…..
Ba Sinh Hương Lửa
Tác giả: Doãn Quốc Sỹ
2. 2
Phần II – MÀU TÍM HOA LAU -Chương 1
I
Thì Miên vẫn đẹp, nhưng nàng đẹp dịu dàng quá, thùy mị quá nên khi ngắm nàng đức tính dịu dàng thùy mị đó tỏa ra từ gương mặt,..từ ánh nhìn, từ cử chỉ, từ lời nói mà choán hết mọi ý nghĩ khác muốn so sánh về vẻ đẹp quyến rũ của hình thức. Có thể nói Miên là hiện thân của hiền dịu.
Cha nàng là người Phúc Yên, mẹ nàng là người Bắc Ninh. Hai người lấy nhau rồi lên huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) sinh sống tại làng Hạc Thủy. Cha mẹ nàng chỉ có một nghề: ngày ngày thức dậy từ sớm – mùa hè cũng như mùa đông – đi vào rừng đốn củi làm than rồi đợi đến ngày phiên chợ – ngày bốn, ngày chín – gánh than đi bán. Công việc thì nặng nhọc, nhà thì nghèo, hai người ít dám nghỉ. Khi có mang lần thứ ba, người con gái xinh ròn xứ Bắc trông đã hom hem như một bà già tứ tuần. Đứa con được đẻ ngay trong khu rừng làm than. Người mẹ đem hết sức tàn rặn đẻ, khi đứa con trai nhoai khỏi lòng bà, cất tiếng chào đời, thì bà cũng vừa kiệt lực, hắt hơi thở cuối cùng, toàn thân dúm lại lẫn với đống giẻ rách là váy và áo của bà. Đứa con trai đó là Mẫn. Sau này Miên tuy không hề chủ tâm mà vẫn nhớ đến ngày sinh nhật của em, vì ngày đó chính là ngày nàng thắp đèn thắp nhang và quỳ xuống lễ trước bàn thờ cha mẹ.
Kể ra ở hoàn cảnh như vậy mà ba anh em nàng cũng ăn học khả dĩ tạm gọi là đến nơi đến chốn cũng là điều hiếm có trên đời. Nguyên do sau ngày mẹ nàng chết trong rừng, cha nàng vừa phiền muộn lo âu vừa cố công gắng sức trong nhiều công việc nên phát bệnh tê thấp. Căn bệnh hành hạ ông một năm giời liền. Thoạt những buổi sớm mùa đông rét cắt ruột ông vẫn đi rừng làm củi. “Không đi để con chết đói sao?” – ông tự nhủ thầm vậy. Và theo tiếng gọi của linh tính ông ra công làm gấp, dành dụm được một số tiền nhỏ. Rồi căn bệnh hành ông liệt giường trong một tháng, số tiền để dành đủ nuôi ba con bằng cơm độn ngô rưới nước tương. Rồi ông hấp hối… Ai cũng tưởng chỉ qua đêm là ông tắt nghỉ nhưng ông đã hấp hối năm ngày liền. Hình như ông chờ…. Và ông tắt thở vào đúng khoảng nửa đêm về sáng cùng với ngày mà hai năm trước đây vợ oongsinh thằng út rồi chết ngay trong rừng làm củi. Khi đó Hiển, người anh đầu lòng vừa lên chín, Miên lên năm và Mẫn lên ba. Ba anh em mồ côi được bà hàng xóm góa chồng giàu và nhân đức – bà quản Mão – nhận nuôi.
Ông quản Mão đi lính khố đỏ tự bao giờ không ai rõ chỉ biết ông có sang Tây đánh trận 1914-1918. Khi vừa vào lính ông tuyên bố với các bạn đồng đội: “Tôi chỉ học ba tháng là khối chữ!”. Không ai hiểu phương pháp ông học ra sao nhưng quả ba tháng sau ông đã cãi nhau văng mạng với lính Tây bằng tiếng Tây, tiếng Tây bồi lẽ cố nhiên, nhưng với tất cả sự phản ứng mau lẹ, sự am hiểu đối tượng câu chuyện cùng tinh thần ngoại ngữ đó. Năm 1917 ông bị bắt làm tù binh, ông hón miệng huýt một tiếng sáo rồi nói với các bạn đồng hội đồng thuyền: “Khó đếch gì tiếng Đức, tôi chỉ học ba tháng là khối chữ!” Rồi người ta thấy mỗi khi giao thiệp với tên cái tù Đức – tên này khi nói tiếng Đức khi nói tiếng Pháp – ông giở sổ ghi ghi chép chép. Cũng chỉ trong vòng ba tháng ông đối đáp tiếng Đức với tên cai tù Đức, chiếm cảm tình tên này, và được y cất nhắc lên chức phụ tá, giúp y trong việc phân phát thực phẩm, phân phát dụng cụ làm việc hàng ngày và phân phát cả thư từ nữa. Năm 1918, Đức thua trận thành ra đương ở cương vị “thằng tù” ông lên địa vị “ông tù” để quân Đức phải thù phụng. Ông lại được thăng lon tù đội lên phó Quản. Ông và mấy trăm bạn đồng ngũ còn ở lại ăn hại nước Đức ngót hai năm sau nữa. Trong thời gian đó ông lấy một người vợ Đức. Nhưng khi được gọi về Pháp để xuống tầu về nước ông không một chút bịn rịn với người đàn bà tóc vàng mắt xanh, cũng hiền hậu, cũng chịu khó, không khác gì bà Quản ở quê nhà. Ông nhớ quê nhà lắm! Ông quý quê nhà lắm! Tuy là đi lính cho Tây, đánh Đức cho Tây, lĩnh lương của Tây mà ông vẫn một điều gọi chúng là “thằng Tây”, hai điều gọi chúng là “thằng lõ”, ông yêu quý quê nhà hồn nhiên như thế nào, đi lính hồn nhiên như thế nào thì ông cũng ghét Tây hồn nhiên như thế ấy. Bà Quản đã xin được thẻ căn cước để vào tận Sài Gòn đón ông lại bến tàu. Ông Quản được đóng ngay ở Sài Gòn! Gặp lại bà Quản, ông không hối hận về việc mình đã lấy vợ Đức vì ông nghĩ rằng: “Cũng may chưa có giây có rễ gì với nó” – (chưa có con)! Chuyến đi đón chồng của bà Quản vô tình lại hóa hay; bà gặp một người chị em bạn đương buôn bán ở Sài Gòn, người đó rủ bà buôn chung, bà bèn cho đón hai cô con gái còn ở ngoài Bắc vào Nam để bà yên chí sinh cơ lập nghiệp tại đây. Thời ấy ở Sài Gòn buôn bán dễ lắm, chỉ cần chịu khó chút xíu là được, mà bà Quản lại là con gái huyện Lập Thạch, quê của những người đàn bà Bắc đảm có tiếng, đảm đến nỗi dư luận đã thốt thành ca dao:
Nửa đêm ân ái cùng chồng,
Nửa đêm về sáng gánh gồng ra đi.
Bà Quản buôn bán thịnh vượng, ba năm sau, ông Quản tự ý xin giải ngũ để về giúp việc bà! Ông giúp việc bà được hơn bốn năm thì một buổi chiều kia ông kêu rức đầu, rồi ông ho mấy tiếng, mười giờ tối tiếng ông nói hơi khàn khàn và mười giờ sáng hôm sau ông ra đi vĩnh viễn, người vẫn béo tốt. Người ta bảo ông đứt mạch máu. Cả cuộc đời của ông thực hồn nhiên cho đến lúc chết!
Ông Quản mất đi, bà Quản còn nán lại Sài Gòn hơn một năm nữa nhưng thấy chán buốn chán bán, bà thu xếp mang ba con về Bắc (một con bà sinh ở Sài Gòn). Về tới quê, làng Hạc Thủy, bà tậu ruộng và xoay sang nghề nông. Bà trông nom cầy cấy cũng đảm như bà buôn bán vậy. Ngoài căn nhà cũ ở giữa làng mà bà sửa sang làm nhà ở và cũng đồng thời là nơi thiết lập ban thờ ông Quảng, bà còn lập một cái trại chăn nuôi gà, lợn, trâu, bò ở trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ giữa đồng làng.
Ngày về tới làng, cô gái lớn của bà vừa mười sáu, tên cô là Nẵng – cô sinh ở Đà Nẵng – hồi đó ông Mão còn mang lon Cai. Cô gái thứ hai kém cô chị hai tuổi, mười bốn, tên là Nhơn – cô sinh ở Quy Nhơn – đúng vào năm ông Mão lên lon “Cai Xế”. Cậu út sinh ở Gia Gòn mới lên ba. Quãng cách mười năm đó đúng vào thời gian “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc” và ông Mão lên chức Đội, sang Tây dự chiến. Cậu út này mang tên là Tài. Lẽ ra cậu phải tên là Goòng mới đúng lề lối của ông bà Quảng thường lấy địa danh nơi sinh đặt tên con làm kỷ niệm. Nhưng có lẽ ông Quảng thấy tên Goòng không hay và đúng vào thời thần tài mở rộng cửa, ông Quảng sau một cái tặc lưỡi bèn bảo bà Quản đặt tên cho thằng bé là Tài.
Về đến làng Hạc Thủy thì một năm sau Nẵng đi ở riêng, chồng là người làng bên. Năm sau nữa đến lượt Nhơn đi lấy chồng người cùng làng. Đúng vào năm cha Miên mất! Bà Quản vốn tính tình rộng rãi nhân đức bèn nhận nuôi cả ba anh em mồ côi đó: Hiển, Miên, Mẫn.
Hiển, Miên và sau này Mẫn nữa tuy có phải làm việc nặng nhọc nhưng ngày ngày nửa buổi sáng vẫn được theo học trường làng. Căn nhà nhỏ, mảnh đất của ba anh em ở ngay sát bên nhà bà Quản vẫn được rào dậu kín đáo.
Cứ như vậy ba năm qua…
Chợt một hôm có một người lạ đến tìm ba anh em mồ côi, người đó tự xưng là chú ruột. Câu chuyện thật nhiều uẩn khúc! Ba anh em khi đó nào đã biết đâu cảnh cha mình thủa nhỏ bị hất hủi rồi hai vợ chồng bỏ làng lên đây. Hiển vừa mới mười bốn tuổi, qua lời kể của ông chú, cậu bé chỉ lờ mờ hiểu rằng bà nội cậu mất đã được hai năm nay, tên ông chú này là Thuật, tên cha mình xưa là Lễ và trên ông Lễ còn người anh trưởng tên là Hoạch hiện cũng giàu lớn vì buôn chung với ông Thuật ở Sài Gòn. Chuyến đi này một công đôi ba việc, ông Thuật ra Bắc vừa để thực hiện một việc kinh doanh vừa để thăm nơi chôn rau cắt rốn vừa để lên huyện Lập Thạch tìm hiểu gia đình ông Lễ. Ông đã lần mò hỏi thăm đến làng Hạc Thủy thì chỉ còn được thấy ba đứa cháu mồ côi. Ông ngỏ ý với Hiển là sẽ mang Mẫn vào Nam nuôi cho ăn học. Lời đó thoạt nghe Hiển tưởng như một tia sét từ lưng trời bổ xuống đầu mình. Tin đó đến tại Miên nàng òa khóc ôm lấy em.
Bà Quản mời ông Thuật ở lại trại mấy ngày; vì việc kinh doanh ở Hà Nội đã sớm thu xếp xong ông nhận lời. Bốn chú cháu được dịp chung sống gần nhau để hiểu nhau. Ông Thuật đã ở lại trại đúng một tuần lễ. Trước khi đem Mẫn cùng đi, ông mang Hiển và Miên đến ủy thác cho gia đình một người bạn buôn già ở Hà Nội. Lẽ ra với sự quảng giao của ông, ông có thể xin cho Hiển học ở Lycée Albert Sarraut, ngặt vì Hiển đã quá lớn tuổi mà sức học lại non quá. Sau cùng ông đành cho Hiển, Miên học tư ở ngoài, cùng một trường để anh em trông nom dẫn dắt lẫn nhau. Ông hứa tháng tháng sẽ gửi tiền đều đều cho. Ông đã làm như lời.
Vốn là con nhà nghèo, ông chú thỉnh thoảng có viết thư báo cho hai anh em biết về sức khỏe và việc học của Mẫn (Mẫn học ở Lycée Chasseloup Laubat). Tuyệt nhiên không có lá thơ nào của chính tay Mẫn viết. Miên được Hiển phân tích và giải thích cho hay là ông chú hẳn có ý muốn độc chiếm Mẫn nên tìm cách cắt đứt mọi liên lạc trực tiếp giữa Mẫn với anh và chị. Sự thực Hiển đã hiểu lầm! Đâu phải ông cốt ý như vậy, ông đã có một gái và một trai, ông hiện tới mức buôn bán quốc tế, công việc giấy má giao thiệp thật bề bộn, thỉnh thoảng ông còn để được chút thì giờ viết cho hai cháu ở Bắc đã là chu đáo lắm. Mẫn còn trẻ người non dạ, phải có người bảo người giục mới viết, ông Thuận còn làm gì có thì giờ giục Mẫn viết thư, gà Mẫn viết thư?
Cũng trong khoảng tám năm ấy, vào các dịp lễ nghỉ nhiều ngày, cùng suốt các vụ hè ba tháng, Miên đều được Hiển đưa về Lập Thạch. Hai anh em qua lại thăm hỏi rất thân mật bà Quản và thực tình coi bà như mẹ nuôi. Bà Quản đã giúp hai anh em sửa sang lại căn nhà cũ của cha mẹ để ở. Đặc biệt chiều ba mươi tết năm nào hai anh em cũng về làng để vác sẻng cuốc ra đồng tảo mộ cha và mẹ chôn bên nhau trong cùng một thửa ruộng.
Tài, cậu con út bà Quản, đồng niên với Hiển, cũng lên Hà Nội học từ mấy năm nay nhưng mới đỗ xong Thành Chung. Tuy hai người học ở hai trường ít gặp nhau, nhưng vẫn nhớ nhau quý nhau và mỗi dịp hè là một dịp vui gặp mặt họ.
Miên lớn lên, tính tình càng thùy mị nhiều khi đến rụt rè. Đồ trang điểm duy nhất của Miên chỉ là chiếc nhẫn Saphir màu đỏ hoa lựu. Chiếc nhẫn này nàng mua vào dịp đầu xuân năm mười bốn tuổi. Thoạt nàng đeo nó ở ngón giữa, sang năm mười sáu tuổi, nàng chuyển nó sang ngón đeo nhẫn, rồi tới năm nàng mười tám tuổi chiếc nhẫn được chuyển một lần cuối cùng sang ngón tay út. Kể từ ngày Miên tới tuổi đôi tám, Tài thường có thái độ rất lúng túng mỗi khi giáp mặt Miên. Lớn lên tới tuổi mười tám, dáng người Miên nhỏ nhắn với một vẻ dịu hiền từ nụ cười đến khóe mắt. Nàng như một nàng tiên nhỏ ngỡ ngàng vui với cảnh trần mà vẫn chưa biết mình bị đày xuống đó.
Ngay từ đầu làng Hạc Thủy là khu rừng đưa dần lên là khu rừng đưa dần lên đỉnh một ngọn núi đất khá cao. Trong vụ hè những đêm có trăng sáng Miên rất thích ra đầu làng ngẩng đầu nhìn bóng trăng ngọc ngà hoặc lẫn trong mây bạc, hoặc lùng lững đi sâu vào khoảng vô tận với những đợt mây khói xám trôi nhè nhẹ như một dòng sông xuân.
Tài nhận biết điều đó và thường theo dõi bằng mắt bóng trắng hiền lành của Miên lặng lẽ tiến ra rồi khuất sau khúc quanh của con đường lát gạch dẫn tới đầu làng. Sau nhiều lần suy nghĩ Tài đặt tên thầm cho Miên là “Nàng tiên đi dưới trăng”. Và sau nhiều lần ngập ngừng, đến một đêm trăng mười sáu kia Tài đánh bạo theo bóng Miên ra đầu làng. Khi tiến lên, Tài giả vờ như vô tình gặp Miên rồi – phải bạo dạn lắm – Tài cười nói với Miên:
“Cô Miên này, cô đúng là nàng tiên đi dưới trăng”. Tài cười tiếp để che giọng bẽn lẽn vừa qua, rồi đi luôn để chân tay khỏi lúng túng. Miên không kịp đáp lại câu nào.
Mà Miên quả là nàng tiên đi dưới trăng thật! Một nàng tiên – như trên đã nói – trong trắng, lòng lâng lâng không vẫn bụi đời. Nàng đắm đuối nhìn muôn màu, nghe muôn thành âm của thiên nhiên với một niềm rung cảm thuần thúy. Chỉ có thế và chỉ có thế.
II
Sự thật không phải Miên chỉ riêng thích đêm trăng, nàng còn thích những sớm rạng đông và những buổi chiều nắng nhạt, nói chung nàng thích những cái gì nhè nhẹ. Có rất nhiều sớm hạ, nàng leo lên tận đỉnh núi đầu làng để kịp ngắm vạn vật xuất hiện dưới tia nắng đầu tiên của vừng đông. Mặt trời lên cao rất chóng, nhưng vẫn chưa xua đuổi hết hơi mát của rừng núi và nàng đứng lặng chú mục vào dòng sông Đáy lấp lánh như con rắn thần vẩy bạc bò lẫn dưới vòm xanh của cây cỏ.
Có những khoảng không gian – hoặc những hình ảnh trong một khoảng không gian nào – chợt nhiên được mình chú ý để rồi mãi mãi ngự trị trong tâm tư mình. Trường hợp đến với Miên vào một buổi chiều cuối hạ (đã sắp hến nghỉ hè, nàng sắp theo anh ra Hà Nội tiếp tục sang niên học mới). Buổi chiều hôm đó Miên vừa leo tới đỉnh núi thì cả vùng tràn ngập một màu nắng quái huy hoàng và huyền ảo. Rừng, núi, cánh đồng dào dạt như sóng biển. Cây rừng qunh nàng xào xạc trong gió lộng khiến nàng nghĩ đến tiếng đập dồn dập của một trái tim rộng lớn, trái tim vũ trụ. Nàng ngẩng đầu nhìn lên cao, trời xanh mát không gợn một sợi mây như đương mỉm cười hiền hòa với cây cỏ bên dưới. Trong phút vạn vật tặ như mở hồn giao cảm đó, Miên tưởng mình cũng xuất thần để được sống trong một thời khắc dài vô hạn, hay đúng hơn một khoảnh khắc phi thời gian, phi không gian! Quanh nàng sực nức hương rừng. Tình cờ Miên chú ý đến một khoảng lay động màu xanh cẩm thạch ở phía núi xa. Miên tưởng hồn mình vừa vụt bay được tới đó để nhận ra đấy là khu rừng mía mênh mông, là mía dài, sắc nhọn, xanh non, thân mía trắng nõn căng nước ngọt. Mãi tới khi hoàng hôn thu nốt những tia nắng cuối cùng về chân trời, rừng núi chìm trong sương lam. Miên mới theo đường mòn đi xuống.
Chiều hôm sau Miên trở lên đỉnh núi đứng vào chỗ cũ. Thực là kỳ lạ, lần này cảnh cũ cũng ngập nắng vàng y như hôm qua, tựa hồ chiều hôm trước cách chiều hôm sau chỉ vừa một chớp mắt. Thinh không nhẹ và trong đến nỗi nhìn đàng xa tít có con chim bay mà Miên cảm tưởng thấy cả bóng chim lướt thành vệt dài xuống thảm có xanh. Xa hơn nữa vẫn là con sông Đáy; dòng sống như bốc thành ánh sáng và gợn sống khắp nơi. Nhìn thấy khoảng xanh cẩm thạch Miên lại nghĩ đó là rừng mía y như mình đã đoán trước, lá dài sắc nhọn, thân mía trắng nõn…. Cảnh những lùm cây và khu rừng mía (mà nàng tưởng tượng) chìm trong nắng vàng; rồi ngả nghiêng trong vắn lặng dưới gió lộng đẹp đến nỗi Miên ngây ngất bâng khuâng suốt ngày hôm sau. Lần thứ ba Miên vừa leo lên tới đây đứng vào chỗ cũ thì cũng vừa gặp Hiển xuất hiện từ sườn núi bên kia.
Miên chỉ về phía núi xa trước mặt nói với anh:
– Anh ạ, chắc khoảng xanh cẩm thạch đó là rừng mía.
Hiển đáp ngay giọng thành thạo:
– Đây là núi Sáng bên Bỉnh Di còn thuộc địa phận huyện Lập Thạch nhà; khu rừng mía của cô chỉ là khu rừng lau!
– Sao anh biết?
– Dạo này anh thường có việc phải sang bên đó. Chính giữa khu rừng lau có một cây cao vút thân trắng xóa, cô có thấy?
– Dạ có.
– Đó là cây trò chỉ cao tới ba mươi thước. Quanh cây đó còn nhiều vết tích hầm hố do quân cụ Hoàng Hoa Thám đào ngày xưa. Hiện giờ bên đó đương mùa hoa vàng của một giống cây leo nở rất đẹp, tiếc thay đứng ở đây xa quá không trông thấy gì.
Hiển chợt cười, chàng nhớ lại lời anh em thường nói để giờ đây nói lại với Miên:
– Anh đố cô đối được câu này: “Buổi sớm lên núi Sáng thấy cụm hoa vàng, nhớ cụ Hoàng Hoa”.
Hình như Miên không hề để ý đến chuyện hoa vàng nở đẹp, nàng bâng khuâng hỏi anh:
– Sao không là khu rừng mía mà lại là rừng lau anh nhỉ? Khu rừng lau vô tích sự!
Hiển gật đầu:
– Rừng lau thì vô tích sự thật!
Rồi Hiển đăm chiêu nhìn khoảng xanh cẩm thạch đó, dường như ý tưởng so sánh rừng mía với rừng lau cũng làm anh suy nghĩ.
Nhưng chợt nhớ mình công việc, anh hỏi Miên:
– Cô có xuống núi bây giờ không? Tuần sau anh em mình phải đi Hà Nội rồi.
Miên lắc đầu:
– Em ngồi một lát nữa anh ạ.
Đã biết tính em, Hiển gật đầu:
– Ừ, thôi anh xuống trước.
Rồi Hiển hấp tấp theo một con đường tắt đi xuống, đường quá dốc, nhiều chỗ Hiển phải ngửa hẳn người về phía sau, hai cánh tay hơi dang ra khi nghiêng về tả khi nghiêng về hữu để giữ thăng bằng.
Quên hẳn chuyện khu rừng lau, Miên đưa mắt theo dõi bóng vạm vỡ của anh thấp thoáng qua lá cành cho đến khi khuất hẳn sau một mỏm đá lớn.
Thốt nhiên nàng thở dài.
