuyết được kiến tạo vào thời trung đại. Điều đầu tiên khi tiếp cận và nghiên cứu về truyện họ Hồng Bàng, thì chúng ta cần có một thái độ trân trọng,….

Điều thứ hai, đó là chúng ta hoàn toàn có thể tìm hiểu về truyện họ Hồng Bàng dựa trên các nghiên cứu khoa học, để thử xác định xem truyện họ Hồng Bàng có mâu thuẫn với khoa học hay không. Quá trình này cần bắt đầu từ việc đi tìm hiểu, xác định về nguồn gốc dân tộc, biết dân tộc mình từ đâu tới, tiến trình phát triển như thế nào, cũng như xác định không gian của truyện họ Hồng Bàng, so sánh, đối chiếu các chi tiết trong truyện với các nghiên cứu, chúng ta sẽ thấy được những cơ sở về thực tế của truyện họ Hồng Bàng.

Bài Tổng Kết về việc Con Cháu Bác Hồ Tiếm Danh An Việt

Lời Ngỏ

Như chúng ta đã biết, khi vừa qua tỵ nạn CS tại Hoa Kỳ, Cố Triết Gia Lương Kim Định song song với việc viết sách cho hoàn tất một Bộ sách Triết Lý An Vi và Việt Nho với tầm nhìn hàng thế kỷ, đã để lại cho Dân Tộc Việt một hoạ đồ dựng xây quê hương ngàn năm vinh vượng.

Gần đây, tại Việt Nam, có những nhóm mượn danh nghiã An Việt –  Hành trình văn hoá Phục Việt của Ngài để lạị –  nhưng  họ lại  không làm gì phát triển An Việt, không thật sự thực hành ý thức, đạo lý của An Vi, chỉ mượn tên vì háo danh, hoặc với nhiều mục đích nào khác. Tệ hại nhất, theo trào lưu a dua, sau CPTPP, một số nghiệp đoàn đã thành lập, và sử dụng  Việt Nho  cho những xảo thuật tuyên truyền, phe nhóm,  làm giới trẻ,  và những người Việt còn chút lòng chung  bị sa vào cái bẫy sập tù tội, hay bị lợi dụng cho những mưu đồ cá nhân, bất chính.  Gần đây nhất, ngày 01-10-2021 một bài viết công khai ca ngợi Hồ Chí Minh tung ra  trong nhóm Nghiệp đoàn sinh viên ( đã giải thể), tự xưng là An Việt ở trong nước, khiến  Việt Nhân –  một thành viên lão   thành  – phải lên tiếng  vạch rõ việc thật giả đang rất khó phân này.

Với góc nhìn từ Tâm đạo Việt, chúng tôi phổ biến những bài viết của tất cả. 

  Phần thẩm định, xin nhường cho độc giả.

——————————————————————————————————————-

Trường Hợp «Tinh Hoa Ý Thức Hệ Việt Nho» của Gs Trần Văn Đoàn

Lê Việt Thường

Sự kiện dân tộc VIỆT đánh mất nền Độc Lập CHÍNH TRỊ cách đây hơn 100 năm kéo theo nhiều hậu quả không lường trước được. Thật vậy, nếu xưa kia, sự LỆ THUỘC thường được chấm dứt với sự ra đi của kẻ xâm lăng, thì lần này trái lại, chính giới TRÍ THỨC của nước Bị Trị, vô tình hay hữu ý lại tiếp tục Dung Dưỡng, kéo dài tình trạng Lệ Thuộc rất lâu sau khi kẻ xâm lăng đã ra đi.. Lý do có lẽ là vì lần này, sự đánh Mất Chủ Quyền không chỉ giới hạn ở lãnh vực Chính Trị, mà tính chất TOÀN DIỆN hơn nên lan rộng ra ở mọi địa hạt, nhất là ở bình diện Văn Hóa, Triết Học.