III
Mấy năm đầu khi mới ra Hà Nội học, Hiển cũng mảnh khảnh thôi. Kể từ năm chàng đỗ xong tú tài phần một và xin được vào học ban Toán ở Albert Sarraut, phần vì học hào hứng, phần vì Hiển bắt đầu chịu tập thể thao, phần vì cơ thể có lẽ bắt đầu vừa thuận dịp nở nang, Hiển to lớn vạm vỡ trông thấy.
Cũng đôi mắt to và đen như Miên, nhưng thay vì cái nhìn xa xôi, đôi mắt Hiển thường nhìn thẳng vào người đối thoại. Trán rộng cằm vuông, khi suy nghĩ điều gì miệng Hiển thường mím chặt, hai vành môi khép lại thành một đường thẳng. Trên khuôn mặt cương nghị đó chỉ có nước da mai mái là tố cáo ở anh một đời sống bên trong dồi dào tình cảm.
Có một buổi chiều thứ bảy, Hiển đi xi-nê về, khuôn mặt đăm đăm. Lúc ngồi vào bàn ăn, Miên nhận thấy mấy lần anh dằn bát cơm xuống mâm, cử chỉ bứt rứt, đó là điều rất khác thường ở Hiển. Tính tình rất hiền dịu, Miên đối với anh còn rất mực tế nhị. Lúc đó nàng gượng nhẹ từng cử chỉ và tuyệt nhiên không dám hỏi anh một lời. Thường vào những lúc Hiển khó chịu như vậy, nàng lẳng lặng đoán anh cần thứ gì thì mang lại hoặc ra phố mua, sự săn sóc âm thầm đó như dòng nước nhỏ nhưng bền bỉ làm mòn đá làm mát đất.
Hôm sau Miên ốm, nàng bị kiết lỵ. Vừa đi học về, hay tin, Hiển quẳng sách vở đó phóng xa đạp đi ngay nói là đi kiếm thuốc cho Miên. Trời đổ mưa… mưa rơi tầm tã… Một giờ sau Hiển về, ướt như chuột lột nhưng vẻ mặt hoan hỉ lạ thường, tay cầm một nắm lá mơ tam thể.
– Bị kiết lỵ mà kiếm được thứ này ăn khỏi liền!
Nói đọa Hiển đi thay quần áo khô rồi xuống bếp. Lá mơ tam thể trông chẳng giống lá mơ thường chút nào, bản lá rộng, thân lá dài, một màu xanh nhạt và tiết ra mùi hôi hôi, không hiểu sao các cụ xưa lại đặt cho nó cái tên là “lá mơ tam thể”. Trước đây vào một dịp về Lập Thạch, Hiển gặp bà Quản đương hái lá mơ này ở góc vườn rồi vào chưng với trứng để cho đứa bé con nhà hàng xóm ăn mà khỏi kiết lỵ. Hiển nhớ. Rồi một hôm khác, khi đã trở lại Hà Nội học, Hiển đến thăm một người bạn cùng lớp ở ngoại ô gần phía Ngã Tư Sở, có thấy ở góc vườn nhà bạn cây lá mơ tam thể. Vì vậy khi hay tin Miên bị kiết kỵ lập tức Hiển phóng xa về nhà bạn phía Ngã Tư Sở. Hiển xuống bếp thái lá mơ nhỏ như những sợi thuốc rồi chưng với trứng gà không có mỡ. Miên ăn rồi khỏi. Chắc lá mơ tam thể có tác dụng chống kiết lỵ nhưng còn có tác dụng tâm tình nữa. Bao giờ Miên ốm Hiển cũng chăm sóc tận tình như vậy, săn sóc hệt người mẹ hiện không quản công lao, không quản đêm hôm thức giấc, bất kỳ một việc gì có thể làm được là Hiển làm liền, Hiển làm thoăn thoắt, lanh chao, tự nhiên như không.
Sống dưới bóng anh, Miên luôn thấy mình bé bỏng như trẻ thơ, nhất là Hiển thường kể chuyện cổ tích, chàng kể cho Miên nghe những chuyện thần thoại Hy Lạp, những chuyện của Perrault, của anh em nhà Grimm, của Andersen. Có lần nghe anh kể xong chuyện “Em bé bán diêm” Miên ôm mặt khóc: nàng chạnh nghĩ đến cảnh mồ côi của ba anh em. Hiền kể cả một vài truyện Liêu trai và rất nhiều truyện cổ tích, lịch sử nước nhà như truyện Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương, Mỵ Châu Trọng Thủy… Có thể là trong số truyện cổ tích Đông Tây có truyện Miên đã đọc qua nhưng khi lắng nghe Hiển kể, Miên vẫn thấy mới lạ. Rồi những truyện đức Trần Hưng Đạo đánh đuổi giặc Nguyên, truyện Nguyễn Thái Học cùng mười hai liệt sĩ đồng chí lên đoạn đầu đài ở rừng Yên Bái thẩy đều là chuyện thật mà nương theo giọng nói đầm ấm say mê của Hiển, Miên cũng thấy được đắm hồn trong một vẻ đẹp hoang đường của truyện cổ tích.
Lần này Miên vừa khỏi kiết lỵ xong, Hiển kể cho Miên nghe chuyện cụ Phan Bội Châu, giọng Hiển cũng đặc biệt nhiệt thành như khi chàng kể chuyện đức Trần Hưng Đạo và mười ba vị liệt sỹ tại rừng Yên Bái. Kể xong trời đã khuya chàng chợp ngủ, Miên vẫn chưa có dịp gợi hỏi xem chuyện gì đã làm anh bực mình vào chiều thứ bảy tuần trước khi ở rạp xi-nê về.
Về buồng nằm Miên vừa thiu thiu thì tiếng Hiển thét bên ngoài: “Quân ngu!” Miên vùng chạy ra, đôi mắt Hiển còn ngơ ngác.
Hiển vừa nằm mơ thấy Mẫn đã tự trong Nam về đây. Mẫn lại là anh của Miên và cả hai cùng còn nhỏ lắm. Hiển cho hai em ra chợ – chợ Đồng Xuân thì phải – xem tuồng. Tiếng kèn, tiếng thanh la, tiếng hát – (chính là tiếng radio nhà bên cạnh) – inh ỏi cả chợ, Hiển cùng các bạn vào một rạp và cho Mẫn và Miên vào một rạp khác ngay bên, nhưng Hiển đãng trí quên không cho Mẫn tiền mà Mẫn thì không dám hỏi. Nói chuyện một lúc với các bạn, khi sắp vào xem tuồng Hiển mới sực nhớ điều đó, rút ví đưa tiền cho Mẫn nhưng không thấy Miên đâu, chàng hỏi Mẫn thì Mẫn bảo Miên ngủ trong kia. “Trong kia” là một góc chợ rác rưởi bẩn thỉu. Miên nằm ngủ cạnh đứa bé con nhà nghèo khác, cả hai trong cùng lem luốc rất đáng thương.
– Mày nỡ bỏ vật bỏ vã em thế à? Trong khi mày xem tuồng em thức dậy thì sao? Quân ngu!
Hiển thét mắng Mẫn và sực tỉnh dậy đã thấy Miên đứng trước mặt. Hiển kể lại giấc mơ giọng còn hằn học với Mẫn. Tội nghiệp – Miễn nghĩ thầm – cho người anh có dáng vóc lực sỹ và tâm hồn văn nhân của nàng! Miên nhớ lại mấy tháng trước đây vào một đêm nàng ăn không tiêu, rồi nửa đêm về sáng nôn ọe… Mỗi lần nôn trán lạnh toát khuôn mặt xám nhợt hoặc trắng bệch, như khuôn mặt người chết trôi – lời Hiển thuật lại hôm sau – Có khi đương thiêm thiếp Miên sực dậy và chỉ kịp nghiêng đầu để nôn vào một cái bô, nước vàng ứa ra trên mép. Mỗi lần nôn xong lập tức Hiển lấy khăn lau miệng, lau chiếu nơi bị rây rớt, lấy nước cho Miên xúc miệng rồi đi đổ bô. Miên sực dậy lúc nào Hiển biết ngay lúc đó. Thấy trán, chân và tay Miên nóng đều Hiển yên lòng. Khi trời sáng rõ, Hiển thiếp ngủ, sự lo lắng đêm qua còn bám lấy anh thể hiện thành một giấc mơ lạ: Lần đó Hiển mơ thấy lúc chuột lúc nhức leo lên giường Miên, mặc cho hiển ngồi canh, mặc cho anh đánh chết, cứ một con bị gạt xuống là hai ba con leo lên. Thật là ghê gớm!
– Mẫn không hề viết cho anh em mình một lá thư nào – tiếng hiển nói kéo Miên về thực tại – thằng bé tệ thật!
– Thôi anh ngủ đi – Miên nói – mấy hôm nay anh đã mệt quá vì em rồi, mai anh còn đi học sớm.
Hiển đứng dậy ra ngồi trước bàn học rồi mới đáp:
– Đã ngủ thế nào được, còn hai con toán đây.
Miên lẳng lặng đưa mắt nhìn Hiển ngồi trước bài toán, ngọn bút chì nhọn hoắt của anh lướt theo dòng chữ. Miên hiểu chỉ vừa đọc dứt bài là anh đã linh cảm thấy con đường phải theo để tìm ra được một lối giải độc đáo. Vị giáo sư của Hiển, thạc sỹ về toán, nhiều lần phải thốt lời khen ngợi, điểm này làm một số bạn cùng lớp ghen tức. Một lần Hiển vừa lên bảng, một anh bạn ghen tài dưới lớp thốt lời thô bỉ. Giờ ra chơi Hiển tới chỉ vào mặt anh bạn:
– Về lời nói vừa rồi, tao với mày thanh toán bằng võ lực! (Hiển cho cách giải quyết đó là công bằng hơn cả).
Anh chàng kia biết trái xử nhũn, Hiển nhún vai cười nhạt và quay đi, nhưng rồi sau đó anh cũng quên ngay câu chuyện cũ.
Thường thường những việc nhỏ tương tự như vậy, khi về nhà, Hiển đều kể lại cho Miên nghe. Chẳng phải anh ưa kể lại những chuyện vặt, anh nghĩ chỉ có cách cho người em được tham dự vào những chi tiết nhỏ nhặt của đời mình như thế mới khiến em vững lòng mà quên đi một phần nào sầu tủi mồ côi cha mẹ từ sớm.
Hiển đã có lý, Miên kính mến anh như một người cha!
Hiển làm xong hai bài toán quay lại còn thấy Miên ngồi đó làm ra vẻ học bài, nhưng đôi mắt lơ đãng.
– Cô chưa đi ngủ?
– Em còn học bài.
– Cô cần đi ngủ vì cô còn yếu.
Hiển thu gọn sách trên bàn. Miên ngập ngừng một phút rồi hỏi.
– Thứ bảy tuần trước anh hẳn có việc gì bực mình khi đi xi-nê về?
Miên thấy vành môi Hiển khép lại thành một đường thẳng, anh vơ chiếc bút chì nắm chắc lấy trong tay như đương cầm một khí giới để hộ thân, nhưng chỉ một phút sau Miên thấy anh đã trở lại trạng thái bình thường, giọng anh thuật lại câu chuyện cũng có vẻ – hay làm ra có vẻ thì đúng hơn – bình thường.
Câu chuyện làm Hiển bực mình thứ bẩy tuần trước đó xảy ra trước rạp xi-ne Eden phố Tràng Tiền. Trong khi mọi người chen nhau lấy vé, một cô đầm thốt lời thóa mạ một thanh niên Việt, thanh niên này cự lại, tức thì cô đầm làm vẻ hung hăng xông lại đánh. Cô đầm không to lớn gì, nhưng chàng thanh niên Việt phải chạy vì chống lại một người đàn bà đã làm một việc không đẹp đẽ gì mà còn khiến một số thanh niên Pháp đứng quanh đó có cớ nhảy vào đánh hôi. Cô đầm đuổi theo không được bèn vênh vang chạy lại giơ tay phân trần với đám thanh niên Pháp bằng giọng kiêu hãnh:
– Các anh xem, đồ hèn, nó không dám đứng lại!
Hiển tưởng có thể phát điên được lúc đó. Vào xi-nê, suốt hai giờ chàng không để ý đến chuyện phim, cảnh chàng thanh niên Việt cam chịu nhục chạy trước cô đầm như cô đọng lại kết tinh thành một cảnh điển hình cho nhục vong quốc.
IV
Miên vẫn ngồi kia, Quanh nàng cây rừng xào xạc, nhưng nàng không chú ý đến, nàng chăm chú nhìn mỏm đá dưới xa, nơi anh nàng vừa khuất.
Vụ hè đó là vụ hè thứ tám hai anh em ở Hà Nội về quê. Miên thấy Hiển đỗ xong Tú tài mà không hề chú ý sửa soạn ghi tên vào Đại học. Nàng mang máng biết anh đang hoạt động việc gì bí mật lắm. Suốt vụ hè nàng thấy anh ít khi ở nhà. Và cũng chỉ nghe riêng chuyện này vì Hiển chưa lần nào thuật lại chi tiết cho Miên nghe, mà Miên thì không hỏi và cũng chẳng bao giờ muốn hỏi. (Phải chăng vì vậy mà khi nãy nhìn anh hấp tấp đi xuống nàng thốt nhiên thở dài?) Thỉnh thoảng Miên thấy có vài người lạ mặt đến thăm anh rồi lại đi ngay. Đồng thời đây đó dân chúng xì xào nói đến Mặt trận Việt Minh và khẩu hiệu “Đánh Tây đuổi Nhật” của họ.
Miên có ý định nhờ anh đưa đi Bỉnh Di trèo lên núi Sáng để thực mục sở thị nhìn khu rừng lau, đích thân đi vào khu rừng lau, nhưng dịp may chưa tới thì vụ hè đã hết, nàng phải xuôi Hà Nội tiếp tục học. Hiển có đi theo, nhưng không để học mà để tiếp tục hoạt động bí mật. Nàng biết.
Vào một đêm khá khuya, trung tuần tháng giêng… Lúc đó Miên còn ngồi học ở bàn học trên gác. Nàng chợt giật mình nghe tiếng kêu từ mặt phố gần đấy – phố Bạch Mai:
– Bắt lấy nó!
Rồi tiếng chân dồn dập đuổi lại gần.
– Bắt lấy nó!
Tiếng thét còn vang lên một lần nữa. Tiếng người đuổi hổn hển dừng lại dưới hè:
– Nó chạy mất rồi, nó cướp cái bánh chưng!
Tiếng một bà cụ già:
– Thôi, kể cũng tội nghiệp, đói mà!
Đó mới chỉ là cảnh đầu mở màn vụ đói mà đã khiến Miên ngẩn ngơ thương cảm. Nghe xong lời giải thích của bà cụ già. Miên ôn lại tiếng thét vừa rồi “Bắt lấy nó!” mà thấy tiếng thét đó rạch xé hồn nang. Miên tưởng tượng đến một người dân hiền lành sau nhiều ngày bị lửa đói dày vò, mắt chợt loáng tia chớp, cướp giựt miếng ăn rồi phóng chân chạy miết.
Đồng hồ điểm mười hai giờ khuya… Miên vẫn cúi nhìn trang sách mà không đọc được dòng nào. Miên tưởng tượng lại cảnh cha mẹ mình ngày xưa, những đêm đông về sáng lạnh giá căm căm, vẫn phải gọi nhau dậy co ro sửa soạn dao, rìu, quang gánh để vào rừng làm than kiếm tiền nuôi con khỏi đói.
– Bắt lấy nó! Nó chạy mất rồi nó cướp cái bánh chưng!
– Thôi, kể cũng tội nghiệp, đói mà!
Miên có ngờ đâu chỉ một tháng sau, khung cảnh bi thảm đó đột nhiên rộng lớn vô cùng. Tới đâu nhìn quanh cũng chỉ thấy muôn ngàn khuôn mặt xám với những tia mắt leo lét, tất cả kết lại thành một bức tranh sống của CHẾT! Màn tang tóc thật sự nhuộm ố cả sơn hà. Đã sang tháng ba được mấy ngày mà sao còn những hôm đổi chiều gió bấc rét kinh hồn. Hầu như cả vũ trụ u uất điêu tàn chợt nghẹn ngào sụp xuống vùng đất nhỏ bé Việt Nam này.
Một buổi sớm ảm đạm kia, Miên đã theo anh ra khỏi kinh thành qua cửa ô Cầu Rền. Hai anh em phóng xe đạp về phía Văn Điển, cứ không đầy một trăm thước đã lại gặp ngổn ngang năm bảy cái xác không đét, trần truồng, xạm đen chống chất lên nhau. Đó là từng gia đình nhỏ bỏ làng đi tha phương cầu thực. Miên đau đớn tê dại, nhưng mỗi lần gặp một đám xác chết, nàng cũng dám cho xe đi từ từ để nhìn cho kỹ. Những xác chết đó chỉ có thể phân biệt được lớn bé mà không sao phân biệt được già trẻ trai gái.
Khi đã quay trở về tới nhà, Miên nghe Hiển nghiến răng giọng lạc đi vì căm hờn:
– Lịch sử nước ta, lịch sử nhân loại sẽ thích chàm lên mặt lũ tư bản đế quốc Nhật Pháp.
Miên hỏi anh:
– Có phải mình phải bán thóc theo tỷ lệ ruộng cày và nhổ lúa trồng đay cho Nhật mà nên nông nỗi này phải không hở anh?
– Đành rằng là thế nhưng thủ mưu là thực dân Pháp. Ném đất giấu tay, thực dân Pháp gạt cho quân phiệt Nhật chịu trách nhiệm về vụ hàng trăm vạn dân Việt oan thác này.
Miên chớp mắt, hỏi lại:
– Có thực không anh?
Hiển dằn giọng.
– Phải, dân tộc Pháp không thể nại rằng vì mình xa lũ con hoang thực dân mà tuyên bố là không chịu trách nhiệm về vụ ám sát khổng lồ thần sầu quỷ khốc này.
Cuối niên học đó Miên thi đậu, nhưng con số hàng trăm vạn đồng bào oan thác từ tháng giêng đến tháng tư khiến hồn nàng ngột ngạt. Nàng cảm thấy cái vô vị mênh mông của mảnh bằng khi nước nhà còn bị tụi ngoại bang khát máu tanh lòng dày xéo, nàng quyết định thôi không theo học tiếp lên ban tú tài mà theo học lớp y tá những mong với tấm áo choàng trắng nàng sẽ trực tiếp làm nhẹ vết thương đời. Hiển hoàn toàn đồng ý, chàng cũng linh cảm thấy rằng nghề nữ y tá là nghề thích hợp nhất đối với cô em dịu hiền của mình.
V
Toàn dân đại đoàn kết đánh Tây đuổi Nhật!
Khẩu hiệu đó của đoàn thể Việt Minh mấy năm trước đây, Miên nghe sao mà hoang đường! Toàn dân đại đoàn kết! Thì dân ta bao giờ chẳng đại đoàn kết? Nhưng còn Đánh Tây đuổi Nhật! Làm sao với hai bàn tay trắng mà đánh Tây đuổi Nhật được bây giờ? Miên có ngờ đâu niềm mong ước của toàn dân đạt được dễ dàng quá mức tưởng tượng của con người, vào mùa hè năm ấy nàng về thăm quê vừa dịp quê hương tưng bừng trong màu cờ cách mạng. Trước khi về quê, Miên có được xem một phim thời sự, chứng minh sức nóng kinh khủng của một tấm kĩnh trũng thu ánh mặt trời. Miên mang máng muốn ví ý chí dành độc lập của dân tộc nhà với sức mạnh của tấm kính trũng đó.
Có lẽ vì ít kiến thức chính trị nên Miên không muốn nghĩ sâu về điều ví von đó, nhưng chúng ta phải công nhận với trực giác bén nhạy Miên đã tìm được một hình ảnh cực kỳ xác đáng mà ví với sức mạnh ý chí dân tộc. Cái khôn ngoan của người lãnh đạo chính là ở chỗ họ biết cư xử ra sao để thành tấm gương trũng thu hút và tập trung được nhiệt tình của toàn dân. Than ôi, ăn gian tình cảm của nhân loại, ăn gian tình cảm của dân tộc, đó là cái đê mạt nhất của loại chính trị gian thương đầy rẫy trong thời đại chúng ta.
Tới làng Miên gặp lại Tài, anh chàng đã mệnh danh nàng là “Nàng tiên đi dưới trăng”. Hiển đã về quê hoạt động từ mấy tháng trước cùng với một cán bộ huyện. Tài đại diện cho một số thanh niên làng Hạc Thủy thường liên lạc với Hiển để nhận chỉ thị. Cũng vì vậy đã có đôi dịp anh chàng lảng vảng lại gần Miên đưa đón một vài lời thân mật nhưng xem ra còn lúng túng lắm. Có lần anh chàng nói:
– Cô Miên này nếu có dịp cùng anh Hiển đi Bình Di tôi sẽ nhắc anh Hiển mang cô đi theo để cô lên xem khu rừng lau trên núi Sáng”
Miên nghĩ thầm: “Đàn ông họ gớm thật, làm sao Tài biết nàng ao ước được xem khu rừng lau trên núi Sáng?”
Nàng mỉm cười đáp:
– Cảm ơn anh, được thế thì còn gì băng!
Đôi mắt Tài sáng lên vì cảm động, anh càng lúng túng không nói thêm được lời nào nữa, anh cúi chào Miên rồi vội vã bước đi.
Tiếc thay thời cách mạng bừng sáng huy hoàng chưa được bao lâu đã vẫn mây báo ngày giông tố. Quân Pháp đã hèn mạt quá lộ liễu trước quân đội Nhật, giờ đây chúng biết hèn mạt kín đáo hơn, khôn khéo hơn: chúng lẩn sau quân đội Anh – (một cốt một đông, thực dân bè lũ với nhau) – để tìm cách tái chiếm Nam Bộ. Hiển và Tài cùng gia nhập đoàn quân Nam tiến. Tiếng ca hào hùng và man mác vang lên trong hồn dân tộc, tràn ngập khắp sơn hà:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có mong chi đâu ngày trở về…
Lẽ ra trong số sỹ quan trẻ tuổi Nam tiến này còn một thanh niên tên là Kinh nữa. Kinh cũng là người làng Hạc Thủy kém Hiển đến sáu tuổi. Hiển coi Kinh là thế hệ đàn em, ít giao thiệp với. Kinh có người anh tên là Huynh hơn Hiển chừng năm tuổi, Hiển coi là thế hệ đàn anh và cũng ít giao thiệp với. Sau ngày Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8, không khí cách mạng nung chảy bức thành phân chia ngôi thứ, các thế hệ chênh lệch nhau trên dưới mươi tuổi đều hòa đồng trong thân ái, Hiển gặp Kinh trong một khóa huấn luyện quân sự cấp tốc. (Kinh mười bảy tuổi đã theo ba năm trung học; với trình độ văn hóa đó Kinh được xếp vào cấp chỉ huy như Hiển). Thuở ban đầu cách mạng, chính những sĩ quan chịu huấn luyện cấp tốc trong ba tháng này ra đương đầu với những sỹ quan Pháp từng được huấn luyện trong ba năm tại trường Võ Bị Saint Cyr, ấy là không kể còn biết bao nhiêu kinh nghiệm dày dạn chiến trường của họ từ thuộc địa này qua thuộc địa nọ.
Cuộc đảng tranh Quốc Cộng từ tháng 10-1945 đến tháng 6-1946 ngấm ngầm khốc liệt bao nhiêu, nhưng Hiển, Tài, Kinh cũng như hầu hết các thanh niên cứu quốc chiến đấu trong nước từ hồi Mặt trận Việt Minh còn có bí mật nào có biết gì đâu. Phòng quân của tướng Lư Hán từ Vân Nam đổ xuống phần lớn theo trục giao thông Lao Kay Hà Nội, một số ít qua ải Nam Quan (Lạng Sơn). Đoàn quân đói rách này đã được đồng bào ta mệnh danh là “đoàn quân Tàu phù”. Nhạc điệu một bài ca cách mạng thời đó được hát đùa theo lời đồng dao riễu cợt:
Đoàn quân Tàu ô đi…
Sao mà ốm thế…
Theo xong lớp huấn luyện quân sự cấp tốc, Kinh được đề cử cùng Hiển và Tài sửa soạn Nam tiến. Bộ đội Kinh gặp một đội Phòng quân đã bệ rạc lại hách dịch, Kinh bèn tự động ra lệnh đánh úp, tước lấy khí giới. Không may việc làm quá hớ hênh bị lộ, viên tướng phụ trách liên lạc giữa Phòng quân với chính quyền địa phương cực lực phản đối điều đó. Không may cho Kinh hơn nữa lại đúng vào lúc chiến thuật Cộng sản chịu nhượng bộ tuyên bố giải tán Đảng. Kinh bị chính quyền tuyên án tử hình để lấy lòng bộ chỉ huy Phòng quân.
Huynh (anh Kinh) – khi đó là chủ tịch xã – hai hàng nước mắt ròng ròng, vỗ ngực thùm thụp nói lớn với Hiển:
– Thằng Kinh nhà tôi bị tử hình anh tính có giời đất nào nữa?! Việc này tôi quyết tìm cụ Hồ hỏi cho ra lẽ.
Kể ra việc người Việt xử tử người Việt vào buổi sơ khởi của nền độc lập nước như thế đã là một việc lạ lùng huống hồ Kinh lại bị xử tử vì đã diệt “Tàu phù” để làm giàu võ khí cho bộ đội nhà càng là một việc lạ lùng ngoài sức tưởng tượng. Kinh còn trẻ măng, hăng hái, dũng cảm. Cán bộ Đảng vào giải thích cho Kinh nghe nhiều lắm, nhưng Kinh nhất định không chịu … “thông cảm”. Kinh trừng mắt nói: “Tôi hành động như vậy mà các anh xử tử tôi để lấy lòng Phòng quân, thì trước khi chết tôi nhổ vào mặt các anh!”
Nhưng tới khi anh em đồng đội điệu Kinh ra bãi bắn, Kinh bước đi điềm nhiên, không vùng vằng, không la hét. Điều đó càng khiến anh em đau đớn.
Năm khẩu Mousquetons giơ lên, trong số có một khẩu không nạp đạn – trong năm bạn, ai là kẻ có diễm phúc tì vai lên khẩu súng không đạn đây? Tuân theo khẩu lệnh, năm ngón tay trỏ bấm cò, kẻ thấy súng không giật vui như gặp đức Phật, bốn kẻ kia thấy súng giật chĩu vai cùng thấy lòng đau đớn như chính mình vừa cầm dao đâm ruột mình. Đường đạn đi chệch choạc, Kinh không chết ngay, anh cán bộ Đảng rút súng lục ý muốn bắn phát tối hậu, Huynh chạy ra ôm thi thể em gục mặt vào vai máu, khóc rống lên rồi ngẩng nhìn lên mà rằng: “Công việc của anh thi hành xong rồi, giờ anh kệ xác cha chúng tôi! Anh muốn bắn phát súng tối hậu thì cứ việc kề vào mang tai tôi mà bắn! Một giờ sau Kinh mới tắt nghỉ hẳn.
Hiển không được chứng kiến cảnh xử bắn đó, chỉ nghĩ đến thôi mà cũng thấy lòng nhói buốt, nhưng trên đường Nam tiến Hiển đinh ninh rằng Kinh đã không chết uổng. Kinh chết để giành ưu thế cho cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc! Sau cái chết của Kinh chắc chắn đoàn thể lãnh đạo sẽ khuất phục được quân đội đồng minh để tranh thủ lấy những điều kiện tiên quyết cho việc củng cố nền độc lập.
Sau này khi đã tỉnh ngộ và ôn lại cái chết của Kinh, Hiển cũng không buồn phân tích tìm hiểu đường lối của đoàn thể dạo đó, chỉ biết tự đáy lòng chàng bốc lên một cảm giác vừa kinh tởm cho chính trị và chàng thương Kinh vô cùng. Gương chiến thắng chói lọi của đức Trần Hưng Đạo, cái chết chói lọi của mười ba liệt sỹ Quốc Dân Đảng trên đoạn đầu đài, nhiệt tình chói lọi của cụ Phan Bội Châu với đất nước, cái chết vô nghĩa của Kinh, đó là bốn điều ám ảnh lớn trong suốt cuộc đời Hiển.
Sau khi Kinh chết, Huynh bỏ chức chủ tịch xã, xuôi Hà Nội, xin một chân thơ ký tại sở tư kia. Hết giờ làm việc, trở về nhà trọ, Huynh thức thật khuya làm thơ ca ngợi tình thương nhân loại, giọng thơ chân thành, nhưng lời thơ non nớt. Cuộc toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Huynh mất tích trong khói lửa kinh thành. Không ai tìm thấy xác anh đâu.
Đoàn Vệ quốc Quân một lần ra đi,
Nào có mong chi đâu ngày trở về…
Những bước chân chàng trai ra đi tưng bừng, yêu nước, yêu đời, rất hào hùng đấy mà vẫn đồng thời thương cha thương mẹ nhớ anh em, nhớ người tình. Tình thương nhớ này nuôi cho ý chí giành độc lập, phục thù rửa hận thêm thiết tha vững bền. Chẳng cái đẹp nào bằng cái đẹp của chiến sỹ vừa vượt ngục tù nô lệ, vừa chiến đấu giành tự do, vừa tự băng bó về thương củ
a mình; đó là cái đẹp của cả dân tộc nhà thủa ban đầu cách mạng!
Và những đoàn quân vô Nam. Ra đi không mong ngày trở về nhưng say chiến thắng, say tin tưởng chứ chẳng say rượu cho đã đời như trong cổ thi:
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi….
Trước ngày ra đi, mấy lần Tài bần thần đến đứng trước Miên, rồi chẳng hiểu vì dút dát hay vì quá cảm động, chẳng nói được lời nào. Mãi đến lúc Miên thay bà Quản tiễn Hiển và Tài ra đến đầu làng… Cố ý để cho Hiển đi trước mấy bước, Tài cười và nói khẽ với Miên:
– Cô Miên này, bao giờ về tôi sẽ đưa cô đi thăm khu rừng lau trên núi Sáng.
Cũng như lần trước Miên gật đầu mỉm cười ngỏ lời cám ơn và cũng như lần trước Tài cảm động ra mặt nhưng lần này anh tiếp tục đi chậm bước để gần Miên thêm vài giây nữa, như thể đó là lần cuối cùng hai người gặp nhau.
Thế là Miên vẫn chưa có dịp đi Bỉnh Di, leo lên núi Sáng thăm khu rừng lau!
Miên nhớ lại vế câu đối anh nàng đã đọc cho nghe ngày nào:
“Buổi sớm lên núi Sáng thấy cụm hoa vàng nhớ cụ Hoàng Hoa”
Trong trí nàng thoáng hiện hình ảnh Tài với dáng điệu lúng túng… Nàng nghĩ đến “Cô Miên này…” Tài thường khởi đầu mỗi khi nắm hết can đảm trong lòng hai bàn tay để quyết định tiến tới gợi chuyện nàng.
“ Cô Miên này…” Miên liên tưởng đến một câu thơ trong “Cung oán” mà nàng đã được giáo sư Việt Văn giảng dạy trong niên học vừa qua:
Lạnh lùng thay giấc cô miên…
Nàng đăm chiêu một giây rồi mỉm cười vì nàng nghĩ rằng sau này nàng có thể ra một vế câu đối vào loại “hắc búa” cho anh nào – Tài chăng – muốn gá nghĩa cùng nàng:
Cô Miên ngủ một mình!
Chương 2
ĐỘC HÀNH
I
Tiếng súng lác đác vào những ngày tiền cách mạng. Tiếng súng dồn dập dần kể từ ngày quân Pháp tái chiếm Nam Bộ. Và dân chúng cũng quen với tiếng súng. Rồi chiến tranh toàn quốc… và từ những cứ điểm cũ chiến tranh ngày một lan rộng, ngày một thảm khốc. Đàn ông bị giết bằng súng hoặc bằng lưỡi lê, đàn bà bị hãm hiếp, nhà cửa bị đốt cháy.
Ngót một năm sau, bộ đội của Tài và Hiển từ mặt trân Sông Cầu, miền Nam Trung bộ, chuyển ra Bắc. Tài và Miên được dịp tái ngộ, lần đầu ở quê hương, nhưng trong cảnh tang thương đỏ lửa ấy, hoa cỏ còn chẳng mọi được nữa là nụ cười với lời hứa đi Bỉnh Di lên núi Sáng thăm khu rừng lau!
Sau hai ngày ở lại quê, Tài đi Tuyên Quang, chàng dự trận Sông Lô ở đấy rồi hoạt động khắp miền Đông Bắc, Hiển đi lên mặt trận Tây Bắc, sau này dự chiến dịch Nà Sản. Còn Miên, nàng giúp việc cho quân y viện, thiết lập ở ấp họ Đỗ tận sau trong rừng thẳm, tuy vẫn thuộc huyện Lập Thạch nhưng rất xa Bỉnh Di nơi có núi Sáng và khu rừng lau!
Khu rừng lau! Khu rừng lau!
Miên cũng không hiểu sau khu rừng lau đó ám ảnh nàng hoài. Nàng hầu như thường xuyên mang hai mối hận: thứ nhất hận làm sao khu rừng để đó không phải là rừng mía mà là rừng lau; thứ hai, hận làm sao mình không xa khu rừng đó là bao mà vẫn chưa có dịp lên tận nơi để được đi vào khỏa màu xanh cẩm thạch đó.
Giữa cao trào đoàn kết cứu quốc, giữa không khí tưng bừng tranh đấu nhuộm màu hy sinh quả càm, Miên vinh dự và kiêu hãnh có một người anh ngoài tiền tuyến, tuy thâm tâm không khỏi nhiều khi thấy lo âu. Và nhất là nàng thấy nhớ vô cùng giọng kể chuyện cổ tích đầy thương mến của anh. Nàng luôn nghĩ rằng nàng còn là trẻ thơ.
Có phong trào thi đua ba tháng, rồi phong trào thi đua sáu tháng, thi đua toàn diện. Lần nào cũng vậy. thoạt những khẩu hiệu thi đua nêu lên Miên thấy dửng dưng, không phải Miên lãnh đạm với công tác, trái lại nàng vẫn nổi tiếng là cần mẫn nhất cơ quan, nàng chỉ thấy những khẩu hiệu nêu ra chẳng có gì đặc sắc làm to chuyện. Nhưng rồi đi đâu cũng đọc thấy, rồi những buổi học tập liên tiếp. Miên dần dần thấy những khẩu hiệu đó quả có quan trọng tuy đều là những khẩu hiệu mà hàng ngày nàng đã thực hiên. Rồi với phong trào thi đua nàng thấy như mọi phẩn tử của đất nước đều bị hút vào một hấp dẫn lực duy nhất dẻo co mọt nè nép hoạt động đều đặn và nhiều hiệu quả.
Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam- gọi tắt là Liên Việt- được thành lập đã từ lâu, vị Hội Trưởng đó là một nhân sĩ quen thuộc cả vùng: cụ Cử Hứa. Đó là một ông già trên năm chục tuổi phì nộn. Cụ Cử Hứa là một trong số địa chủ giàu nhất huyện Lập Thạch. Cụ đỗ Cử nhân khoa cuối cùng, năm đó cụ mới hai mươi tuổi. Người trong huyện vẫn thường xì xào bàn tán về cái vô giá trị của thứ cử nhân ân khoa đó. Theo con mắt quan sát của Miên thì quả thực ở cụ Cừ Hứa, không hề có phong độ một nhà nho chân truyền. Cụ có nhiều cử chỉ lố lăng nhiều khi sàm sỡ. Cụ thật đã đứng tuổi, nhưng lại có lắm ra vẻ ta đây trẻ trung bằng cách đưa đẩy những chuyện trai gái. Đôi khi cụ đọc thơ, thứ thơ Đường luật đã cạn dòng, lời sáo ý rỗng do cụ sáng tac. Cụ đi đâu cũng có một tên cắp điếu và tráp theo hầu. Cái điếu ống cần trúc thật là dài, mỗi lần cụ ngồi vắt vẻo giơ tay vít xuống là anh người nhà khúm núm mang tới bằng hai tay miếng trầu cau tươi hoặc thứ cau khô thật mềm gọi là cau đậu. Ấp cụ Cử Hứa cách ấp họ Đỗ- trụ sỡ Quân y viện- chưa đầy một cây số, vì vậy mỗi lần đi họp ban chấp hành hàng huyện- mà họp luôn- cụ thường rẽ vào Quân y viện, coi đó như trạm nghỉ chân. Miên được nhiều dịp quan sát cụ là thế.
Con trai cụ mới hai mươi bốn tuổi mà đã năm con vì lấy vợ từ năm mười sáu; anh có theo học trại trường Bảo Hộ, đã một lần thi trượt thành chung thí tác chiến, hiện anh là chủ tịch hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác-xít huyện.
Ấp họ Đỗ đã rộn, ấp cũ Cử Hứa còn rộng gấp bốn( là theo sự ước lượng của các tá đền), và có chăn nuôi đủ các thứ trâu bò, dê, lôn, gà vịt, bồ câu… lại có ao rộng, thả cá mè, cá trôi, cá chép. Trước đây thời Pháp thuộc, cụ Cử đã có lần mời được” Quan Công Sứ” về ấp dự tiệc; bộ đồ ăn tây( đồ sứ Limoges, dao, nĩa, muỗng bằng bạc) mà dạo đó cụ mua để thù tiếp” Quan Công Sứ” nay vẫn còn. Ngày nay Tân là kẻ thù của dân tộc thì khác quý ngang với” Quan Công Sứ” ngày xưa là chủ tịch Liên khu. Mâm cơm thết vị chủ tịch Liên khu vực là chọn lọc” vịt hầm, gà rán, chim quay. Khi họp các cán bộ đội du kích hoặc chính quy tạm đóng ở ấp có thể cụ cho vật một con bò.
Trong các đợt thi đua, an hem tuyên truyền xung phong đi khắp các hang cùng ngõ hẻm, giải thích về định nghĩa hai chữ” nhân dân”, an hem rất ưng đến dừng chân ở ấp cụ Cử vì chắc chắn sẽ được thù phụng tử tế.
“ Nhân dân gồm có nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ và thân hào nhân sĩ do giai cấp công nhân lãnh đạo.”
Cụ Cử có đọc kỹ định nghĩa đó thấy mình vừa là chủ vừa là thân hào thân sĩ, tựa như là người đặt chân lên nền móng khác nhau nhưng cùng vững chắc như nhau. Còn do giai cấp công nhận hay do ai lãnh đạo đi nữa cụ có cần gì.
II
Tám tháng sau ngày Hiển đi mặt trận Tây Bắc có hôm không hiểu vì sao Miên sốt ruột quá. Nàng ngờ rằng cứ như lời hẹn của anh trong một bức thư nàng mới nhận được cách đó ít lâu thì có thể Hiển đã về làng mà chưa có cách nào báo tin cho nàng hay. Sớm hôm sau, chủ nhật, Miên xin phép cơ quan, lòng khấp khởi mừng sẽ được anh: Nàng đã mừng hụt. Cũng từ đấy nàng thắc mắc về tin tức của anh luôn. Thẳng hoặc nàng có tiếp tục nhận được thu Hiền thì từ ngày Hiển gửi đến ngày Miên nhận khoảng cách là ba bốn tháng vì đường giao thông không có cũng có, vì ba bao nhiêu chặng cơ quan kiểm tra duyệt cũng có, Miên vui thì được dòng chứ của anh chứ nội dung thư nào có gì.
Lần về Hạc Thủy không gặp anh đó, Miên theo thường lệ sang thăm bà Quản. Ngày nay bà Quản đã già đi nhiều, mới tám tháng qua, mà hình dung bà đổi khác tưởng như tám năm qua, mắt kém hẳn, không phải vì tiền của sa sút mà vì mối lo tinh thần: lo cho Tài. Bà chỉ có một tài là giai mà Tài cũng như Hiển từ ngày ra đi, chưa một lần về thăm nhà, không những thế, Tài lại không hề viết một bức thư nào về nữa. Bà Quản chỉ còn biết cặm cụi làm việc để giải kAuay. Bà dậy sớm, thái thân cây chuối băm làm rau để nấu với cám cho heo ăn, bà đích thân ra ruộng điều khiển công việc, bà đích thân quay vựa đổ thóc…Tối đến bà lại mang theo chiếc đèn dầu ra đình theo lớp học bình dân học vụ, hoặc đi họp với toàn thể cứu quốc tới mười hai giờ mới về. Trông thấy mẹ gầy, già, mắt kém đi như thế chẳng ngày nào là cố Nhơn- cô lấy chồng làng- không khuyên mẹ nên nghĩ ngơi tịnh dưỡng; cô Nẵng đôi khi tự quê chồng làng bên về thăm cũng khuyên mẹ như cô Nhơn, nhưng bà Quản chỉ ừ ừ ào ào cho xong rồi bà lại dậy thật sớm nấu cám cho heo, làm lụng suốt ngày và đi học, đi họp đến 11, 12 giờ khuya. Nhiều hôm đi học nhìn vào trang sách i- tờ bà thấy lòa chữ phải giơ tay trái lên nâng trán rồi nhắm nghiền mắt một phút cho tỉnh trí. Những lúc đó bà lại thấy vang lên trong trí câu bà vẫn hỏi thành lời hoặc tự hỏi thầm hằng ngày:” Không biết thằng Tài bây giờ ở đâu nhỉ?”
Bác Hỳ, người đàn bà góa hàng xóm, trước đây vào năm đói có chịu hàm ơn bà Quản, thường ngày cũng sang thăm bà luôn. Bác không biết khuyên và Quản như cô Nhơn, thường bác chỉ đưa mắt xét xem có thể thu dọn nhà cửa hoặc đỡ đần được việc gì là bác làm liền. Bác lanh chân lanh tay dọn dẹp chỉ một loáng là gọn ghẽ đâu vào đấy. Bà Quản không ngăn- bà biết ngăn cũng chẳng được- bác làm xong việc, bà cám ơn.
Khi Miên đến thăm bà Quản, bà vừa sửa lại cọc chuồng lơn vừa tiếp chuyện Miên. Câu chuyện trong có nửa tiếng đồng hồ mà tới năm sáu lần Miên thấy bà hỏi:” Không biết thằng Tài nhà tôi bây giờ nó ở đâu cô nhỉ?” Miên chỉ cười an ủi. Nàng biết trả lời sao? Miên lại ăn cơm chiều với bà Quản rồi khi trăng rằm lên, Miên trở lại cơ quan cho kịp mai làm việc sớm.
Trăng sáng vàng vạc, nền trời xanh mịn đắm ánh trăng thành một màu nhung biêng biếc huyền ảo nhiều khi sầu vời vợi như cái nhìn của mỹ nhân xưa ở chốn thâm cung. Để thích ứng với cảm giác u huyền đó, trong tâm linh Miên nhớ lại bốn câu thơ dịch của vị giáo sư Việt văn đã dạy nàng xưa nhân khi ông giảng đến điển tích” Lá thắm” giữa chàng Vu Hựu với cung nhân Hàn thị:
Thâm cung ngày tháng thanh nhàn,
Nhìn xem nước biếc muôn vàn chảy xuôi.
Giã từ lá đó người ơi,
Lá đi cho khéo ra chơi cõi ngoài.
Những chuyện gì buồn buồn xa xôi như vậy thì nàng nhớ lâu. Số kiếp nàng thế chăng?
Qua làng Thạch Trục, đi vào một bóng thôn, Miên vẳng nghe có tiếng đàn lục huyền cầm Tây Ban Nha lẫn tiếng hát và tiếng xì xào nói chuyện. Ngẩng nhìn ngay sườn đồi, Miên thấy thấp thoáng bóng một số thanh niên quần áo nâu có, quần áo trắng có: đó là các sinh viên trường Luật của Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Khi Miên đi qua, tiếng một sinh viên nói khẻ:” Nàng tiên đi dưới trăng!”
– Ô hay!- Miên mỉm cười nghĩ thầm- vô tình anh chàng sinh viên đó đã gặp Tài. Những linh hồn lớn gặp nhau!
Miên co bao giờ ngờ tới: nàng với chàng sinh viên đó sau này còn dịp gặp gỡ nhau trong duyên nợ.
Tiếp theo lời chàng sinh viên, tiếng lục huyền cầm bỏng như một chùm sương reo nặng xuống chân đồi trăng cùng với tiếng hát phổ nhạc bài” Nhị Hồ” của Xuân Diệu vừa âm thầm vừa lắng lo:
Tôi yêu Bao Tự mặt sầu bi,
Tôi yêu Ly Cơ hình nhịp nhàng.
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng,
Đang đêm nhớ nàng Dương Quí Phi.
Lòng tràn ngập hân hoan thơ mộng, Miên cúi đầu mỉm cười rảo bước đi vào bóng cây rừng, tiếng hát còn láy lại như cố đuổi theo, cố nài xin cho được vuốt ve” nàng tiên đi dưới trăng”.
Đang đêm nhớ nàng Dương Quí Phi,
III
Miên thấy vẻ đẹp tưng bừng những ngày đầu kháng chiến bắt đầu suy giảm. Nguyên do sự tàn tạ có lẽ vì nền kinh tế bế tắc và sự đói khổ đã hiện lên rõ rệt trong dân chúng.