«Bóng Ma» DĨ VÃNG vẫn không thôi Ám Ảnh giới Trí Thức và Lãnh Đạo Việt. Đến nỗi để biện minh cho các CHIÊU BÀI như Canh Tân, Gỉai Phóng …họ vẫn Trở Lại bàn về những Vấn Đề, dùng những Phương Pháp Lý Luận, cũng như đưa ra những Gỉai Pháp của các Thế Kỷ TRƯỚC . Họ làm như hơn một thế kỷ trôi qua, không có biến chuyển gì quan trọng đã xảy ra cả! Nói cho đúng, họ có nhận thấy sư thay đổi, rất nhiều thay đổi là đàng khác nhưng họ chỉ giới hạn sự QUAN SÁT ở bình diện THƯỜNG NHẬT hay ở các địa hạt như Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội…,

Cuốn Sách Giải Mã Nguồn Gốc Người Việt

Nhà văn Vũ Trọng Phụng và câu chuyện con trai Vũ Trọng Khanh

Trần Hoàng Thiên Kim – Hòang Hải Thủy

Ối.. ông Đại Tá Vũ Lăng ơi.. Lộng giả thành chân có thế thôi..! I can You. I xin You. Ông định làm trò lộng giả thành chân nhưng không được đâu, nhiều khi lộng giả không thành chân, thành cẳng mà là thành dzởm! Ông dựng đứng lên những chuyện không thật, chúng tôi biết những chuyện ông nói không thật, chúng tôi bắt buộc phải lên tiếng.

AN VI và Tranh Thập Mục Ngưu Đồ

Đông Lan

Với Thiền, tu thì Tiệm, mà chứng thì Đốn. Nghĩa là, sự tu tập thiền vẫn cần đặt ra trong chiều thời gian mà đi đến từ từ, nhưng chứng là một biến cố ngoài thời gian. Thập Mục Ngưu Đồ ( mười bức tranh chăn trâu) của Thiền Tông cũng ghi lại bước tiến từng thứ bậc ấy.
Bước tiến ấy theo ba đoạn đường: Hữu Vi- Sai Tâm bắt Tâm; Vô Vi- Tâm Vô Tâm; An Vi- Bình Thường Tâm.

……….Chú mục đồng trở về với trời đất, có trời trong ta mà cũng có đất trong ta. Thế gian này trong muôn vật phân chia vọng động mà ta vẫn Bình An Thanh Tịnh, nếu không có cảnh Sắc này làm sao ta liễu ngộ cảnh Không? Ô kìa, núi vẫn là núi, mà mây cũng vẫn là mây, Tâm Hư Không mà đâu đâu không là cảnh hư không, nhìn hư huyễn trong sắc giới, thấy (kiến) Chân Như giữa đời thường, Tâm Bình An chính trong vọng động. Ôi, con đường đi của Thiền giả, bước Nghĩa Hành Trí Thức An Vi…“Vào rừng mà không khua lá, vào nước không quậy sóng”… Tu mà không biết mình tu, làm mà không thấy mình làm, trở về với trời đất để thấy Tâm ta là Tâm vũ trụ mà Tâm vũ trụ cũng là Tâm ta (tranh 9: Trở về nguồn cội). Và nữa, trở về với cuộc đời, với thế tục, trở về với cái Tâm Bình Thường, đất bụi đời không lem lấm được Tâm ta, thần linh hiển thánh trong từng nhất ý, nhất động của Ngôi Lời Nhập Thể và Nhập Thế (tranh 10: Thõng tay vào chợ), đâu đây lời Thánh Ca vang lên ngút ngàn

Chính Khí Việt

————————————————————————————————————–

Lý Đông A, Chính Khí Việt và Nghệ Thuật

Viên Linh

Với một nhân vật chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn ngủi, khoảng sáu năm, từ 1940 tới 1946, rồi không còn tăm tích, trong một cuộc đời hiện thực có thể cũng ngắn ngủi: hai mươi sáu năm – từ lúc lọt lòng mẹ tới khi ra khỏi cuộc nhân quần -, Lý Đông A đã để lại sau bóng dáng tiên tri mông lung của mình một huyền thoại lớn. Từ một nho sinh mảnh mai năm 16 tuổi ở làng Yên Tập tổng Yên Đổ Hà Nam, đến tay súng giữa trận tiền trên đồi Nga Mi, Ninh Bình, mái tóc xanh rũ xuống những pho kinh sử nơi Liễu Châu thư viện, và khuôn mặt đăm chiêu thi sĩ bên dòng Pắc Nậm, trên bến Đà Giang. Huyền thoại của ông, đó là huyền thoại một thiên tài yểu mệnh, một lý thuyết gia xuất chúng, một nhân kiệt không ước hẹn gắn bó gì với nhân gian. Vận nước trong cơn suy, linh khí vào mạch tận, anh hùng cái thế xoay không nổi cơ trời. Nhưng căn cứ vào những gì ông để lại, từ Huyết Hoa đến Đạo Trường Ngâm, ông là một tác giả, một nhà thơ chính khí, và là nhà thơ chính khí hàm xúc nhất của thập niên ’40, nếu không là của thế kỷ XX:

Thành Kính Tưởng Niệm Đức Trần Hưng Đạo 20 Tháng 8 -Việt Lịch 4900

BẠCH ĐẰNG chứng tích của một chiến công ngoạn mục đã được tìm thấy dưới những ao nuôi cá và ruộng lúa chung quanh sông Bạch Đằng của Việt Nam

Tác giả: Lauren Hilgers – An ancient battlefield emerges. Evidence of a dramatic military victory has been found beneath fishponds and rice paddies around Vietnam’s Bach Dang River.