Lịch sử sự tàn tạ đó đã thể hiện trên một chiếc giây thép phơi quần áo của một gia đình tản cư nọ gần cơ quan quân y của Miên. Người cha gia đình là công chức sở Tài chính thời Pháp theo Chính phủ kháng chiến tới đây và cũng được Chính phủ kháng chiến dùng trong cơ quan Tài chính Liên khu. Người mẹ là một bà nội trợ đảm đang, dưới gối có bốn đứa con đều là trai cả, đứa lớn nhất lên mười, đứa nhỏ nhất lên hai. Lương người cha không được là bao nhưng gia đình này còn để dành được số tiềng cộng thêm ít đồ vàng trang sức của người mẹ. Ba tháng đầu mâm cơm gia đình có món xào, món nấu và trên giây thép giữa sân phơi la liệt nào áo phin nõn của người mẹ, nào áo lót mình poleline xanh của các con… Sáu tháng nữa qua đi, tiền để dành hết dần, mà kháng chiến xem ra có vẻ trường kỳ thật, mâm cơm gia đình ngày sang nhất chỉ có trứng tráng cà chua và những chiếc áo phơi ngoài giây thép giờ đây đều đã nhuộm nâu vào bùn. Sáu tháng nữa qua đi, người mẹ giải quyết vấn đề kinh tế bằng cách tăng gia sản xuất. Bà thuê được mấy mẫu ruộng màu, thuê người cày, thuê người gánh phân bón, b2 gieo đỗ xanh. Cả nhà đều đã mắc bệnh sốt rét, nặng nhất là thằng lớn vì nó có báng.
“Có cấy có trông, có giồng có mong!”Kết quả tuy khá nhưng không bù được những khoản hao hụt lớn trong ngân quỹ gia đình. Đồ vàng bán dần đã hết. Các bữa cơm đều đã ăn độn ngô chan với canh rau khoai nấu muối. Ngoài giây thép giờ đây phơi những chiếc áo mỏng màu kỳ quái. Nguyên do đó là những chiếc áo màu của người mẹ cắt sửa lại; có chiếc áo chăn bằng vải cẩm châu hồng, bà mẹ cũng phá ra máy áo vào vụ rét vừa rồi; tất cả những hàng vải màu đó khi nhuộm nâu đều biến thành những màu kỳ quái, vải xanh biến thành màu nâu đen, vải đỏ biến thành màu cánh gián xỉn. Người cha thỉnh thoảng mới từ cơ quan cách đấy hai mươi cây số về thăm gia đình, thường khi ra đi có để lại số dành dụm còn lại của tiền lương. Mỗi lần về thăm chứng kiến cảnh vợ con ốm đau, đỏ rét chắc là ông đau lòng lắm.
Miên thường đến thăm gia đình nay và giúp đỡ thuốc men. Miên biết những người mới sa sút như vậy, họ khổ lắm và Miên vẫn thích có mặt ở những cảnh khổ đó để được tận tình giúp đỡ mà vui với mình.
Một ngày kia người cha về thăm gia đình, mấy ngày sau Miên còn thấy ôn ở nhà, rồi một buổi sớm kia, ông sách dao dựa cùng đứa con lớn lên đồi chặt củi sim và những cây chổi sề về đun; Chính phủ kháng chiến vì muốn tiết kiệm công quỹ nên phải giản chính một số công chức, ông ở số phải giản chính đó. Sự thực lý do việc giản chính nặng về chính trị hơn là vì kinh tế. Chính phủ muốn sa thải một số công chức cũ, thay vào đã có số đảng viên tín nhiệm! Nhưng Miên hiểu sao được những khúc mắc chính trị đó.
Một buổi chiều, người mẹ hớt hải đến tìm Miên tại cơ quan nhờ nàng tới thăm ngay cho thằng bé lớn bị ngất.
Vừa ban chiều nó đi kiếm củi sim với bố, nó tham gánh nặng quá sức, đến khoảng đồi dốc kia bị trượt chân quảng đòn gánh và ngã lăn mấy vòng. Người cha vực con về nhà thằng bé vừa đi khom lưng vừa ôm bụng tới một lúc không chịu đau được nữa, nó thét lên một tiếng rồi ngất.
Miên ngờ nó bị rập lá lách. Nàng cho cáng nó ngay vào quân y viện, nhưng không kịp, nó tắt thở giữa đường.
Một tháng sau gia đình này, quầy gánh lên đường, nói là xuống chợ Me để xoay nghề buôn bán, sự thực là về thẳng tỉnh lỵ Vĩnh Yên rồi tìm đường vào Hà Nội.
Còn lại nấm mồ của thằng bé giữa khoảng ruộng màu mà trước đây nó đã tra phân và gieo đỗ xanh cùng mẹ với em.
Miên chỉ biết vẫn gọi gia đình đó là gia đình ông bà Tư và thằng bé can đảm sớm biết thương cha thương mẹ nằm dưới mồ kia tên là Lân. Thỉnh thoảng Miên vẫn đến thăm mộ thằng bé. Trong thâm tâm nàng thương nó và coi nó như em ruột mình.
IV
Đầu năm 1952, sau chiến thắng Cao- Bắc-Lạng thấy tình hình đã vững chắc hơn xưa, Đảng Cộng sản quyết định công khai ra mắt quốc dân lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam. Một đại hội vô cùng rầm rộ và trọng thể được tổ chức trên sườn một ngọn núi cao ở Tuyên Quang. Bò, dê, lợn, gạo tẻ, gạo nếp được sửa soạn mang lên địa điểm này từ hơn một tháng trước. Còn công việc của hàng ngàn dân công đến đó để lắp đất cuốc có dựng nhà tất nhiên phải kể từ mấy tháng trước ngày đại hội khai mac. Họ dựng một số nhà lớn nào là hội trường, nào là nơi lưu trú của các đảng viện đại biểu, nào là nhà ăn nhà bếp…Tất cả những nhà lớn đó đều kiến trúc bằng tre và nứa rất công phu. Một cơ quan ngôn luận địch vận bằng Pháp ngữ của Đảng lúc bấy giờ đã ca ngợi công trình kiến trúc đó bằng câu: “C’est là, toute une symphonie de bamboo”(Đó là cả một bản hòa tấu của tre nứa!) Dự đại hội có đủ các đảng phái quốc gia, ngoài ra còn có đại biểu của phe Issarack Cao Miên và phe Issale Lào tới để thành lập mặt trận Việt- Miên- Lào.
Bài diễn văn khai mạc vẫn là những lời ca ngợi đoàn kết, đoàn kết để thực hiện việc giải phón đất nước.
Cùng một lúc với tiếng súng nổ ngoài tiền tuyến, các chiến sĩ ngã gục, cùng một lúc với bao người dân vật lộn với cuộc sống với bệnh tậ và biết bao người ngã xuống câm lặng như em bé Lân xấu số của gia đình ông bà Tư, thì trên sườn núi thuộc địa phận Tuyên Quang này các cán bộ nghe lời tuyên truyền đậm đà của đoàn kết và thưởng thức những bữa ăn đậm đà không kém với bò non, dê béo. “Vì có sự chết nơi kia mới cớ sự sống nơi này và vì có sự sống” sáng suốt” nơi này mà sự chết nơi kia sẽ có ngày được tái sanh trong vinh quang”. Phải chăng đó là thứ lý luận biện chứng chói lọi vàng son của những con người cố giữ cho lương tâm yên ổn?
Từ giữa nam 1950 những trọng trách Miên đảm nhiệm trong quân y viện được tước bớt dần cho đến cuối năm đó nàng chỉ còn là một y tá thường. Nàng biết các nữ đảng biên trong cơ quan đương qua một lớp cải tạo vất vả cực nhọc lắm. Đó là phong trào học tập chung của Đảng. Miên mang máng cảm thấy bên cuộc kháng chiến ngày một gay go còn một cái gay go hơn nữa trong nội bộ Đảng. Mỗi lần các đảng viên ở phòng họp tan ra gương mặt họ phờ phạc, đôi mắt dại di, nụ cười như một con vật đáng thương bị săn đuổi ráo riết cho trốn biệt tích khỏi đôi môi.
Miên chẳng hề oán trách cấp trên sao lại tước hết trọng trách của mình. Nàng nghĩ thầm: Đảng giữ trách nhiệm to tát lãnh đạo cuộc kháng chiến, nay cuộc kháng chiến càng ngày càng gay go thì những địa vị tương đối quan trọng lẽ cố nhiên phải dành cho các đảng viên. Miên mang máng cảm thấy bên cuộc kháng chiến ngày một gay go còn một cái gì gay go hơn nữa trong nội bộ Đảng. Tuy không phải là người của Đảng dù ở một địa vị tầm thường nhưng đem hết khả năng ra để phục vụ, Miên cho rằng như vậy nàng cũng đã góp phần đích đáng vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Nữ đảng viên phụ trách nàng đã nhiều lần ngỏ ý khuyến khích nàng nên tỏ thái độ thuận tiện để được dung nạp vào Đảng. Nhưng nàng nhu mì từ chối. Nàng từ chối vì nhiều lý do: thứ nhất vì theo ý nàng nhất định không phải cứ là đảng viên mới phục vụ đắc lực được tổ quốc; thứ hai, xem lề lối làm việc của các nam nữ đảng viên thì kỷ luật của Đảng quả là kỷ luật thép, nàng tự lượng còn quá giầu, quá thiện, quá đề cao tình cảm nên khó thể kham được.
Từ đầu năm 1950 Miên có nhận được thư Hiển báo sẽ về thăm nàng. Miên mừng và thấy mình trẻ lại. Phải công nhận trong khoảng ba năm xa anh, Miên gài đi trước tuổi rất nhiều, phần vì e ngại cho tính mạng anh, phần vì nàng luôn luôn lo lắng sao cho tròn trách nhiệm tại quân y viện liên khu này, quân viện đã từng chiếm giải nhất trong kỳ thi đua toàn diện vừa qua.
Niềm hy vọng được gặp anh mòn mỏi với tháng ngày, chẳng bao lâu đã tới ngày cuối cùng của năm 1950, dân y viện và quân y viện liên khu hợp làm một, công việc của Miên vì thế càng thêm bận.
Trong cơ quan đã bắt đầu có sự hiện diện của các cố vấn Tàu. Họ ở riêng một căn nhà dựng trong rừng với một ban cấp dưỡng đặc biệt. Mỗi lần Miên tới liên lạc với ban cố vấn, nàng phải qua căn bếp, mùi bánh nhân thịt từ lò nướng tỏa ra ngào ngạt cùng hơi than ấm. Đó là thứ bánh bày ở bàn làm việc để các cố vấn xơi, còn đối với các cán bộ người Việt chĩ những ngày quốc lễ họa may mới có. Thứ gạo cố vấn dùng là gạo dự trắng, thơm, mềm. Ngoài cửa bếp thường xuyên có mấy lồng gà chồng lên nhau, khi một luồng gió mạnh lùa tới, những long tơ chẽ ra, cùng với tiếng kêu keng kéc khẽ, Miên nhận thấy lớp da ánh mỡ vàng. Có lần nhận chỉ thị xong quay về, Miên gặp đồng chí cấp dưỡng bưng lên một khay lớn bày ra ba con gà giò quay tròn xinh để nguyên cả con của ba cố vấn.
V
Hình như việc tước hết trọng trách của Miên là một thủ đoạn chính trị, một đòn tâm lý của chi bộ quân y này. Hình như ban chấp hành chi bộ muốn rằng vì thế Miên sẽ thấy chạm tự ái và tìm cách cư xử thuận tiện để được vào Đảng. Chi bộ đã tính nhầm nước cờ! Người con gái trong sạch đó chỉ biết vui với sự tận tâm làm việc chứ không hề chú ý đến những danh từ chỉ chức tước. Nữ đảng viên phụ trách Miên đành bày một thế cờ khác, coi Miên như đã ở giai đoạn chuẩn bị vào Đảng và cắt cho Miên một công tác theo dõi một” nữ y tá quần chúng”khác tên Linh.
Thoạt Miên cũng không hiểu “ nữ y tá quần chúng” là gì, nữ đảng viên phải giải thích” quần chúng” là dnh từ dùng chỉ chung những người chưa phải là đảng viên.
Miên nói lại:
– Chị xem, em đã là đảng viên đâu?
– Nhưng thái độ tích cực công tác- lời nữ đảng viên- của đồng chí, đủ để chúng tôi tín nhiệm coi đồng chí như một đảng viên thực thụ. Công tác điều tra quần chúng tôi giao cho đồng chí, lần này giản dị thôi, đồng chí chỉ việc tỏ tình thân mật với đồng chí Linh và trong khi gần gũi như vậy đồng chí hãy gợi chuyện đồng chí Linh để hiểu về tình trạng gia đình, cùng nguyện vọng, tư tưởng đồng chí đó.
Miên không hiểu rằng, những chi tiết trên về lý lịch Linh, chi bộ đã biết rõ từ lâu. Nữ đảng viên bảo nàng điều tra lại chỉ là cách vực nàng trên con đường công tác do thám cho Đảng. Miên đã nhận lời để làm vui lòng nữa đảng viên( Miên không muốn mất lòng bất cứ một người bạn nào trong cơ quan).
Nhưng đến khi tiến tới gần Linh, Miên mới cảm thấy hết cái bỉ ổi của công tác.
– Thế này mình là một tên do thám bạn rồi còn gì! Nàng nghĩ thầm thế và xấu hổ với chính mình. Cả buổi sáng hôm đó Miên giúp Linh thật sự như để chuộc lỗi. Nàng cũng có hỏi qua bạn về quê quán về tình trạng gia đình cha mẹ còn sống hay chết, có mấy anh chị em, hiện tản cư nơi đâu… Nghĩa là những câu hỏi thường thức trong bất cứ cuộc giao thiệp thân hay sơ nào.
Với con mắt sành sỏi giàu kinh nghiệm, nữ đảng viên kia hiểu Miên…
Chương 3
VIÊN CỐ VẤN THỦ THUẬT
Đã sang đầu năm 1951 được nửa tháng và cũng còn hơn nửa tháng nữa thì tết âm lịch. Miên hy vọng ngày ba mươi tết có thể xin phép về tảo mộ rồi ăn tết với bà Quản. Đã bốn năm qua tuy vắng anh, nhưng thói quen sửa sang hai nấm mộ của cha mẹ vào ngày cuối năm vẫn được Miên thực hiện một mình. Khi cuốc đất đắp mồ như vậy nghĩ đến anh ở nơi xa – chẳng biết ở đâu – Miên đã khóc âm thầm phóng khoáng. Nói là âm thầm và phóng khoáng vì chỉ có mình nàng khóc giữa cảnh rừng núi vào khoảnh khắc tàn lụi của một ngày cuối năm. Nhưng lần này suốt ngày hai mươi tiếng súng vang rền từ mặt trận Vĩnh Phúc (Vĩnh Yên Phúc Yên) vọng lại. Viên Đại tá quân y về thủ thuật – một trong ba vị cố vấn của Quân y liên khu –sửa soạn lên đường tới đơn vị hậu cần của chiến dịch. Trong số mười nhân viên được cử đi theo viên cố vấn quân y về thủ thuật có Miên. Đoàn người khỏi hành ngay từ hôm ấy. Từ ấp họ Đỗ xuôi xuống, Miên thấy hướng đi của mình lạng dần về phía tả.
Thốt nhiên nàng nghĩ đến ngọn núi Sáng ở Bỉnh Di và khu rừng lau. Nàng hy vọng đơn vị hậu cần của chiến dịch sẽ đặt ở nơi đó và nàng sẽ có dịp gặp gỡ khu rừng lau. Ý nghĩ đó làm nàng vui quên nỗi đau lòng không được ở lại tảo mộ cha mẹ như thường lệ vào hôm ba mươi tết sắp tới.
Đã mười giờ khuya, đoàn người vẫn tiếp tục qua hết rừng này sang rừng khác và giữ vững hướng về phía tả theo chiều xuôi xuống. Theo lộ trình thì khoảng nửa đêm mới có thể tới tạm nghỉ.
Càng về khuya trời càng lạnh, thỉnh thoảng qua suối, tiếng lội nước bì bõm và ở khoảng trống này đôi khi Miên bắt gặp ánh nước hồi hộp phản chiếu mấy vì sao mờ lạnh trên cao, hồi hộp như ánh hy vọng của nàng được đi vào khu rừng lau.
Đoàn người tiếp tục đi. Mãi tới một giờ rưỡi khuya mới tới trạm nghỉ, năm giờ sớm hôm sau đã lên đường. Với ánh sáng ban mai, Miên thấy mình đương đi vào một miền có những đồi nhỏ liên tiếp cây cối cằn cỗi và rất thưa, cỏ ngắn vàng úa thân cứng như cuống chổi, thỉnh thoảng gặp một hay hai cây thông cao vút như một tư tưởng đột ngột và kiêu hãnh. Theo nguyên tắc tuyệt đối bí mật quân sự, mọi người vẫn cắm cúi đi theo đồng chí dẫn đường, không ai biết là đi về đâu và còn bao lâu nữa tới nơi.
Các đồi trọc liên tiếp bất tận cùng với màu cỏ úa xác, ngọn núi Tam Đảo phía xa khi ẩn khi hiện. Những lúc Miên đi sâu xuống thung lũng ngẩng nhìn ngọn đồi che lấp ngọn Tam Đảo, không hiểu sao nàng nghĩ đến hiện tượng Nhật thực, vừng trăng nhỏ mọn che lấp mặt trời… rồi nàng miên man nghĩ đến những kẻ tiểu nhân đắc chí lấn át những tâm hồn quân tử. Miên không ngờ rằng sự liên tưởng thoạt có bề ngoài vô căn cứ đó bắt nguồn ở một thái độ bất mãn đã được tích lũy sâu trong tiềm thức mà chính nàng không hề ngờ tới.
Mọi người rẽ vào một vùng ruộng khô phân chia thành nhiều thửa nhỏ. Một người bạn lướt lên nói khẽ với Miên:
– Tôi nhận ra rồi, đây là một địa điểm thuộc huyện Tam Lộng, tỉnh Vĩnh Yên.
Đi một quãng nữa Miên nhìn xuống chân đồi thấy có ngòi nước nhỏ. Bên kia ngòi nước là một xóm dân cư chừng hai chục nóc nhà. Bên này, ngòi nước là một khu rừng khá rậm rạp. Tiến vào khu rừng đó, một ngôi đình lớn vẻ muôn phần cổ kính xuất hiện, cổ kính vì những hàng cột lớn uy nghi, tường và mái rêu xanh đen, cổ kính vì những cây cổ thụ cao vút và rườm rà mọc không theo hàng looisnaof nhưng cành lá hầu như bảo nhau từ bốn phía ùa lại rủ xuống phủ kín mái đình. Một góc đình chừa ra làm nơi chứa thuốc và các dụng cụ quân y còn khắp sàn đình la liệt thương binh với tất cả vẻ phồn tạp đau thương của cái thế giới gồm những nạn nhân của bom đạn. Người thì băng phủ kín mặt người thì băng phủ kín chân, có người băng quấn kín khuỷa tay, tay dưới đã bị cưa đi… Tiếng rên rỉ của người còn thuốc mê, tiếng la như xé ruột của người vừa tỉnh. Tất cả những băng quấn đều một màu vàng bẩn vì đã giặt đi giặt lại nhiều lần, máu tự các vết thương thấm ra, tím đen loang lổ. Nhìn cảnh đó Miên hiểu tại sao nàng và các bạn phải cấp tốc đi miết ngày đêm để tới địa điểm này.
Bác sĩ T. tự phòng mổ đằng sau đình tới chào xã giao viên cố vấn rồi trở lại phòng mổ ngay; viên y tá trưởng thay mặt bác sĩ đưa mọi người tới căn lều dựng trong rừng, nơi nghỉ ngơi. Tới đây Miên nhận thêm thấy quanh đình còn một số lều khác cũng là nơi để chứa thương binh và tít phía trên gần đỉnh đồi, bên một chiếc miếu nhỏ, một chiếc lều lụp xụp hơn, xung quanh quây sơ sài bằng lá gồi thay tường: đó là nhà xác.
II
Kể từ ngày tướng De L. sang Việt Nam điều khiển cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa, chiến thuật hung hăng của hắn đã làm đổ máu biết bao người vô tội.
Để lùng bắt những người khả nghi hắn đã cầy cánh đồng quê bằng chiến xa, vây giữ làng Việt Nam bằng lửa đạn. Những toán quân lê dương với đủ các quốc tịch: Bỉ, Đức, Hung… mặt đỏ dừ vừa say rượu vừa say nắng, vừa say máu tưng bừng gieo tang thương bằng giết chóc, hãm hiếp khắp làng thôn có gót giày đinh của chúng xéo qua.
Để giữ miền trung du De L… lại có sáng kiến thiết lập một trận tuyến bê tông khởi từ Bắc Giang qua Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Việt Trì, Sơn Tây quành sang Hà Đông và kết thúc vòng đai ở Phủ Lý. Mỗi cứ điểm có một bê tông mẹ với mấy bê tông con gìn giữ lẫn nhau. Các cứ điểm bê tông trong vùng lại có thể dùng hỏa lực trợ chiến lẫn cho nhau mỗi khi một cứ điểm nào đó bị tấn công. Chiến thuật phòng ngự vững chắc này đã làm ngã gục biết bao chàng trai anh dũng Việt trong các cuộc tấn công liên tiếp.
Quân Pháp hiện đã bị đánh bật khỏi Nghĩa Lộ, chúng rút về Sơn La ở vào tình thế rất lủng liểng. Sau đây chúng còn rút khỏi Sơn La về tập trung tại Nà Sản, cố thủ cứ điểm này, mở rộng sân bay, chuẩn bị rút lui bằng đường không vận. Chiến dịch Vĩnh Phúc của bên ta được mở ra chính là để cầm chân quân Pháp không cho chúng tính đường gửi quân cứu viện lên mặt trận Tây Bắc. Mặc dầu các chiến sĩ Việt Nam đã khá nhiều kinh nghiệm về chiến thuật đánh bê tông mà thương binh vẫ cáng về ùn ùn. De L… hẳn phải tin tưởng lắm vào cuộc chiến thắng tương lai đầy máu lửa của y. Rồi đây sang đầu 1952 y chết và được truy thăng Thống chế Pháp quốc tên ghi trong tự điển danh nhân Larousse. Y là anh hùng của nước Pháp nhưng trên đất nước Việt Nam, người Việt vạch mặt chỉ tên y là tên giặc khát máu một thời. Lẽ tương đối của thứ danh vọng xây dựng trên bạo lực và nô lệ cho lòng tham vọng vị kỷ là thế!
Kể từ trưa ngày hai mươi hai tháng chạp âm lịch cho đến hết ngày hai mươi tám Tết, Miên và các bạn làm việc không ngừng. Miên còn bận hơn các bạn nhiều vì nàng phụ tá bác sĩ T. trong việc mổ. Nhiều khi mãi tới mười hai giờ khuya nàng mới được nghỉ, đôi lần vào giờ đó nàng vừa đặt mình nằm đã bị gọi dậy vì có thương binh mới và trong số có người phải lên bàn mổ cấp tốc. Ban ngày nàng thường xuyên túc trực bên bác sĩ, kể cả những lúc không có việc. Vào những giây phút nhàn rỗi hiếm có này, nàng mở xem những tập báo chữ Pháp trên bàn giấy bác sỹ T. Đó là những tập VUE, PARIS MATCH bên trong có những bài nói về sự tiến triển của y học hiện đại.
Viên y tá trưởng hầu như không làm gì về công việc chuyên môn trong phòng mổ mà chỉ chú trọng về tổ chức cắt đặt các nhân viên và luôn luôn liên lạc với chính trị viên chi ủy quân y để nhận chỉ thị. Cứ trông dáng hắn xuôi ngược tất tả, mặt hắn luôn luôn làm ra nghiêm trọng, Miên cũng thừa hiểu hắn là một “đồng chí” mới được kết nạp.
Viên cố vấn đại tá quân y về thủ thuật cũng vậy! Cứ như danh từ chỉ về chức tước thì hẳn viên cố vấn này chuyên về giải phẫu; vậy mà từ này đến đây tới giờ, Miên chưa hề thấy cố vấn giải phẫu một ai. Cố vấn cũng nặng về phương diện kiểm soát tổ chức nội bộ và đòi thay đổi một vài nhân viên khiến guồng máy hậu cần chệch choạc hẳn đi mấy ngày. Mỗi khi thấy một thương binh sắp lên bàn mổ viên cố vấn lại hỏi bác sĩ T. một câu duy nhất:
– Ông xem có cần mổ không?
Câu hỏi ngơ ngẩn đó đã làm bác sĩ T. bực mình không ít, tuy nhiên bác sỹ vẫn nhã nhặn trả lời bằng một câu gần như duy nhất:
– Thưa cố vấn, cần lắm chứ! Vết thương này để chậm chắc chắn nguy đến tính mạng.
Thực sự giúp bác sĩ trên bàn mổ chỉ có Miên và một sinh viên y khoa năm thứ tư, giữ chức quân y phó. Thường thì biết mình là gái, mỗi khi giao thiệp với chàng trai nào, Miên hết sức giữ ý tứ, nhưng với chàng sinh viên trẻ sớm đượm vẻ phong trần phóng khoáng này Miên gần và thấy tin cẩn gần như với anh ruột mình. Chàng sinh viên đó là Tân, thưa các bạn.
Phòng mổ căng bằng vải dù, xa đình chừng một chăm thước và ở ngay bên cạnh dòng nước nhỏ. Cửa ra vào có che tấm vải gaze phất phơ theo gió.
Buổi đầu giúp việc, bác sĩ T. giới thiệu vắn tắt:
– Đây là cô Miên sẽ giúp chúng ta bên bàn mổ. Đây là anh Tân sinh viên năm thứ tư, quân y phó.
Buổi chiều, lợi dụng lúc mọi ngơi việc Miên hỏi Tân trước:
– Quê anh Tân ở đâu?
– Tôi quê ở Bắc Ninh – Tân đáp
– Bây giờ gia đình anh tản cư ở đâu?
Tân thoáng vẻ buồn:
– Tôi không còn gia đình nữa. Mẹ tôi mất ở Bắc Ninh cuối thu năm 1947 đúng vào năm đầu tôi theo học trường Thuốc. Mẹ tôi ra đi yên lòng vì gặp được mặt tôi trước khi nhắm mắt.
– Còn ông cụ?
– Thầy tôi mất từ sớm.
Miên thở dài không hỏi gì nữa, nàng nghĩ đến mình cũng mồ côi từ thủa nhỏ.
Hôm sau cũng vào lúc rảnh việc một chút, Miên hỏi giọng vui:
– Anh Tân giữ chức quân y phó oai đấy chứ.
Tân đáp lại thân mật:
– Oai khỉ gì hở cô? Quân y trưởng là bác sĩ T., quân y phó là tôi dưới mặt họ cũng chỉ là những thằng “thợ cưa”.
Miên hiểu ngay chữ “họ” Tân nói ám chỉ các đảng viên. Tự nhiên Miên hỏi ngay lại một câu để tỏ rằng mình cũng biểu đồng tình.
– Chẳng bao giờ họ hỏi ý kiến anh và bác sĩ T.?
Tân lắc đầu, môi hơi bĩu rồi mới đáp:
– Chủ nhân về tinh thần là chính trị viên chi ủy quân y, chủ nhân về vật chất là quản trị trưởng tiếp tế và thực phẩm và thuốc men, vào sổ các thương binh đến, gạch tên các thương binh đi hoặc chết. Trên cõi đời này nơi nào còn để lũ a-dua chính trị lên mặt vọc mõm vào chuyên môn nơi đó nhất định thành ung thư.
Miên theo dõi nét mặt bất mãn của Tân và thấy hay hay nàng hỏi tiếp:
– Hình như họ chỉ có mặt ở đây vào giờ hành chính anh nhỉ?
Tân gật đầu:
– Họ ở một cánh rừng bên kia đồi, cách chúng ta chừng một cây số. Đã có một lần tôi qua đó bắt gặp mâm cơm của họ có salade, có cà chua phá-xí, có trứng đúc thịt… trong khi thương binh ở đây kham khổ là vậy. Họ ăn bớt! Họ ăn cắp!
Biết bao chướng tai gai mắt trước đây đã làm Miên bất mãn ngầm mà chính nàng không hay, ngày nay gặp Tân, nghe lời nói thẳng thắn của chàng, Miên thấy những bất mãn ngầm đó như cô đặc lại thành hình thể. Vô tình nàng tiếp theo lời Tân:
– Bần tiện nhỉ?
Rồi Miển kể thủ thỉ cho Tân nghe chuyện nàng từ thời thơ ấu. Cảnh nghèo và mồ côi cha mẹ của Miên thủa nhỏ làm Tân chạnh lòng nhớ đến cảnh nghèo của mình ngày nào bỏ học đi buôn. Khi biết Miên còn một người anh tên là Hiển trong bộ đội chiến đấu cùng chạc tuổi mình, Tân tự nhiên có khuynh hướng coi Miên như người em gái nhỏ bơ vơ và tự thấy có trách nhiệm che chở, an ủi nàng thay Hiển. Chính thứ tình cảm xuất hiện ban đầu đó quyết định mãi mãi thái độ về sau của Tân đối với Miên. Nếu câu chuyện Miên kể sắc sảo một chút, tình tứ một chút, biết đâu Tân lại chẳng yêu Miên như một chàng trai có cuộc đời trống trải khao khát tình yêu? Nhưng giọng Miên kể thùy mị quá, hiền lành quá nên chỉ gợi trong lòng Tân tình thương không phải tình yêu. Một lần trong buổi chiều hôm ấy Tân gọi đùa Miên: “cô em gái nuôi của tôi”. Miên hiểu tình cảm thẳng thắn của Tân và nàng cảm động. Nàng cũng chẳng đòi hỏi gì hơn.
Điều nàng quý nhất ở Tân là thái độ làm việc say mê và tận tâm của chàng trong công việc mổ hoặc phụ tá cho bác sĩ T. mổ. Càng những hôm nhiều việc tinh thần Tân càng quắc thước và đôi bàn tay chàng khâu những vết mổ hoặc băng bó những vết thương thoăn thoắt, thông minh, thành thục tưởng như đôi tay đó có đôi mắt riêng của chúng.
III
Chiều hai mươi chín tết!
Lẽ ra Miên phải buồn lắm, vì vẫn chưa được gặp anh, lại không được ở nhà tảo mộ cha mẹ vào ngày ba mươi tết như thường lệ: nhưng lần này gặp Tân mà nàng quý mến như Hiển nên Miên cảm thấy bớt cô đơn hẳn.
Chiều hai mươi chín tết!
Bước đường tản cư đầu tiên của Tân là ngày nào tới đồn điền Lợi Ký theo lớp huấn luyện cán bộ tăng gia sản xuất chịu đựng một mùa xuân đầu tiên xa quê hương, xa mẹ. Đau khổ làm phì nhiêu tâm hồn và khắc sâu những cảm giác, cho nên mỗi độ chờ đón xuân về vào những buổi chiều nghỉ ngơi, Tân thích lắng nghe tiếng gió bên ngoài để nhớ lại tiếng gió rít từng hồi tự trên đỉnh đồi cao khu đồn điền Lợi Ký lùa xuống các thung lũng nhỏ. Tân còn nhớ rõ như in cảnh những chiếc lá vàng đua nhau rụng và những chiếc lá khô dưới đất tựa những hồn ma bị dựng dậy đuổi nhau tíu tít quanh gốc cây. Nếu trời mưa, Tân nhớ lại âm thanh rả rích của mưa rơi ngày đó. Nếu đêm khuya bên ngoài có gió lớn, Tân nhớ lại tiếng cành cao lung lay, tiếng quả ủng rụng nhẹ. Nếu mưa đêm tạnh hẳn, về sáng có gió lớn, Tân nghĩ ngay là gió đương ra công quét sạch mây xám trên trời để đón một năm mới, năm mà ai nấy hy vọng sẽ phong quang hơn. Tân có nhớ đến Vân “phẩm tiên rơi đến tay hèn”, Tân có nhớ đến mối tình của chàng với người đẹp ga Thanh Ba, nhưng những hình ảnh đó chỉ còn là những điểm nhạt trên khung cảnh rộng lướn những núi, rừng, mây, gió… Năm năm kháng chiến, Tân đã được gặp biết bao cánh hoa mong manh bạt gió như Vân nên thương những người đẹp thì có thương, nhưng lạ thì không còn lấy làm lạ (lạ vài người đẹp mà khổ).
Chiều hai mươi chín tết!
Phòng mổ hôm nay tương đối vắng khách, bác sĩ T. hẳn đã leo lên đỉnh đồi tìm chỗ thoáng ngồi cho trí lực được giải thoát chút ít, còn lại Tân và Miên.
Thấy Tân ngồi ghếch chân lên bàn đăm chiêu nhìn qua cửa sổ, Miên tiến tới ngồi đối diện với chàng trên chiếc ghế dài ghép bằng ba ống bương lớn.
Chà, hôm nay lạnh ghê, anh thấy không? – Miên nói.
Tân cười rất hiền, khẽ gật đầu:
– Mấy hôm trước đây vì nhiều công việc nên quên cả lạnh.
Hai người im lặng giây lâu. Có lẽ vì quý Tân nên Miên thích hỏi rõ về đời Tân, nàng tìm cách gợi chuyện:
– Anh vào học năm thứ nhứt trường Thuốc từ 1947?
Tân gật đầu:
– Thì trường Thuốc cũng chỉ có năm thứ nhất kể từ 1947. Như lời anh em cho tôi hay thì trong số hơn hai ngàn chiến sĩ giữ thủ đô tháng chạp âm lịch năm đó…
Suy nghĩ một chút rồi Tân tiếp:
– … Phải tháng chạp năm Bính Tuất sang đầu xuân năm Đinh Hợi, khi trung đoàn Thủ đô rút lui, có một số sinh viên cũ theo bác sĩ T. lên mạn Chèm Vẽ, rồi tản cư một lần nữa tới Đại Đồng, một làng nhỏ trên con đường từ Phú Thọ đi Tuyên Quang, trường Thuốc được chính thức thành lập ở đây.
– Anh tới đó ghi tên?
– Tôi cùng một anh bạn thân sắp tới đó ghi tên thì hay tin mẹ ốm, tôi trở về Bắc Ninh ngay. Mẹ tôi mất mấy ngày sau.
Ngày đó Tân bán ba mẫu ruộng tốt của mẹ để lại cho một người thím. Nhưng danh từ “cầy chia cấy rẽ” rất xa lạ với Tân. Nào biết chia ra sao, chia lúa ở ruộng hay chia thóc ở nhà, hay cho thuê khoán lấy một số tiền nhất định? Giản tiện nhất là bán đi, bán rẻ cho một người thím, lọt sáng xuống nia; Tân chỉ giữ lại chiếc nhà gạch cho người chị họ nghèo ở nhờ. Chiếc bể bị dò, Tân xuất ra một số tiền cho chị mua xi măng sửa chữa để có thể chứa đủ nước mưa dùng quanh năm. Người chị nghèo, mẹ con ăn mặc rách rưới từ nay được ở nhà rộng có ao thả cá, có vườn giồng rau, nuôi gà, vẻ mặt mẹ con hớn hở, Tân trông mà vui lây. Nhưng niềm vui đó chỉ bừng lên một lát rồi tàn ngay như ngọn lửa rơm, một cảm giác chua chát xâm chiếm lòng Tân, chàng nghĩ đến cái nghèo của cả dân tộc. Hành động của chàng cho chị ở nhờ chỉ là một hình thức của bố thí, mà bố thí đâu có giải quyết được nạn nghèo đói? Xử sở còn chìm trong khói lửa kia, một tia hy vọng hòa bình cũng chưa hề có, đã nghèo khổ còn tang tóc nữa.
Thấy khuôn mặt Tân chìm hẳn trong niềm suy nghĩ, Miên hỏi như để đánh thức chàng:
– Chắc rồi anh gặp lại anh bạn ở trường Thuốc?
Tân lắc đầu:
– Ngày đó mẹ tôi vừa mất, nhìn quanh mình toàn cảnh buồn, nhưng nghĩ rằng trở lại trường Thuốc gặp lại bạn thân thì cũng thấy vui vui phần nào. Hay tin quân Pháp nhảy dù Bắc Kạn, tôi vội lên Đại Đồng thì trường Thuốc đã dọn đi nơi khác. Mãi tới tháng mười – nghĩa là ngót một tháng sau – trong khi quân ta đương mở chiến dịch sông Lô truy kích binh đoàn Pháp từ Tuyên Quang về Đoan Hùng, tôi mới tìm ra trường Thuốc ở Chiêm Hóa. Không thấy bạn!
– Hay là bạn anh bị chết trong vụ quân Pháp nhảy dù Bắc Kạn? – giọng Miên như tham dự vào lo âu của Tân.
Tân lắc đầu:
– Tôi cũng không rõ, nhưng tôi không nghĩ rằng Kha chết!
– Tên anh bạn đó là Kha?
– Vâng, tên Kha. Thoạt tôi tưởng vì có vụ nhảy dù Bắc Kan mà Kha còn thất lạc, nhưng vào một đêm trăng kia hỏi kỹ các anh bạn năm thứ nhất tôi mới hay là Kha không hề đến ghi tên trường Thuốc.
Bóng chiều tràn vào, vẻ mặt Tân càng chìm trong suy nghĩ, Miên không muốn hỏi thêm gì nữa, nàng lẳng lặng đứng dậy ra suối rửa mặt mũi chân tay để còn chuẩn bị ăn cơm.
Rõ thực hóa nhi đa hí lộng? Ngày đó đôi bạn tạm chia tay, Tân về Bắc Ninh, Kha tìm đến trụ sở tạm thời trường Thuốc, nhưng nửa đường gặp mấy người bạn cũ, họ rủ Kha đi Vĩnh Yên học Luật. Kha ưng ngay vì nếu học Luật càng sẽ gần mẹ ở Thạch Thất. Chàng đã ghi tên học Luật rồi đến Thạch Thất gặp mẹ. Bà giáo yếu lắm cần về làng (trong vùng tề) để thuốc men. Tiễn mẹ về làng rồi thành vĩnh biệt… Chuyện này chúng ta rồi sẽ có dịp để rõ chi tiết. Điều cần ghi nhận ngay ở đây là vào đúng đêm trăng Tân hỏi các bạn năm thứ nhất để hay rằng Kha không hề đến ghi tên trường Thuốc thì – thực là kỳ thú – cũng chính đêm trăng đó Kha cùng những người bạn năm thứ nhất trường Luật leo lên đồi trăng làng Thạch Trục vừa ngẩng nhìn vòm trời nhung biêng biếc vừa ca hát thơ mộng. Miên từ làng Hạc Thủy trở về cơ quan quân y qua đó, nàng đương cúi đầu rảo bước dưới chân đồi thì tiếng một sinh viên nói khẽ – chính là tiếng Kha – : “nàng tiêng đi dưới ánh trăng!” Và anh bạn ôm lục huyền cầm bên Kha đã kịp thời gieo xuống chân đồi trăng hợp âm la đoản cùng với tiếng hát âm thầm và lẳng lơ để cợt Miên:
Tôi tưởng tôi là Đường Minh Hoàng
Trong cung nhớ nàng Dương Quý Phiii…
IV
Trở lại chuyện Tân. Tháng mười năm 1947, ghi tên vào năm thứ nhất trường Thuốc xong, rồi lý thuyết, rồi thực tập liên miên. Tháng 5 năm 1950 chàng ghi tên vào bộ đội phục vụ cho quân y trung đoàn 36. Tháng 8 Tân theo bộ đôi lên Cao Bắc Lạng để tháng chín, tháng mười tham dự các trận Đông Khê, Thấy Khê và chở thương binh qua biên giới Trung Hoa, điều trị tại Quảng Uyên đối diện với Cao Bằng. Cho tới đây tình cảm của Tân đối với nững người cộng sản lãnh đạo kháng chiến chưa có gì thay đổi. Thực ra chính sách tương đối dân chủ của họ đã bắt đầu chuyển hướng từ đầu 1950. Tháng 5 năm 1950 họ khai hội Trung ương đảng bộ quyết định áp dụng chính sách điền thổ của Trung cộng ở Việt Nam. Từ sau chiến thắng Cao Bắc Lạng đã có những cuộc học tập riêng của cán bộ Đảng và những cái nhìn nếu không nghi kỵ thì cũng lạnh lùng của đảng viên đối với “quần chúng tiểu tư sản” đã nhiều khi làm Tân lộn ruột (trong khi Miên lẳng lặng chịu đựng). Tháng giêng năm 1951, Tân theo bộ đội từ Cao Bắc Lạng xuống mặt trận trung du, ở đây chàng gặp lại anh Liệt, anh chàng vẫn hay hát bài “Nguyễn Thái Học” hồi còn ở đồn điền Lợi Ký. Bộ phận quân y trung đoàn của Tân đóng ngay ở làng có Liệt. Tân nhận ra Liệt ngay, chính Tân đã gọi Liệt trong khi Liệt còn ngơ ngác đến một phút sau mới nhận ra Tân.
Ngày đó, sau khi được huấn luyện tại đồn điện Lợi Ký thành cán bộ tăng gia sản xuất, đến khi ra phụ trách thì trại của Liệt là một trong những trại tan vỡ đầu tiên, Liệt bèn dời Phú Thọ đi Vĩnh Yên, không là cán bộ nữa mà như một đồng bào tản cư thường. Giọng ca sầu thảm của anh xúc động trái tim một cô gái địa phương, hai người thành vợ thành chồng, anh đi cầy nàng đi cấy, năm sau – năm 1948 – anh có đứa con trai đầu lòng, hai năm sau nữa – năm 1950 – anh có thêm một gái. Anh mang nặng nhiều u uất, từ ngày lấy vợ, anh bắt đầu uống rượu. Rượu say, anh ra sân hoặc lên đồi nhìn trăng, nhìn sao, hóng gió, dáng thơ thẩn, nếu gặp ngày mưa thì anh cũng ra ngồi bực cửa. Thường vào những lúc say đó anh dùng giọng bông lơn riễu chính phủ kháng chiến. Khẩu hiệu “Việt Nam dân chủ cộng hòa muôn năm” anh đọc chệch là “Việt Nam dân chủ cộng hòa trừ nhân nhân chia”. Khi có phong trào thi đua sản xuất thì một buổi chiều kia vừa rượu xong anh nắm tay chị cố kéo vào buồng và nói lớn: “Tao với bu mày vào đây tăng gia sinh sản”. Chị luột khỏi, chạy ra sân lườm anh: “Rõ khéo nhỉ, nói vừa vừa chứ kẻo lại tù mọt gông!” Khi có phong trào rèn cán chỉnh cơ (rèn cán bộ chỉnh cơ quan). Anh nói: “cán gì cán thuổng, cơ gì cơ cực!” Hết nói riễu, anh hát, giọng hát trầm buồn tuyệt hay trước đây đã làm rung động lòng chị ra sao giờ đây làm rung động lòng chị như vậy. Anh hát nhiều bài lắm nhưng bài hát chính vẫn là bài “Nguyễn Thái Học” và hầu như kể cả những bài vui, qua giọng anh hát cũng thành buồn buồn.
Ngày gặp lại Liệt, Tân thấy anh vẫn để đầu trọc như xưa, khuôn mặt anh vẫn vàng vọt như xưa, nhưng thêm nhiều nếp nhăn ở trán và ở hai bên đuôi mắt. Tân có được chứng kiến Liệt vào những buổi chiều sau khi anh đã uống nhiều rượu, rượu mở nắp tiềm thức cho những u uẩn bốc lên. Khuôn mặt vàng vọt của anh khi đó bỗng sáng rực, anh tiết lộ nhiều chuyện anh biết lắm.
Nào chuyện Nguyễn Ái Quốc bị bắt bên Tầu rồi nhờ các nhà lãnh tụ quốc đứng ra xin với nhà cầm quyền ở Trung Quốc mới được tha về để tham gia công tác biên giới như một cán bộ quốc gia trong Việt Nam cách mạng đồng minh hôi.
Nào là khi cuộc cách mạng tháng tám đã thành công, chỉ trong vòng bốn tháng sau chín phần mười cán bộ quân sự quốc gia xuất thân ở hai trường Hoàng Phố và Liễu Châu đã đi đời nhà ma.
Nào chuyện tự về Khu 7, đệ nhất hào kiệt miền duyên hải đã đốt cháy bốn chiến xa Pháp trong trận mở màn, mặc dầu đại biểu chính phủ ngày đó cứ muốn họ hàng Pháp để đổi lấy chút ít thời gian hòa bình nữa.
“Thôi ông ơi, tôi van ông, tôi van ông, nói vừa vừa thôi kẻo lại tù mọt gông!” – đó là lời chị thường can anh, khuôn mặt lo lắng nhiều khi đến hốt hoảng.
Nếu còn dở câu chuyện, anh tiếp tục nói; nếu câu chuyện đã dứt và anh thấy nói đã hả anh cất tiếng hát, khuôn mặt anh trở lại vàng vọt u sầu. Và chị lắng nghe, gương mặt cũng êm ả dịu xuống bớt ưu tư.
Căn cứ vào những điều Liệt biết ở trên đây; căn cứ vào bài ca “Nguyễn Thái Học” mà Liệt thích; căn cứ những điều Tân còn nhớ thời ở đồn điền Lợi Ký nhất là căn cứ vào buổi chiều vô tình mọi người được chứng kiến cuộc xử tử người thanh niên và khi nghe loạt súng nổ vang, Thi khuỵu xuống vì thương cảm, Tân nghe có tiếng thở dài phía sau, giật mình quay lại thì đó là tiếng thở dài của Liệt… (ngày đó Tân đoán thầm Liệt thương cho bộ thần kinh yếu đuối của Thi) rồi ngay tối hôm đó, về khuya lắm, có tiếng lục huyền cầm thánh thót và giọng ca nức nở âm thầm bài “Nguyễn Thái Học” của Liệt.