Ngày nay, vùng đất gần địa điểm sông Bạch Đằng đổ vào vịnh Bắc Bộ và Hạ Long ở miền bắc Việt Nam nom như một mảnh vá chằng chịt ruộng lúa, làng mạc và ao nuôi cá nhân tạo. Nhưng cách đây 700 năm, trước khi nhiều thế hệ nông dân đến thay đổi cảnh quan nơi này, đấy là một dải đầm lầy duyên hải trải ra hàng chục cây số vuông, một vùng đất ẩm ướt biến đổi không ngừng, nơi con sông trải hình nan quạt thành những dòng suối mầu mỡ quanh co. Các đảo nhô lên khỏi mặt nước để rồi biến mất theo từng con nước thủy triều, các cồn cát nhường chỗ cho các cửa sông sâu, và cả các mô đất cao lẫn các kênh lạch mà thuyền bè có thể qua lại cũng thường biến đổi khó lường. Vùng này dân cư thưa thớt, nhưng sông Bạch Đằng lại là cửa ngõ để đi vào trung tâm quyền lực của Việt Nam [tên nước lúc bấy giờ là Đại Việt.- dịch giả]. Nó là một phụ lưu của sông Hồng, một con sông bắt nguồn từ Hoa Nam và đổ xuống Vịnh Bắc Bộ.

TRỞ VỀ TÔ THẮM QUÊ MẸ

Thư Hương ( Thái Bình Minh TriếtTriết Gia Kim Định )

Phật Giáo là một thực thể rất phiền toái vì vừa là một nền triết vừa là một tông giáo và tuy phát xuất từ Ấn Độ nhưng hồn lại từ Đông Á, lại du nhập vào nhiều nơi như Tàu, miền Đông Nam (các nước tiểu thừa) và Việt Nam. Chính sự du nhập ở nhiều nơi này giúp tìm ra những nét then chốt trong Phật Giáo, giúp cho thẩy mối liên hệ giữa Phật Giáo và Việt Nam có tính cách họ máu hàng dọc, được chứng tỏ bằng những lâu đài văn hóa cao cả không đâu có được như vậy. Xứng đáng là mô thức cho các cuộc giao thoa văn hóa khác. Ta sẽ lần lượt xét sơ qua.

TRẦN NHÂN TÔNG VÀ DẤU ẤN TÂM LINH VIỆT

Tâm Hà Lê Công Đa

Trong khi cả thế giời đang rung chuyển trước bước tiến vũ bão của đoàn quân thiện chiến Mông Cổ thì vó ngựa của đoàn quân xâm lăng hung hãn này đã ba lần phải khựng lại trước bức tường ý chí sắt thép của quân dân Đại Việt. Cả ba lần xâm lược cả ba lần đều bị đánh tan. Việt Nam trở thành một mối ám ảnh kinh hoàng của cả triều đình, binh tướng Nguyên Mông, đến độ mấy năm sau, Trần Phu, một viên quan cầm đầu sứ bộ nhà Nguyên khi đặt chân vào đất nước Việt Nam còn cảm thấy rùng mình:
Kim khoa ảnh lý đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
(Giáo sắt sáng ngời lòng thắm khổ
Trống đồng vang dội bạc đầu phơ)
Sự kiện này đã làm cho rất nhiều người, kể những nhà nghiên cứu sử học trên khắp thế giới, không khỏi ngạc nhiên nêu lên câu hỏi: Cái gì đã tạo nên sức mạnh vô song này? Cái gì đã là chất keo gắn bó mọi tầng lớp, đẳng cấp xã hội dân chúng đời Trần tạo nên sức mạnh Diên Hồng, đập tan cả một lực lượng quân sự hùng mạnh vào bậc nhất thế giới đương thời?