Căn cứ vào tất cả những điều kể trên đây, tổng hợp lại, Tân có thể tin chắc chín phần mười rằng trước đây Liệt hẳn phải là một chiến sỹ Việt Quốc, rồi bị hoàn cảnh bao vây chịu ép một bề đành quy thuận đoàn thể Việt Minh (thời gian theo học lớp cán bộ tăng gia sản xuất tại đồn điền Lợi Ký); người thanh niên bị xử tử trên đồi hẳn là một trong số đồng chí mà Liệt quen biết hoặc nhiều hoặc ít. Khi hoàn cảnh cho phép luột khỏi cuộc hợp tác với đoàn thể Việt Minh (trại tản cư do Liệt phụ trách tan vỡ) thì Liệt vội vã trở lại cuộc đời thường dân và khi có vợ có gia đình rồi thì Liệt vùi đầu vào làm nông tác để quên đi mối sầu đoàn thể mình sẩy đàn tan nghé. Nhưng khi rượu vào thì lời ra, anh riễu chính phủ kháng chiến; để ve vuốt u sầu anh ca những bài buồn, đặc biệt bài “Nguyễn Thái Học”. Mặc dầu chính sách tương đối dân chủ của chính phủ kháng chiến đã chuyển hướng từ đầu 1950, nhưng chưa rõ rệt và cuối 1950 còn những chiến thắng Cao Bắc Lạng làm cho con người thích cởi mở cõi lòng. Sang năm 1951 cuộc học tập chuẩn bị phong trào quần chúng đấu tranh tô tức, đấu tranh chính trị đã tới thời kỳ gay gắt, rồi những thất bại của quân ta trong chiến dịch duyên hải, thêm nữa không quân địch tung hoành bắn phá khắp nơi, không một ngôi đình, không một nếp nhà gạch còn nguyên… Cơ quan thông tin tuyên truyền Liên khu đến đóng đầu làng Liệt (trước cơ quan quân y trung đoàn của Tân chứng một tháng) Trước đây, nghe những lời sàm báng của Liệt, người dân hiền lành địa phương chỉ cho đó là lời bông phèng của một kẻ say vô hại, còn những chi tiết về Hoàng Phố, về Liễu Châu, về tự vệ Khu 7 Hải Phòng thời tiền kháng chiến thì đối với họ cũng xa lạ như những tên ngoại quốc. Nhưng tình thế đã gay go, cơ quan Thông tin tuyên truyền Liên khu lại đóng ngay gần làng, lời nói riễu cợt của Liệt đến tai viên cán bộ chỉ huy cơ quan Thông tin Liên khu. Y giật mình không ngờ trong nội địa xóm làng kháng chiến còn một tên phản động lớn gan đến như thế. Y tức khắc liên lạc với cơ quan kháng chiến hành chính Liên khu… Cơ quan này ra lệnh cho cấp kháng chiến hành chính địa phương bí mật điều tra Liệt. Tình hình quân sự cấp bách hơn: quân Pháp biểu lộ rõ ý chí muốn tiến sâu vào miền trung du hơn nữa. Thế là một buổi chiều kia, Liệt đã uống say đương nói ba hoa giữa sân, thì hai người du kích ập tới với hai khẩu mousquetons. Họ lên đạn ngắm bắn trong khi chị Liệt mặt cắt không còn hột máu, một tay bế đứa bé gái được ngót một năm, tay kia giắt đứa trai nhỏ lên bốn, ba mẹ con đứng dạt bên bờ dậu không ai dám kêu, không ai dám khóc.
Anh Liệt hoa tay:
– A, A! Bác Hồ bảo các chú đến đây bắn ta hả (anh nhíu lông mày, gườm gườm gương mặt), các chú có phải là người bôn-sê-vích?
Hai tay cò cùng bấm. Một sự hy hữu trong lịch sử xử bắn, cả hai viên đạn cùng thối, súng không nổ, anh Liệt cười ngất:
– Bảo mà, ta biết súng của các chú là súng bố láo, súng gỗ sơn hắc ín, đạn là pháo tịt ngòi, ha… ha…
Hai tiếng nổ liên tiếp, Liệt ngã bật ngửa, âm thanh tiếng cười ha ha còn như muốn kéo dài ở cửa miệng, nhưng có lẽ cả hai viên đạn vì bắn gần nên đều trúng chỗ phạm, anh chết tức khắc.
Cuộc xử bắn thật bất ngờ và nhanh chóng. Khi hai tiếng súng nổ vang, Tân còn trên đỉnh đồi. Khi Tân chạy xuống tới nơi thấy Liệt nằm chân co chân ruỗi ở giữa sân, vợ anh, hai con anh tới lúc bấy giờ mới dám khóc; chị khóc nỉ non, đứa gái nhỏ trên tay chị khóc ê a, thằng bé lên bốn ngồi xổm bên thi thể bố vừa mếu vừa khóc: “bố ơi, dậy đi bố…” Trong khi nó kêu bố dậy như vậy, nước mũi của nó đôi khi phồng lên thành chiếc bong bóng nhỏ rồi lại vỡ ngay dưới sức thở mạnh, y hệt hình ảnh những bong bóng nước xuất hiện trên mặt ao khi trời vừa bắt đầu đổ cơn mưa lớn. Hai tiếng súng xử tử Liệt còn đánh thức trong lòng Tân tiếng súng xử tử nhằm ngày nào trong nhà Tân do mẹ kể, còn đánh thức trong lòng Tân tiếng xử tử chàng trai trên đỉnh đồi khu đồn điền Lợi Ký và hai lần tiếng hô “Việt Nam muôn năm” của chàng trai trước khi chết.
Một Việt gian trước khi chết có thể dõng dạc và thành khẩn hô vang lên giữa miền núi đồi hoang vu “Việt Nam muôn năm” như vậy chăng? – Câu hỏi đó chắc đã được nêu lên trong tiềm thức Tân từ thủa đó, nhưng giặc Pháp còn kia, hoàn cảnh lịch sử muôn người như một còn kia, câu hỏi hợp lý không có kẽ hở để nhô lên khỏi tiềm thức. Nhưng ngày nay người Cộng sản Việt Nam đã bắc đầu nhắc chân khỏi miếng đất quốc gia như một thày phù thủy ngỡ mình đã đủ cao tay để vứt bỏ lá bùa hộ mệnh, thì lập tức ngàn vạn câu hỏi cùng xuất hiện long lanh như ngàn vạn vì sao chợt long lanh xuất hiện trên vòm trời một ngày nhật thực. Cũng may mà Tân có một thế giới riêng để say mê, khi đã vào việc chàng quên hết những bực rọc người đời; với chàng vào nghề thuốc là vào một thế giới cao quý trong đó chỉ có hai giai cấp rõ rệt: giai cấp những bệnh nhân đau khổ và gia cấp những người sử dụng con dao cái kéo tận tâm mổ xẻ, băng bó vết thương nhân loại. Vả chăng khi vào bệnh xá thì còn nhớ đến uy quyền huyện ủy, tỉnh ủy, khu ủy… mà làm gì? Nhưng ngoài giờ làm việc, quan sát sự đời, Tân cũng chỉ là một người bình thường, tránh sao khỏi bất mãn? Nhưng ngoài giờ làm việc, quan sát sự đời, Tân cũng chỉ là một người thường, tránh sao khỏi bất mãn? Có điều lạ là mỗi lần buồn bực Tân lại nghĩ đến Kha, người bạn thiết một ngày, nghĩ đến Kha như một liều thuốc mạnh an thần. Chỉ gặp Kha có một ngày làm sao Tân mến Kha đến thế!
Nhưng đôi bạn Tân, Kha còn lâu mới gặp nhau!
V
Kể từ nửa đêm hai mươi chín rạng ngày ba mươi tết, tiếng súng thưa hẳn. Trước đây hơn một tháng vào đêm Resveillon quân đội Việt cũng ngừng hẳn tấn công. Thái độ xã giao đó của cả hai bên tuy rất ngắn ngủi nhưng vô cùng trân thành, tưởng chứng anh lĩnh Pháp có thể thò tay ra khỏi hàng rào dây thép gai biếu anh lính Việt Nam chiếc đùi gà hoặc ngỗng quay và anh lính Việt Nam có thể chuyển qua lỗ châu mai biếu anh lính Pháp chiếc bánh chưng xanh. Trong một phút giao hòa, cả đôi bên cùng cảm thấy cái thậm vô lý của chiến tranh, phút giao hòa đó đã là một giọt nước mát lạnh giữa lò lửa. Chỉ tiếc rằng giọt nước thì nhỏ quá mà lò lửa thì lớn quá, cho nên khi giọt nước rơi xuống, một chút khói bốc lên và lò lửa tiếp tục ngùn ngụt khí thế tàn bạo.
Tình thế yên tĩnh đó kéo dài suốt ngày ba mươi. Buổi chiều Miên đã đi kiếm được chút ít củi mang về lều để sau bữa có thể đốt sưởi và nướng hạt dẻ ăn chờ giao thừa.
Khoảng sáu giờ chiều trời đã chập choạng tối, hơi rừng tỏa ra lạnh buốt, một chiếc Junker xuất hiện từ xa, bay tai lừ đừ tiếng động cơ vang lên đều đều hiền lành và cô độc. Tiếng vang lớn dần. Những tia sáng! Vụt lóe! Vụt biến! Ý nghĩ chợt thấy bất thường! Một loạt nổ rùng rợn đuổi theo tia sáng, xé không khí làm nứt rạn thớ thịt. Mọi người vội vã nằm rạp xuống! Tiếng động cơ xa dần… Nham hiểm! Im lặng!
Tiếng người xôn xao:
– Bom giây!
Một người từ trên đỉnh cao chạy xuống:
– Nó định bỏ vào làng, nhưng trệch, mắt tôi trông thấy chuỗi bom giây nổ liên tiếp trên cánh đồng rìa làng.
– Hú vía! Chắc không ai việc gì.
– Chắc thế!
Đình quân y cách làng chỉ chó năm trăm thước nên thoạt tiên ai nấy tưởng quân y lộ mục tiêu.
Đứng ở cửa phòng mổ nhìn sang bên kia dòng nước, trên một khoảng hơi cao, Miên nhận biết một con đường nhỏ heo hút đưa tắt xuống làng, con đường nhỏ chỉ xuất hiện có một quãng ngắn rồi toàn thể bị cây cối che lấp. Miên muốn xuống làng để hỏi xem tình hình ra sao nhưng trời lạnh ngọt, lại có cố vấn tới thăm bác sĩ T. tại phòng mổ nên nàng ở lại túc trực.
Câu chuyện cuối năm với tính cách xã giao giữa cố vấn và bác sĩ T. đương dở dang thì có bóng đuốc chập chờn trên con đường mòn bên kia dòng nước.
Bác sĩ T. dừng câu chuyện, chăm chú nhìn ánh đuốc ngạc nhiên. Thường thường nếu thương binh về bao giờ cũng có liên lạc viên tới báo trước.
Ánh đuốc tiến tới khoảng cao và mọi người trong phòng mổ nhìn qua màn gaze thấy rõ bóng hai người, tay chống gậy có chạc cáng một người bị thương trên võng (công dụng chiếc gậy có chạc trong tay mỗi người là để khi họ dừng lại nghỉ thì họ đặt đòn cáng lên đó). Theo sau cáng là một người đàn bà bế con. Miên đoán người bị thương là chồng bà ta. Nàng đã không lầm: Người chồng ra thăm đồng tất niên về đến đầu làng thì gặp chiếc Junker thả bom khủng bố.
VI
Người vợ ôm con ngồi đợi bên ngoài cùng hai người làng khiêng cáng. Bác sĩ T. xem xét vết thương xong khẽ lắc đầu:
– Hỏng! Đứt artère fémorale. Xương gãy không quan hệ.
Bác sĩ vẫn còn quen dùng tiếng Pháp! Miên hiểu đứt mạch máu chính ở đùi như vậy, kẻ bị nạn đã mất quá nhiều máu nên tâm thần mê man, mặt tái, toát mồ hôi lạnh, nàng phải đặt dốc đầu bệnh nhân xuống để máu xô đủ lên óc.
Không hiểu vì một hào hứng gì viên cố vấn bảo để cho y mổ, bác sĩ T. phụ tá.
Đã thành thạo trong nghề, Miên biết trước đường lối tuần tự phải theo để điều trị vết thương này. Phải buộc mạch máu lại; phải ghép hai đầu xương cho đúng hai vị trí cũ; phải tiêm thuốc hồi sinh để chống trạng thái mê man của người bị nạn.
Thực ra tình trạng cũng đã bi đát lắm nhưng bác sĩ T. nói: “còn nước còn tát!”
Nguy khốn làm sao, viên cố vấn đại tá quân y về thủ thuật đã bắt tay vào mổ vết thương khá lâu mà vẫn kiếm không ra mạch máu để buộc lại. Bác sĩ T. và Tân đứng đối diện lo lắng nhìn bàn tay hộ pháp với những ngón tay chuối mắn của y luồn sâu vào vết thương như người mổ cá đương cố moi lấy cái bong bóng ở mang cá để vứt đi. Người lính cần vụ (cũng là viên thông ngôn) lấy bình thủy đổ nước nóng ra chiếc chậu con rồi thấm chiếc khăn Hồng Kông có in hình con chim ở một đầu, hàng chữ Good Morning ở đầu khác, mang lại đứng bên trái để lau trán lấm tấm mồ hôi của y, mặc dầu trời lạnh. Miên đứng bên phải y, tay cầm bông thấm máu ở chỗ mổ.
Bác sĩ T. nói với nàng:
– Cô thay bông luôn và thấm kỹ vào kẻo máu chan hòa kín cả chambre opératoire.
Nhưng Miên đã chịu khó thay bông, luôn tay thấm mà những ngón tay chuối mắn vụng về của tên cố vấn càng tỏ ra bất lực trong công việc khẩn cấp tìm buộc mạch máu. Miên thấy xót xa. Bóng người vợ ôm con ngấp nghé ở bên ngoài màn gaze.
Bác sĩ T. đã sang thay cố vấn. Bác sĩ vừa buộc xong mạch máu, định ghép hai đầu khớp xương thì người bị nạn tắt thở.
Đêm lạnh! Thực là lạnh! Đêm ba mươi tết! Người vợ ôm con ngấp nghé ở bên ngoài màn gaze. Bác sĩ T. thở dài… Có lẽ với những chiến sĩ có nhiệm vụ chiến đấu và đã tận tình chiến đấu thì bị tử thương chỉ là sự thường nên bác sĩ ít thắc mắc, trái lại lần này bác sĩ mổ cho người dân với vợ dại con thơ chầu trực bên ngoài…
Hình như mọi người – trừ tên cố vấn, y không chú ý gì hết – đều thấy ngại việc ra báo tin dữ cho người vợ.
Miên vừa đứng dậy quyết định tự đảm nhiệm công việc nặng nhọc về tinh thần đó thì Tân đã dơ tay ra hiệu cho nàng đứng im rồi chàng bước ra phía cửa, tay khẽ vén màn gaze.
Bác sĩ T. ra hiệu lặng lẽ cho hai y tá khác chuẩn bị cáng thi thể nạn nhân lên nhà xác.
Không hiểu Tân nói những gì với người vợ, chỉ biết nàng khóc thét lên rất lớn rồi thôi hẳn không bù lu bù loa như thường thấy. Sự im lặng vì thế càng lạnh lẽo, càng đát, sự im lặng của tuyệt vọng, của cảm chịu.
Hai người nâng cáng nạn nhân khi nãy bắt đầu châm thuốc. Tiếng bước chân chuyển động nhẹ. Tiếng lội nước lõm bõm sau cùng cho Miên hay người vợ đã qua lạch nước. Nàng ngẩng lên nhìn qua màn gaze phất phới, ánh đuốc tỏa rộng và kết thành hai vùng hào quang bao bọc lấy hai đầu người, một của người mẹ và một của đứa trẻ.
Trí óc Miên lộn xộn ở phòng mổ. Trí óc Miên tiếp tục lộn xộn khi trở về lều nằm. Hình ảnh của người đàn bà và đứa bé… Tiếng khóc thét tuyệt vọng rồi im bặt… Ý nghĩ về đời người… Ý nghĩ về chiến tranh…. Tất cả quay cuồng lộn xộn trong trí, Miên thấy hận đời, thấy kiếp người phù vân quá, thấy trí thông minh của con người cũng bất lực (bác sĩ T. thất bại), thấy tình thương vợ chồng, tình con thương cha mẹ sao mà mênh mông. Người ta bắn giết nhau làm gì? Xét riêng đời sống từng cá nhân, đem tình ra mà đối xử với nhau thì tính mạng con người vô vàn cao quý, xô từng loại người vô danh vào guồng máy chiến tranh thì mạng người chẳng hơn gì con ong cái kiến.
Những người vừa làm việc tại phòng mổ được miễn tới dự buổi khai hội giao thừa. Miên thiếp đi giữa tiếng reo hò… Miên nằm mơ thấy Hiển về, nàng cúi xuống cởi giầy cho người anh mà nàng coi như người cha, nàng ngồi cạnh đôi giầy trường chinh và thấy mình bé đi như cô bé tí hon ngồi dưới bóng đôi hia bảy dặm. Hình như chinh chiến không còn. Hiển tiếp tục kể cho nàng nghe truyện cổ Đông – Tây, nhưng những truyện cổ đó sao vẫn đượm vẻ đau buồn của chết chóc? Trí Miên bỗng lãng đi, quên khuấy mất người anh cương trực của mình và một vừng trăng khuyết như bốc lên tự hồn nàng… Hồn mộng của nàng tiếp tục đi vào vùng ánh sáng buồn bã đó. Ớn lạnh!
Chương 4
TRĂNG SOI ĐƯỜNG MÒN
Chúng ta đã biết cuối thu 1947 Hiển và Tài ở mặt trận sông Cầu miền Nam Trung bộ về làng (Hạc Thủy) nghỉ mấy ngày, sau đó mỗi người một ngả: Tài lên dự mặt trận sông Lô rồi hoạt động vùng Đông Bắc, Hiển lên mặt trận Tây Bắc rồi sau cùng dự chiến dịch bao vây Nà Sản.
Mặt trận Tây Bắc thoạt đầu nhẹ mà về sau hóa ra nặng. Ngày Nhật đảo chính (mùng chín tháng ba 1945) bộ đội Pháp ở Hà Giang – Lai Châu lùi sang Tàu. Khi hay tin Nhật đầu hàng – mùng hai tháng tám 1945 – quân Pháp lại từ Tàu nhảy về Hà Giang Lai Châu với tư thế một kẻ háu ăn nhảy đại vào mâm, gắp đại vài miếng trước, “của ăn là của được”!
Dời làng Hạc Thủy, từ biệt cô em gái (Miên) – Hiển theo bộ đội lên Hà Giang quấy rối, đánh tỉa quân Pháp trong những trận đột kích, phục kích nhỏ. Mùa thu 1948 Hiển xung phong xin chỉ huy một đại đội – chừng một trăm người – đương sắp từ mặt trận Đông Tây côn lĩnh sang đột kích đồn Pháp bên mặt Tây núi này. Ban chỉ huy không chọn Hiển mà chọn một anh bạn khác hơn Hiển chừng ba bốn tuổi và tương đối thông thạo đường Tây côn lĩnh hơn.
Bộ đội xuất phát bên này rặng núi từ ba giờ sáng, ba giờ chiều hôm sau mới sang tới bên kia gặp đồn Tây ngay dưới chân núi. Quân ta bò qua ruộng mía. Chó sủa. Người Mán Cao lan tự trong bản ra trông thấy, tru tréo lên. Địch bắn tới tấp.
Biết cơ sự bại lộ, quân ta rút lui tức khắc, mang theo mấy người bị thương. Mooc-chi-ê địch bắn chặn đầu, quân chúng tự trong đồn kéo ra truy kích. Đồng đội đã có những người tử thương, đành bỏ xác lại. Mười hai giờ khuya mới rút lên đỉnh núi. Rét! Rét lắm. Áo vải trong, áo trấn thủ ngoài, tấm mền tung ra để quàng phủ kín đầu, tất cả đều như đan bằng sợi giá băng. Lạnh cắn ngập da, tràn vào thớ thịt, lan vào mạch máu, thấm sâu vào cơ thể.
Tây côn lĩnh cao 2431 thước sừng sững trên địa phận cao nguyên Păc-Kha, ở đúng vào miền ranh giới Lao Kay Hà Giang, ngay sát chí tuyến Cancer (sát ranh giới miền lạnh), ở sâu trong lục địa, rất xa biển. Trong miền đóng kín này các thung lũng thấp bên dưới (thung lũng sông Nhị Hà, thung lũng sông Cháy, thung lũng sông Lô) chỉ nhận được luồng gió lạnh duy nhất tự nội địa Vân Nam đổ về.
– Đi đi các anh, còn đi được thì sống! – anh chỉ huy nói lớn vừa để thúc giục, vừa để khuyến khích, đồng thời cũng là lời cảnh cáo.
Những người bị thương đã chết lạnh ở dọc đường hết cả.
– – Đi đi các anh, còn đi được thì sống! – lời anh chỉ huy luôn luôn vang lên nhắc nhở… nhắc nhở từ chính anh rồi đến mọi người.
Số người đi chậm lại, tụt về phía sau, gục chết đâu đó đã khá nhiều.
– Đi đi các anh, còn đi được thì sống! Chết rét là cái chết buồn ngủ, ngồi xuống ngủ gục là chết! – anh chỉ huy thêm vào lời căn dặn lời giải thích.
Cái lạnh là con quái vật khổng lồ gồm cả rừng núi Tây côn lĩnh, hình như gồm cả vòm trời bên trên nữa, tiếng gió gào ngàn là hơi thở của nó, bóng tối là miệng nó há ra nuốt chửng… nuốt chửng từng nạn nhân.
– Đi đi các anh, còn đi được thì sống! – tiếng anh chỉ huy xem ra cũng yếu lắm rồi.
Bước đi đều đều, bóng người loi thoi, hơi thở nhẹ dần không thấm được vào hơi lạnh ở ngay cửa miệng, rồi hơi thở nhẹ bỗng cùng với tâm trí… Hơi thở ngừng, tâm trí tan biến! Ngủ!
Lâu rồi không nghe thấy tiếng anh chỉ huy cất tiếng nói “Đi đi các anh…” Không biết giấc ngủ đã tràn vào mênh mang và cưỡng đoạt mất lời thúc giục đó của anh tự lúc nào.
Khoảng hai, ba giờ sáng mấy người sống sót đã đến lưng chừng núi bên này địa phận của ta mà cũng không chống nổi buồn ngủ. Thế là cả đại đội – trừ mấy người bị thương ngay dưới chân núi bên kai – đều đã ngủ gục rải rác suốt dọc đường từ lừng chừng núi bên kia tới lưng chừng núi bên này. Duy chỉ còn một người sống sót; người đó không phải là bộ đội mà là một đồng bào thiểu số địa phương được cử đi theo để chỉ đường giúp.
Ta thảm bại vì quân báo kém, cán bộ báo cáo sai. Quân báo không nắm vững tình hình địch, không báo rõ vị trí địch cách chân núi bao xa, nên khi bộ đội vừa tới chân núi không ngờ là đã tới sát đồn địch. Cán bộ báo cáo dân tình hoàn toàn theo ta; sự thực người Mèo ở trên cao, người Mán Cao lan ở dưới thấp đều ở rất rải rác, cán bộ đi thăm ba gia đình ở ba bản khác nhau là vừa hết một ngày rồi, ấy là nói lúc cán bộ đã hoàn toàn thuộc đường, biết trước chặng đi chặng nghỉ. Như vậy làm sao mà nắm vững được dân tình?
Cần ghi thêm điều này nữa: bộ đội ta ăn đói nên sức chịu rét bị giảm nhiều.
Chừng ba tháng sau bộ đội Hiển vượt Tây côn lĩnh, lần này rút kinh nghiệm lần trước, chuẩn bị kỹ càng hơn, chính xác hơn, quân ta thành công tương đối dễ dàng. Lúc đi cũng như lúc về gặp xác đồng đội cũ bèn chôn cất ngay, xác chưa hề thối.
II
Khoảng 1949-1950 địch gây sóng gió tại mặt trận đồng bằng (Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên…) Hiển có dời Tây Bắc một lần xuống tiếp tay cho bộ đội chủ lực nơi đây. Hiển dự mấy trận công đồn tại Hưng Yên, nhưng rồi anh phải trở về ngay địa bàn hoạt động cũ của mình để chuẩn bị cho những chiến dịch lớn buộc địch phải phân tán lực lượng. Hiển cùng một số chỉ huy cao cấp phân công nhau làm những việc sau này:
– Nghiên cứu kỹ địa hình địa vật.
– Tăng cường quân báo để có đều đều những báo cáo chính xác về quân số, võ khí, nhịp di chuyển dịch.
– Tăng cường công tác dân vận.
– Định trước từng chặng di chuyển của quân ta: đơn vị số mấy nghỉ ở bản nào, chuẩn bị gạo ăn bao nhiêu bữa…
Công tác đòi hỏi nhiều trí thông minh, óc tổng hợp, lộ trình lại quá ư vất vả. Núi Tây Bắc ít nước, gặp được dòng suối nhỏ quý như gặp bạn hiền, ngày này qua ngày khác chỉ thấy một màu đá trắng đốm đen, nắng cháy cảnh vật và cháy cả cổ họng nữa. Một thời gian ngắn, Hiển phải lần vào điều tra vùng hậu địch theo “đường dây”, nghĩa là du kích từng địa phương tuần tự đưa chàng chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác.
Công tác chuẩn bị chiến trường hoàn tất, mọi người trở ra, tới Đan Hà (Yên báy), ôi chao, nhìn con sống Thao mừng như đi xa về gặp lại mẹ hiền, chị thảo: dòng sông đỏ hồng, hiển rộng, nước cuộn dạt dào, đôi bờ bát ngát màu xanh. Mọi người còn theo triền sông mà đi chừng nửa ngày nữa. Đồng bào Thổ ở vùng núi thấp này văn minh hơn ở vùng núi cao nhiều, nơi ăn chốn ở cũng như quần áo đều sạch sẽ, đồng hồ đeo tay, bút máy gài túi áo chàm… Lý do: vùng này tiền đường thủy, trước đây, thời Pháp thuộc chính là vùng đi lại của loại khách thwong chuyên buôn thuốc phiện lậu tự Nghĩa lộ ra, tự Bắc hà xuống. “Con voi” (đoàn người) của họ – nói đùa theo tiếng Pháp convoi – có khi gồm trên dưới trăm gánh. Kẻ gồng gánh thì được tiền công, kẻ chứa trọ thì được tiền lời, tiền thù lao họ nhận được rất là hậu hỹ (để hết lòng giúp đỡ khách thương và không báo đoan)
Cuộc chuẩn bị chiến trường này hoàn hảo đến nỗi sau đó bộ đội di chuyển chỉ mang súng thôi, khỏi phải đèo thêm bao gạo; ngày đầu đường ít dốc, có đơn vị hành quân năm mươi bước đi, năm mươi bước chạy đã đạt mức kỷ lục: mười một cây số một giờ.
Sau này – vào năm 1953 – tởm bộ mặt Cộng sản, một cán bộ cấp chỉ huy đơn vị này bỏ kháng chiến vào thành. Một tướng cao cấp Pháp gọi điện thoại cho Sở Mật thám Liên bang yêu cầu đưa anh tới cho y đích thân hỏi cung vài điều. Khi nghe anh nhắc lại kỷ lục đi chuyển mà bộ đội anh đã đạt được, y đập bàn nói lớn:
– Anh nói láo, người thường đi rảo cẳng chỉ có năm cây số một giờ, bộ đội còn vác nặng làm sao hành quân với tốc độ mười cây số giờ?
Anh cán bộ quy thuận điềm tĩnh đáp:
– Sự thực chuẩn bị chiến trường của chúng tôi chu đáo, bộ đôi không phải lo về vấn đề tiếp tế lương thực. Chúng tôi đi năm mươi bước, chạy năm mươi bước.
Tên tướng trợn mắt, nghiến răng nói khẽ nhưng giọng căm hờn hơn:
– Anh chính là bộ đội địch vận vào đây với nhiệm vụ đề cao thành tích của các anh dưới mắt chúng tôi.
Trở lại chuyện sau khi đã chuẩn bị chiến trường Tây Bắc xong, tháng mười năm đó vừa hết mùa mưa, ta đánh Nghĩa Lộ; địch bỏ Nghĩa lộ chạy về Sơn la; ta đánh Sơn la địch bỏ Sơn La rút về cố thủ tại Nà Sản, mở rộng đường bay, chuẩn bị rút về Hà Nội bằng không vận. Quân ta vây quanh, chặn đường ra vào, chưa tấn công vội vì địch tập trung tới sáu, bảy tiểu đoàn bên trong, đóng ở các cứ điểm phòng thủ, khó đánh lắm. Địch thừa hiểu chiến thuật của ta là đợi chúng rút vợi đi quá nửa, ta sẽ huy động một hai sư đoàn tấn công vào. Hiển có mặt trong suốt mấy tháng bao vây Nà Sản. Phi cơ địch vận chuyển như thường lệ, quân số địch lén rút theo gần hết, tới khi trong Nà sản chỉ còn chừng hơn một tiểu đoàn ta mới hay, không sao tập trung lực lượng kịp để đánh úp. Hai ngày sau địch rút hết! Xung quanh Nà sản chúng chôn hằng hà sa số mìn, đến nỗi hai năm sau ta vẫn chưa dò và đào được hết. bao nhiêu đường dốc treo (đường dốc một bên có vực) chúng cho nổ mình, đá đường chuội hết, xe không đi được đã đành, người cũng chịu nốt. Để địch cứu thoát toàn thể quân lực tại Nà sản, ta hoàn toàn thất bại trong chiến dịch bao vây này cũng chỉ vì quân báo kém.
Hiển được cử sang Tàu theo học lục quân khóa tám. Trước ngày đi anh xin phép về Hạc Thủy thăm em. Miên gặp anh chuyến này hẳn mừng lắm. Trên đường về chính anh cũng thấy bồn chồn và đôi khi muốn chảy nước mắt khi nghĩ tới đứa em gái mồ côi của mình
Nhưng trước khi gặp Hiển, Miên đã gặp Tài. Chúng ta cần đi người thời gian chút ít nhắc lại cuộc gặp gỡ này.
III
Ba tiếng kẻng vang từ nhà bếp báo cho toàn thể cơ quan biết đã đến giờ ăn. Miên cùng các bạn về giường mình lấy ca sắt và đôi đũa. Chiếc ca thoạt dùng làm bát, ăn xong ra suối rửa, ca lại dùng để uống nước. Phòng ăn gồm bốn chiếc bàn tre xếp thành hai hàng, chân bàn là cọc nứa chôn liền xuống đất. Không có ghế, mọi người ăn đứng.
Những người tới phòng ăn trước có giọng nói hoan hỉ:
– A, hoan hô đồng chí cấp dưỡng hôm nay có thêm món “trường kỳ”
Mọi hôm, mỗi bàn ăn chỉ có giá cơm với tảng cháy lớn úp lên trên và chiếc chậu sành canh cải hoặc canh rau muống nấu với muối. Những người còn dư tiền sinh hoạt phí thì mua sẵn ít cá mắm, mỗi bữa nướng một con gọi là “tẩm bổ lẻ”. Hôm nay bên chậu sành còn một bát sành muối vừng giã với lạc. Không hiểu danh từ “món trường kỳ” do ai đặt ra để chỉ muối vừng, chỉ biết tiếng này đã phổ biến khắp cơ quan kháng chiến Việt Bắc. Lý do: có muối vừng, người ăn chậm nhất cũng được đậm miệng đến miếng cuối cùng.
Miên nghĩ đến những đĩa bánh nhân thịt, những lồng chật ních gà, những con gà quay mỡ béo vàng… bên “dinh” cố vấn. Trước đây Miên không hề thắc mắc về sự sai biệt giữa hai lề lỗi cấp dưỡng một trời một vực đó; nhưng từ sau lần chứng kiến viên cố vấn đại tá quân y về thủ thuật mổ vết thương đùi thì nàng thắc mắc, thắc mắc nhiều.
Miên từ quân y chiến dịch trở về cơ quan ở ấp họ Đỗ đã được mười ngày cho đến nay điều làm Miên ngạc nhiên không hẳn là ở điểm tên cố vấn thất bại trong công việc tầm thường nhất: tìm buộc mạch máu lại, nàng thật sự ngạc nhiên chính ở chỗ tên cố vấn không hề lấy điều đó làm xấu hổ và đặc biệt cứ mỗi lần chứng kiến một thương bình lên bàn mổ y lại “tái bản” câu hỏi ngớ ngẩn với bác sĩ T. :
– Ông xem có cần phải mổ không?
Miên thấy danh từ “cố vấn” thật là mỉa mai khôi hài cho bữa ăn của họ sao mà thô bỉ. Miên thẳng thắn nghĩ: ở họ chẳng có gì là hy sinh cho chủ nghĩa, họ chỉ hy sinh cho miếng ăn của họ, cho địa vị được ưu đãi của họ
Chiến dịch cầm chân ở Vĩnh Phúc đạt được kết quả mỹ mãn: quân đội Pháp trước đây đã phải bỏ Nghĩa lộ, giờ đây hoàn toàn tan vỡ ở Sơn La. Nhân đà chiến thắng này, trung ương đảng bộ quyết định rập theo khuôn mẫu của Đảng cộng sản Trung quốc áp dụng chính sách “phóng tay phát động quần chúng nông dân đấu tranh chống lại địa chủ”. Tuy đó mới chỉ là học tập trên lý thuyết mà khuôn mặt các đảng viên đã có sự dung hợp khăng khít giữa thái độ nghiêm lạnh với tình trạng mê muội. Từ ngày gặp Tân, Miên có ý thức về thái độ mình và thường tìm cách phân tích một cách hài hước nhứng cử chỉ, những lời nói của các đảng viên nhưng có một lần nàng đã không hài hước nổi đó là lần nghe lời đối thoại của hai cha con ông tá điền tại ấp họ Đỗ.
Nguyên ông chủ gia đình họ Đỗ hoạt động cho một đảng phái quốc gia hoàn toàn đối lập với Việt Minh. Khi Việt Minh thắng thé nắm chính quyền ông đưa cả gia đình vào Sài Gòn, các tá điền cũ bỗng nhiên trở thành các chủ nhân ông thực sự, phần ruộng cấy chia trước. Gần kho thuốc quân y nơi Miên làm việc là căn nhà lá của một gia đình tá điền. Nói là gia đình, kỳ thực thường ngày chỉ có một người cha chạc năm mươi tuổi. Ông góa vợ từ năm đầu kháng chiến, đứa con trai độc nhất của ông đã trên hai mươi, thoạt là du kích hàng ấp, sau là du kích hàng huyện, nay gia nhập quân đội chính quy và ở cấp cán bộ trung đội. Miên từ chiến dịch Vĩnh Phúc về được ba hôm thì người con trai kia từ cơ quan quân báo về thăm cha; trên khuôn mặt y, Miên có nhận thấy sự dung hợp khăng khít giữa thái độ nghiêm lạnh với tình trạng mệ muội; y lại đương ở tuổi thanh niên cường tráng nên thái độ đó, tình trạng đó cũng lồ lộ vẻ.. “cường tráng” bất khuất.
– Thắng Toán – người cha hỏi – vẫn ở cùng cơ quan mày? (Toán là bạn đồng niên cùng hàng ấp với con ông)
– Thằng ấy luôn có thái độ bất mãn! – người con đáp – Bất mãn cái gì mới được chứ! Đảng là tất cả, đường lối của Đảng do tất cả quyết định, có điều gì không đồng ý thì cơ quan ngôn luận của Đảng là báo Cứu quốc đó, cứ việc bộc lộ…
Người cha ngắt lời:
– Tao biết Toán nó lo nhiều về gia đình, mẹ thì già, vợ thì ốm đau luôn, con cái lại chẳng có.
Người con tặc lưỡi:
– Lấy vợ là để giải quyết vấn đề sinh lý, nếu không thể có con thì bỏ! Lấy người khác! Có gì mà phải quan trọng hóa vấn đề?!
Người cha công phẫn:
– Nói như mày, chó nó cũng không ngửi được.
Người con cười khẩy một tiếng rồi dư biết cha không thể có tư tưởng “cấp tiến” để hiểu nổi mình y bèn đứng dậy đi ra sân. Ngay chiều hôm đó y trở lại cơ quan quân báo liên khu, hai cha con chia tay thản nhiên. Và cũng kể từ đấy Miên thấy người cha có vử ưng kiếp cô độc của mình.
Buổi tối hôm ấy kiểm thảo toàn thể cơ quan, Tang cô bạn trong tổ tâm giao với Miên, giơ tay xin phát biểu ý kiến.
– Tôi có ý kiến – Tang nói – phê bình đồng chí Miên. Chiều hôm qua khi đồng chí Miên cùng tôi đi qua cơ quan thông tin thoáng nghe tiếng bài “Thiên Thai” của đài Hà Nội, đồng chí Miên có nói: “ở trong rừng lâu ngày, nghe radio bài đó như thấy ánh sáng của Hà Nội”. Tư tưởng đồng chí Miên như vậy e có hại tới lời dạy của Hồ chủ tịch: “Phải trường kỳ gian khổ để kháng chiến đến cùng!”
Miên thành thật nhận lỗi. Phản ứng đầu tiên của Miên trước bất cứ lợi chỉ trích nào vẫn là kiềm chế hẳn lòng tự ái, xóa nhòa hẳn cá nhân mình.
Khi bế mạc, Tang chạy lại gặp Miên giải thích:
– Tôi đem lời tâm sự của đồng chí ra phê bình chính là để giúp đồng chí tiến.
Miên cười đáp lại:
– Tôi biết chứ!
Nhưng cũng kể từ đó Miên thực sự cảm thấy chua chát tận đáy lòng. Tuy là nữ giới ở cơ quan quân ý nhưng Miên cũng hiểu là quan niệm về danh dự đã đổi thay, chia rẽ đã len đến từng gia đình; cha con anh em ruột thịt còn chống nhau vì chính kiến thì lòng phản trắc giữa bạn có gì là lạ, chỉ có điều mỉa mai (hay khôi hài?) là những đổi thay, phản trắc đó được phủ hoa bằng lý do: “muốn cho nhau tiến!”
Bản tính dịu hiền, Miên còn thâm trầm nữa, nàng tự nguyện từ nay đối phó với tổ tâm giao bằng nụ cười, một nụ cười bất biến, tự động như máy, nhưng đằng sau nụ cười đó là những kẻ phản trắc mê muội kia đừng hòng tiến thêm một bước nào nữa vào thế giới tâm tư cao quý của nàng.
Vừa hay Miên được bác Hỷ tới cho hay tin Tài về.
Bác Hỷ như trên đã nói là người đàn bà góa hàng xóm trước đây có chịu hàm ơn bà Quản. Bác góa chồng được mười năm nay chỉ có một đứa con gái đầu lòng: cái Hỷ. Vụ đói năm 1945 mẹ con bác thoát chết nhờ sự cưu mang của bà Quản. Từ ngày đó bác vẫn trông nom ruộng nương cho bà Quản như một gia nhân thân tín, kể từ ngày có cuộc cách mạng tháng tám, bà lại được bà Quản cấp vốn ngày ngày đi chợ quanh huyện Lập Thạch buôn đi bán lại mùa nào thức nấy. Mỗi khi cần báo tin cho Miên điều gì bà Quản vẫn nhớ đến bác Hỷ. Lần này bà Quản nhờ bác đến báo tin cho Miên hay là Tài về.
Miên xin phép ban chỉ huy cơ quan về thăm nhà ngay chiều hôm đó. Nàng muốn gặp Tài để chia vui với bà Quản, nàng còn muốn gặp Tài để… gặp Tài nữa. Theo tiếng gọi của trí tò mò? Hay của tấm lòng cô đơn chờ đợi?
Vừa về đến nơi, không biết có phải vì ảo vọng, Miên tưởng có thoáng nhận thấy ở tia mắt Tài một ánh vui gặp gỡ nhưng ánh vui đó vụt tắt ngay để khuôn mặt Tài giữ được vẻ điềm đạm lạnh lùng như các khuôn mặt đảng viên khác mà nàng thường gặp hàng ngày.
Thì ra ở bất cứ đâu – Mien nghĩ thầm – các đảng viên cũng đều được huấn luyện cho đúng khuôn khổ như những viên gạch cùng một lò.
Tài già hơn trước nhiều, nước da xạm nắng, đuôi mắt có những vết nhăn sâu, tóc hớt ngắn. Tài thoạt trao đổi cùng Miên vài câu chuyện xã giao thường. Giọng Tài cũng già dặn như người.
Bà Quản vui lắm, bà hấp tấp chạy xuống bếp, bà hấp tấp lên nhà, bà soăn soe đến bên Tài hỏi điều này điều nọ, bà hỏi như để nghe tiếng mình hỏi và để chắc chắn là niềm mong ước được chăm nom Tài nay thành sự thật, có thế thôi, bà không để ý, không quan tâm đến vẻ điềm đạm – có thể nói là lãnh đạm – của Tài.
Tài không biết gì về tin tức của Hiển. Thấy Miên thắc mắc quá nhiều về Hiển, Tài nói:
– Cô nên gắng học tập nhân dân. Việc học tập này cực kỳ công phu bởi mình phải thường xuyên cảnh giác để chiến đấu với tinh thần cá nhân vị kỷ của chính mình…
– Thấy Miên không nói gì Tài tiếp:
– Đảng chú ý xây đắp hạnh phúc cho nhân loại, trong nhân loại có cha mẹ mình, anh em mình… Để bảo tồn quyền lợi của nhân loại, người sáng suốt phải biết nhìn xa mà hy sinh mọi tình cảm nhỏ hẹp…
Tuyệt nhiên trong câu chuyện, Tài không nhắc đến chuyện khu rừng lau trên núi Sáng dù – Miên biết lắm – chỉ là nhắc đùa thôi.
Miên trở về cơ quan. Nàng ân cần chào bà Quản nhưng cũng chẳng buồn nhìn về phía Tài. Với Miên cuộc chia tay này cũng lạnh nhạt như cuộc chia tay hai cha con ông tá điền ngày nào, lạnh nhạt vì hai bên tự biết đã ly biệt trên hai ngả tâm hồn với những niềm ấp ủ khác nhau. Miên chưa hề có ý yêu Tài, nhưng cũng thấy mình vừa bị thất vọng cay đắng. Cũng từ đấy nàng không còn kỳ vọng ở một chàng trai đảng viên nào một tình yêu êm dịu, một tình yêu kỳ thú như nước với non trong mấy câu thơ của một thi sĩ thủa tiền cách mạng:
Giấc thẳm tình duyên non gối nước
Màn sương để lọt ánh sao băng
Hồn hoa chợp mộng thơm hồn gió
Tóc liễu rừng thơ đón tóc trăng.
Tự nhiên nàng thấy ngao ngán, cõi lòng bỗng thênh thang vắng lạnh như căn nhà vừa bị mất trộm một phần lớn gia bảo.
Trong những cuộc sinh hoạt kiểm thảo về buổi tối Miên thường vừa được đề cao vừa được phê bình:
– “Đồng chí Miên có ưu điểm thường xuyên tích cực trong công tác, nhưng đồng chí Miên còn thái độ xa nhân dân, ít chịu nói chuyện, ai hỏi câu nào đáp câu ấy.”
Sự thực Miên có nói chuyện thân mật với mấy chị em cùng cơ quan, nhưng họ đều là những “quần chúng” (không phải đảng viên) như nàng. Như vậy thì phải nói rằng nàng có thiện cảm với nhân dân mới đúng; còn với nữ đảng viên thì đúng là câu hỏi nào nàng đáp câu ấy. Họ còn quên mất điểm này: đáp lại với nụ cười rất hiền lành, rất nhẫn nại, nụ cười tuyệt đối không tấn công ai nhưng cũng là lợi khí nhiệm mầu khiến không ai tấn công nổi nàng. Tấn công một nụ cười đó có khác gì đánh ào không khí hoặc giận một chiếc thuyền không người?
Sau ngày gặp Tài qua đi chưa đầy một tháng thì một buổi chiều bác Hỷ đến báo tin cho Miên hay Hiển đã về. Tin vui đến đúng vào lúc nàng chìm nghỉm trong tuyệt vọng. Nàng thoạt không dám ngờ đó là tin thực. Hiển đã về! Người anh mà nàng quý mến như cha, nhớ mong như mẹ đã về sau bốn năm vắng mặt! Suốt buổi chiều đó nàng bận lắm, nàng cố tình làm cho xong công việc rồi sau khi đã xin được phép nghỉ mấy ngày nàng đi như bay về làng. Nàng đi đêm dưới ánh trăng, nàng bay dưới đêm trăng…
Hiển cũng như Tài già trước tuổi rất nhiều nhưng còn nguyên đôi mắt với tinh thần sáng suốt, miệng cười tươi thành thật, đó là những điểm làm Miên yên lòng. Nàng tíu tít hỏi anh. Ít khi nàng hỏi nhiều, nói nhiều để được nghe trả lời nhiều như thế.
Gương mặt bộc lộ nhiều cảm tình Hiển bỗng rắn lại khi anh kể những trận công phá đồn địch vào sinh ra tử.
Miên hỏi:
– Trong lúc đó có khi nào anh nghĩ đến đứa em gái mồ côi của anh không?
Hiển lắc đầu:
– Trong những giây phút quyết liệt đó ai cũng chỉ nghĩ nếu mình ngã xuống còn những kẻ khác tiến lên, phần thắng nhất quyết phải về mình.