VÀI SUY NGHĨ VỀ PHẬT GIÁO HÒA HẢO

Triết Gia Kim Định

Ngoài Hòa Hảo và Nho thì cho đến nay, không có Chủ Đạo nào khác… mà chỉ có chủ thuyết, tức mới ở đợt ý hệ, chưa lên đến đợt tâm linh để thành chủ đạo. Chúng phát xuất, hoặc do triết học tất cả còn duy ý, hoặc do tôn giáo thì chỉ là tầm gửi. Đức Ki Tô đã nói “nước ta không thuộc trần gian”, nên giáo sĩ bị cấm làm chính trị, còn giáo dân thì có làm, nhưng chỉ là chính trị ở lương tri, ở đợt lợi hành, tiếng là Ki Tô, nhưng trong Ki Tô không có nền tảng chính trị.

——————————————————————————————————————–Phất Thủ Liệu Pháp

Phất Thủ Liệu Pháp hay còn gọi là phương pháp trị bệnh bằng cách vẫy tay hay lắc tay đã được người Việt chúng ta biết đến khá nhiều trong khoảng 3 thập niên qua. Một phương pháp luyện tập rất thích hợp với người lớn tuổi vì giản dị, nhẹ nhàng với chiêu thức tóm tắt gần như còn có một động tác, có thể tập tại nhà, lúc nào tập cũng được nhưng có kết quả rất cao với khá nhiều chứng bệnh, qua sự chứng nghiệm của rất nhiều người.
Nhận thức được chân giá trị của Phất Thủ Liệu Pháp, người viết đã tham khảo và tổng hợp các kiến thức (lý giải) quí giá từ tài liệu của các Đông Y sĩ, Y sĩ và kinh nghiệm của những người luyện tập để đúc kết thành bản tài liệu dưới đây, hầu giúp cho người đọc cũng như người luyện tập có được một cái nhìn trọn vẹn trên nhiều khía cạnh khác nhau

AN VI: ĐƯỜNG VỀ MINH TRIẾT VIỆT

Đông Lan

Đường Về Tính Thể Viên Dung của Chân Lý An Vi

Nhận thấy chủ thuyết tư bản và cộng sản cũng chỉ là những lý thuyết kinh tế, đã thất bại trong việc mang lại tự do, bình đẳng và nhất là phẩm giá chân thực cho con người. Bộ sách Triết Lý An Vi là hướng đi Nhân Bản nhằm cứu gỡ bế tắc của tư bản hay là cộng sản. Nó xác tín lại giá trị nền tảng của con người, giới thiệu một vũ trụ quan và nhân sinh quan tiếp cận Chân Lý Toàn Diện. Đó là điều cả hai xã hội tư bản và cộng sản đang thiếu, và là nguyên nhân những khổ nạn của bao thế hệ .

ANH HÙNG KHẤT THỰC – CHUYẾN CẦU VIỆN NĂM 1950

Vũ Ngự Chiêu, Ph.D., J.D.

Từng trang lịch sử, buông hờ hững,

Xương máu còn tanh những dối gian

NGUYÊN VŨ, 1985

Trong đời hoạt động của Nguyễn Sinh Côn [Hồ Chí Minh]—ngoại trừ chuyến “đi biển” năm 1911, do tự nguyện—mỗi cuộc xuất ngoại đều có sứ mạng riêng. Chuyến đi Nga cuối tháng 6/1923 từ Paris—do Đệ Tam Quốc Tế “Cộng Sản” [ĐTQT, Comintern] dàn xếp—là chuyến cầu viện thứ nhất. Nó mở ra cho Côn giai đoạn hoạt động suốt 22 năm kế tiếp như một cán bộ ĐTQT chuyên nghiệp [apparatchiki,agitprop=political agitation and propaganda]. Chuyến đi bộ 11 ngày lên Côn Minh [Kunming], Vân Nam [Yunnan] vào cuối năm 1944 cầu viện Mỹ—qua đường giây Tướng Claire Chennault, chỉ huy trưởng phi đoàn Cọp Bay [Flying Tigers], và Sở Tình Báo Chiến Lược [Office of Strategic Services], tiền thân Cơ Quan Tình Báo Trung Ương [Central Intelligence Agency], mở ra cho Côn cơ hội bằng vàng chiếm chính quyền trong vòng tám ngày ngắn ngủi từ 17 tới 25/8/1945 như một “đồng minh tự phong”của Mỹ, rồi tuyên bố độc lập với Pháp chiều 2/9/1945 ở vườn hoa Ba Đình

Tìm Kiếm