Sự thực lời Hiển nói chỉ đúng có một nửa. Đúng là trong những phút quyết liệt công đồn, Hiển chỉ nghĩ sao chiếm được cho bằng được đồn và nếu mình ngã xuống còn những kẻ khác tiến lên. Nhưng sau phút chiến thắng hoặc có lần phải rút lui, Hiển có nghĩ đến đứa em gái mồ côi nhỏ dại của mình. Không hiểu sao Hiển tin là Miên nhỏ dại như thế còn lâu lắm nữa. Và đặc biệt sau bốn năm xa em gái, bốn lần ngày giỗ cha mẹ đều đúng dịp công đồn quyết liệt, Hiển có kín đáy bày lễ và thắp hương giữa trời khấn cho cha mẹ. Hiển không hề tự kiểm soát mình có tin rằng có linh hồn cha mẹ về hưởng. Hiển chỉ biết lòng tưởng nhớ cha mẹ là hợp đạo làm người và sau khi thắp hương khấn khứa như vậy Hiển ra đi công đồn vững dạ không bị ám ảnh bởi cái chết.
Được về thăm Miên lần này, Hiển cho em biết ngay là anh chỉ ở lại nhà có hai ngày, sau đó lên đường sang Tàu theo học lục quân khóa tám.
Miên lo lắng hỏi:
– Anh đã được kết nạp vào Đảng chưa?
– Phải có tín nhiệm lắm anh mới được cử đi chuyến này – Hiển đáp – việc kết nạp chắc chỉ nay mai thôi. Chiến dịch Tây Bắc vừa rồi, trong khi chiến đấu anh dũng bên các đồng chí, anh đã tích cực học tập để hoàn toàn gạt bỏ đầu óc anh hùng cá nhân.
Miên quay nhìn nơi khác dấu niềm lo âu. Nàng sợ lắm! Chưa được kết nạp, tình cảm của anh còn được tưng bừng thế kia, mai đây sang đến đất Tàu, được kết nạp rồi sau một thời gian huấn luyện vào khuôn vào phép chắc chắn anh lại có vẻ mặt lạnh lùng của bất cứ đảng viên thực thụ nào. Tất cả những người thân trong gia đình, Miên chỉ còn có anh. Mẫn ở miền Nam với ông chú biết rằng bây giờ ra sao, còn sống hay chết trong những ngày kháng chiến đầu tiên tại Nam Bộ? Hy vọng vì có ngày gặp mặt!
Tiếng Hiển cười an ủi:
– Kìa làm sao cô khóc? Được sang Tàu theo học anh thích lắm và cô đừng lo, chỉ hai năm sau là cùng, anh về mà. Kháng chiến khi đó chắc cũng đến ngày thành công rồi.
Suốt hai ngày đó Miên ôn mãi trong trí nhớ lời nói của Tài:
“Đảng chú ý xây đắp hạnh phúc cho nhân loại, trong nhân loại có cha mẹ mình, anh em mình… Để bảo tồn quyền lợi của nhân loại, người sáng suốt phải biết nhìn xa mà hy sinh mọi tình cảm nhỏ hẹp”
Miên biết “tình cảm nhỏ hẹp” đây ý Tài muốn ám chỉ tình cha con, vợ chồng, anh em – dù là anh em mồ côi – như nàng và Hiển.
Buổi chiều hôm sau, Miên cương quyết trở lại cơ quan. Hiển hỏi sao không ở lại chờ tiễn anh thì Miên im lặng không biết đáp sao.
– Cô không tiễn anh – Hiển vừa cười vừa nói – thì anh tiễn cô vậy.
Tiễn Miên gần tới cơ quan, Hiển chú ý mấy bước chân Miên ngần ngại dần, bỗng nàng quay ngoắt lại, rảo bước đi trước anh trên đường trở về, nàng bước nhanh như chạy trốn. Mà quả thực nàng đang chạy trốn những hình ảnh, những khuôn mặt ở cơ quan. Hiển không hiểu gì, anh bỡ ngỡ nhìn theo Miên rồi cũng rảo cẳng bước theo sau.
Ngày Hiển lên đường, Miên tiễn anh ra tận bờ sông Đáy. Hiển sẽ vượt qua ngọn Tam đảo sang bên kia Thái Nguyên. Mối sầu nặng chĩu, Miên tiến thêm mấy bước, lội hẳn xuống nước nhìn còn đò ngang đưa anh sang bờ bên kia.
Từ đò ngang nhảy lên bờ rồi leo lên đê và trước khi xuống đê, Hiển quay lại vẫy em một lần cuối.
Miên chua xót nghĩ thầm: Bây giờ nah còn là anh của em, hai năm nữa anh là cán bộ của Đảng, anh đâu còn thế này nữa. Nghĩ đến cảnh cha mẹ mất sớm, nghĩ rằng đã mấy năm qua, rồi còn bao nhiêu năm qua nữa, mỗi năm tới ngày giỗ cha mẹ hai anh em mồ côi vẫn mỗi người một phương trời, Miên không sao cầm được nước mắt. Tiến thêm mấy bước nữa gặp khoảng trũng của một lòng sông nước sâu ngập đầu gối, Miên muốn rằng thà mình cứ từ từ chìm xuống một cái giếng sâu không đáy…
Có tiếng người lao xao xuống bến đợi đò, Miên vội cúi xuống sông vờ vục nước rửa mặt. Nàng cứ phải vục nước lên rửa mặt hoài; thương cha mẹ, thương thân, lo cho anh… ruột nàng thắt lại, cổ nghẹn ngào và nước mắt trào ra… trào ra… như hai dòng suối nhỏ muốn góp phần nước mặn vào dòng sông Đáy.
Buổi chiều hôm đó Miên chưa về cơ quan, nàng leo lên đỉnh núi đầu làng nhìn sang khu rừng lau. Khoảng xanh cẩm thạch đó vẫn lay chuyển trong nắng chiều như cười riểu ý nghĩ của Miên: “Sao không là rừng mía lại là rừng lau?”
Hoàng hôn tắt dần…
Miên gục mặt trên đầu gối. Nàng chợt thấy mình như kẻ bộ hành bơ vơ đói khát, trước mặt là con đường dài phải vượt, hai bên đường là những khu rừng lau… những khu rừng lau… Nàng thèm khát một cây mía, một đẵn mía với hương vị ngọt ngào để lấy lại sinh lực mà tiếp tục nốt quãng đường đời.
Khi Miên rùng mình ra khỏi giấc mơ, ánh trăng thượng tuần non yếu – non yếu như tâm hồn nàng – toả xuống ngỡ ngàng cùng cảnh vật. Muôn đời – phải chăng đến muôn đời – nàng chỉ là nàng tiên đi dưới trăng, cô độc? Ánh trăng hiu quạnh soi con đường mòn bơ vơ!
Miên đã đứng dậy. Nàng uể oải lần theo đường mòn xuống núi, chưa quyết định sẽ về nhà bà Quản hay đi thẳng về cơ quan cách một giờ đưòng nữa. Cỏ cây đẫm sương nên cảnh vật càng lạnh lẽo và đượm vẻ hoang tàn. Miên có cảm tưởng cõi đời chỉ còn một mình nàng biết yêu cảnh. Cảnh rộng lớn quá, tình cảm của một nàng làm sao sưởi ấm cho tất cả?
Chương 5
MẦM SEN TRONG HOẢ NGỤC
Cuối năm 1952
Chính sách dùng nụ cười làm bình phong che những nỗi niềm thầm kín thiêng liêng của Miên đến đây đã hết hiệu nghiệm. Chính Miên cũng không sao giữ nổi nụ cười nữa. Miên thấy mình sống giữa hai lò lửa, một lò lửa bên trong là nỗi lo âu của nàng về Hiển sang Tàu, lò lửa bên ngoài là chính sách “Phóng tay phát động quần chúng nhân dân đấu tranh chống địa chủ” đã từ giai đoạn học tập trên lý thuyết rục rịch chuyển sang thực hành.
Đầu năm 1953 Việt Bắc chính thức phát động phong trào đấu tố, khởi đầu là bà Cát Hanh Long.
Kinh nghiệm cuối năm 1952 tại những điểm thí điểm đấu tố Liên khu Ba (Hà Đông, Ninh Bình, Phủ lý và cả Thanh hoá của Liên khu tư nữa) đã cho thấy Đảng hay có dấu như vậy mới “moi ra” được hết lũ “Việt gian” tay sai cho “tư bản đế quốc” gồm tụi địa chủ, cường hào và phần lớn trí thức tiểu tư sản. Vậy – vẫn theo lý luận giải thích của đảng – muốn tiếp tục cuộc chiến tranh này bắt buộc phải loại trừ “lũ chiên ghẻ” trên ra khỏi hàng ngũ kháng chiến.
Thoạt tiên tại cơ quan Miên, mọi người học tập bài của viên Tổng bí thư Đảng đăng trên báo Nhân dân:
“Cuộc kháng chiến chống Pháp ngày nay là do sức của nông dân bởi vì giai cấp nông dân cung cấp người, của cho kháng chiến nên Đảng phải thực tế đền bù lại cho giai cấp đó nhiều quyền lợi. Do đó nhiệm vụ phản đế phải đi liền với nhiệm vụ bài phong. Diệt trừ giai cấp địa chủ để phát động giai cấp nông dân là nhiệm vụ bài phong, là một quốc kế dân sinh vĩ đại.”
Bà Cát Hanh Long, địa chủ ở Thái Nguyên đã giúp cách mạng từ thời bí mật; cho tới ngày đó bà vẫn được đoàn thể đề cao như một bà mẹ điển hình của chiến sĩ, một ân nhân điển hình của kháng chiến. Giờ đây Đảng cố ý đem bà ra đấu trường làm vật hy sinh đầu tiên để chứng tỏ với giai cấp nông dân dù là địa chủ có công với kháng chiến đến mấy cũng vẫn bị Đảng nhân danh quyền lợi của nông dân mà trừng trị. Hai lần cuộc đấu phát động, hai lần thất bại vì cán bộ mủi lòng không gây được hào hứng. Nông dân đấu tranh đã không căm thù, khi ra về còn tỏ vẻ ngao ngán trách chính phủ sao quá tận tình.
Đảng Lao động cam nhận hai lần vô chính trị nhưng nhỏ khôn ngoan tránh được lỗi vô chính trị lớn là hành quyết bà Cát Hanh Long ngay lúc đó.
Một lần nữa, tại khắp các cơ quan cùng tổ chức một phong trào tổng kiểm thảo cho sáng và vững lập trường:
“Phải biết trau dồi và học tập tính quả cảm của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân bao giờ cũng biết đặt đúng chỗ là lòng thương nhân dân. Biết thương nhân dân tức là biết căm hờn kẻ thù của nhân dân trong đó giai cấp địa chủ là kẻ thù chính.”
Cuộc đấu tố lần thứ ba đã thành công. Trong ba tiếng đồng hồ liền, các vợ con tá điền thay nhau nhảy chồm chồm xỉa xói vào mặt bà Cát Hanh Long mà la hét chửi rủa. Thỉnh thoảng toàn thể đấu trường lại vang động tiếng hô lớn:
“Đả đảo địa chủ đại gian ác!”
“Đả đảo địa chủ ngoan cố, chó săn chó giặc!”
bà Cát Hanh Long lần lượt bị tố cáo là đã làm gián điệp cho phát xít Nhật, rồi gián điệp cho thực dân Pháp, đã giết ba tá điền, đã tư thông với một công sứ Pháp ở Thái nguyên.
“Nhân dân” đòi tuyên án tử hình. Và “nhân dân” đã được toại nguyện!
II
Sau vụ bà Cát Hanh Long, tại cơ quan dân y luôn luôn có cuộc học tập để biết… đặt lòng thương đúng chỗ. “Lòng thương đặt đúng chỗ là lòng thương nhân dân. Biết thưong nhân dân là phải biết căm hờn kẻ thù của nhân dân”. Đồng thời cơ quan cũng luôn luôn thông báo đầy đủ tin tức về những cuộc đấu tranh thắng lợi của giai cấp nông dân chống địa chủ tại đấu trường khắp nơi.
Tuy chưa được trực tiếp dự những cuộc đấu tố đó, nhưng qua những bài tường thuật trên báo “Cứu quốc”, báo “Nhân dân” và qua lời thuật của vài người được dự, trí tưởng tượng bỏng rẫy của Miên cũng đủ thấy như thực những gì đã xảy ra.
Miên như muốn ốm, chân tay rã rời. Trước đây mỗi lần có tiếng kèn tan giờ hành chính để ai nấy sửa soạn để mang bát đũa tới gian phòng ăn, Miên cũng ríu rít cười đùa cùng các chị em khác, đó là những giây phút nghỉ ngơi giải trí trong trẻo nhất trong cuộc kháng chiến hàng ngày (buổi tối đã phải khai hội kiểm thảo và học tập căm hờn rồi). Giờ đây mỗi lần nghe tiếng kèn,Miên chỉ thở dài. Thế giới nàng sống mất tình thương chỉ còn là bãi sa mạc, tâm hồn nàng chẳng còn bóng thân yêu nào để ấp ủ cũng biến thành một bãi sa mạc.
Không biết – Miên tự hỏi – đào sâu xuống… thật sâu xuống lần cát, có gặp mạch nước ngầm không nhỉ? Miên muốn tin rằng đáy sa mạc vẫn có mạch nước ngầm sạch trong và mát rượi. Không hiểu vì một liên tưởng gì Miên nhớ tới một bài học địa lý cũ nói về núi lửa trước khi phun có điềm là các dòng suối chung quanh đều khô hạn hết. Phải, sự căm hờn làm cạn hết những dòng suối trong mát của tình cảm thì phải.
Đêm nào trước khi nhắm mắt ngủ Miên cũng nghĩ đến Hiển, nhớ lại những ngày nàng tiễn anh tới bờ sông Đáy, nhớ tới vóc người cao lớn, dáng đi hùng dũng mà hiền hoà của anh ở bên kia bờ đê và nhất là nhớ tới hình ảnh anh quay lại một lần cuối cùng, thân yêu vẫy nàng.
Khu rừng lau. Trong trí tưởng tượng của Miên, Hiển đã đi vào khu rừng lau ngút ngàn đó và không bao giờ trở lại nữa, Miên tin là thế. Trời ơi, sao không là rừng mía mà lại là rừng lau?
Nhiều đêm Miên đã ứa nước mắt mà nghĩ rằng: Thà đừng bao giờ anh trở lại nữa còn hơn anh trở lại để nàng chứng kiến sự thay đổi từ nét mặt, cử chỉ đến lời ăn tiếng nói như Tài, hay như bất cứ một tên cán bộ cuồng tín nào. Chúng giống nhau như những hòn gạch, như những đồng xu.
Đã có lần Miên nấc lên khi trí tưởng tượng quá mạnh khiến nàng như có nghe thấy Hiển lên tiếng theo luận điệu của Tài khuyên nàng:
“Đảng chú ý xây đắp hạnh phúc cho nhân loại. Trong nhân loại có cha mẹ mình, anh em mình. Để bảo tồn quyền lợi của nhân loại người sáng suốt phải biết nhìn xa mà hi sinh mọi tình cảm nhỏ hẹp…”
Lại có đêm Miên nghĩ đến thoát ly khỏi thế giới này. Nghĩ để mà nghĩ thôi, Miên biết thế! Nhưng có lẽ càng biết thế Miên càng phóng trí tưởng tượng đi thật xa để thoả niềm ước ao. Nàng mơ trốn được sang phía trời Âu; nơi đây sau trận đại chiến thế giới thứ hai con người đã tỉnh ngộ, đã biết ghê tởm bàn tay vấy máu của mình. Rồi sẵn kỹ thuật cao, họ xây dựng lại sự đổ náy bên ngoài cho xứng đáng với sự giác ngộ bên trong. Miên nhớ tới một tờ báo Âu (tờ Paris Match thì phải) mà nàng đã đọc lướt tại phòng mổ bác sĩ T. bên trong có trang ảnh chụp một vườn hoa tại Luân Đôn; nằm dài trên bãi cỏ là những cặp tình nhân ôm sát nhau trong khi đó vẻ mặt những người qua lại ngay bên vẫn nghiêm trang nhìn thẳng; đó không phải là thái độ lạnh lùng mà là thái độ kẻ biết kính trọng tình yêu.
Ở tuổi Miên hiện giờ, việc nàng lưu luyến những hình ảnh của tình yêu nào có gì là lạ? Những hình ảnh trai gái ôm ấp nhau trong yêu đương đó xuất hiện trong trí tưởng tượng của Miên cao đẹp làm sao, những kẻ đạo đức nửa mùa chẳng thể hiểu nổi. Trong thâm tâm, Miên khao khát tình yêu mà đối tượng có thể là Tài. Miên có ao ước đựoc Tài đưa đến xem khu rừng lau bên Bỉnh Di trên núi Sáng. Miên không quên nàng đã nói với Hiển: Sao không là rừng mía mà lại là rừng lau?! Với những kẻ bộ hành suốt ngày đi dưới nắng hè, câu hỏi trên thật là khẩn cấp, nhưng với cặp tình nhân đương thở hút bầu không khí dịu ngọt của yêu đương thì đi vào màu xanh uyển chuyển đó là đi vào một mùa xuân bất tận, tóc Miên sẽ lẫn với tơ trời, hơi thở Miên sẽ lẫn với nắng và gió.
Mộng đẹp yêu đương của Miên còn đáng thương và chua xót hơn giấc mộng chinh phụ gặp chồng ở bến Lũng thành Quan bởi ít nhất người chinh phụ đó đã có một thời kỳ được sống thực sự với mối tình lý tưởng, còn với Miên, bạn của của nàng là Tài đã chuyển hướng. Viên chính uỷ trẻ tuổi trong cơ quan đôi khi có ý đưa đẩy câu chuyện với nàng, nhưng làm sao Miên có cảm tình được với y? Khuôn mặt sát tận xương, quầng mắt thâm, môi thâm, lợi thâm, miệng luôn ngậm đểíu thuốc lá của hãng Bắc Sơn, Miên có cảm tưởng con người y bốc ra mùi hôi ẩm của khói thuốc và nàng rùng mình. Miên có nghĩ tới Tân mà nàng được gặp trong chuyến đi chiến dịch vừa rồi. Nàng quý mến Tân như quý mến Hiển và cách Tân đối với nàng cũng như hệt người anh đối với em gái nhỏ. Tân há chẳng đã gọi nàng là “cô em gái nuôi” đó ư? Tân chẳng hề hỏi tuổi Miên để được biết rằng mặc dầu dáng nàng thon nhỏ nhưng nàng đã trên hai mươi tuổi rồi, tuổi ưng làm vợ mà chẳng ưng làm em gái.
Miên thấy thôi thế là tuổi hoa niên của nàng đành chịu thui chột vì thiếu tình yêu, điều thê thảm đối với nàng là sự thui chột đó vô phương cứu chữa, nó kéo dài một cách tuyệt vọng như con tàu va phải băng sơn, mất liên lạc với mặt biển, đương chìm dần… chìm dần… cho đến ngày mất tích hẳn dưới khối nước băng giá.
III
Việc cán bộ “tam cùng” về bắt rễ tại một làng thôn nào thường được các cán bộ khác giải thích bằng những lời mập mờ cho dân chúng khỏi sao xuyến:
– Đó là đồng chí – lời giải thích – về đây để phát động quần chúng.
Các cán bộ tam cùng đi bắt rễ đều theo nguyên tắc này: không bao giờ bắt rễ với người nghèo vì nhất thời bị rủi ro. Bần cố nông đó phải là hiện thân của một thứ ngu độn có huyến thống và ba đời không liên lạc gì với cơ quan hành chính của Pháp. Sau khi đã bắt rễ, thời gian nghiên cứu thường lâu chừng một tháng, rồi cán bộ chọn một xã làm thí điểm. Tại xã thí điểm đó, cán bộ tam cùng phát động quần chúng bằng cách triệu tập một cuộc họp toàn xã để định thành phần. Giai cấp địa chủ lập tức bị cô lập nghĩa là phải cung khai tài sản, đi đâu phải xin phép, con cháu ra vào thăm hỏi đều bị khám vì sợ chuyển của đi. Thường thì một địa chủ đã bị cô lập, bè bạn, họ hàng lánh xa họ như lánh hỉu. Chào hỏi, không ai đáp; muốn bán thứ thừa không ai mua, muốn mua thứ thiếu không ai bán. Nói một cách khác họ đã là một tên tội phạm, có điều tên tội phạm của thế giới tự do thì bị giam vào khám xây bằng gạch hoặc bằng đá để cắt đứt mọi liên lạc của hắn với thế giới bên ngoài, ở đây tội phạm bị giam vào một nhà ngục tân kỳ hơn, nhà ngục xây bằng những người đồng loại, đồng hương đã biến thành gỗ đá hoặc cố làm như gỗ đá. Không có một sự cô độc nào bi thảm và rùng rợn hơn sự cô độc này!
Vẫn tại nhà bần cố nông đó nay được dùng làm trụ sở để mọi giới trong làng trong xã hàng ngày đến học tập kể khổ. Nơi đây cán bộ tam cùng đặc biệt kích thích giai cấp bần cố nông căm thù địa chủ để chuẩn bị ngày ra đấu trường. Thành phần phú nông không được tới học tập vị không phải bạn của bần cố nông. Chiến thuật của đảng là: “Dựa vào bần cố nông, liên minh với trung nông, trung lập hoá phú nông để đàn áp địa chủ”
Miên và một số chị em trong cơ quan có được cử đi dự mấy buổi kiểm thảo địa chủ ở mấy xã gần đấy, nói là để rút kinh nghiệm. Qua mấy lần dự như vậy, Miên quan sát thấy có những người nông dân thuần tuý vẫn giữ nguyên được tâm hồn chất phác trung hậu của họ. Có lẽ chính họ đã từng bị áp bức thực, nhưng khi phải kể khổ họ nói là không biết gì cả mặc cho cán bộ mớm lời hoặc xui lên xui xuống. Quyết liệt nhất là lũ lưu manh, chúng tích cực kể xấu người trước đây đã không cho chúng vay mượn hay đã quá tinh khôn không sa vào bẫy lừa lọc của chúng. Thứ tới những chuyện thù oán giữa mẹ chồng con dâu, giữa thím chồng cháu dâu, giữa chị dâu em chồng. Họ đứng ra kể khổ ngỡ là lợi dụng được dịp may này để cướp không tài sản của nạn nhân. Sau cùng hạng thanh niên học dở dang kẻ chỉ có bằng cơ thủy (Certificat d’étude primaire franco-indigène), kẻ học thêm được một hoặc hai năm trung học. Những thanh niên này có cử chỉ cùng lời ăn tiếng nói bợ đỡ xu thời ra mặt. Họ ngỡ như vậy sẽ được đoàn thể nâng lên cán bộ liên xã, hoặc cán bộ huyện.
Lần thứ ba Miên đi dự kể khổ, nạn nhân là bà Luân, một goá phụ có hai con ra học tận Hà Nội. Bà có nuôi anh em mồ côi người làng bên. Người anh được bà lấy vợ cho khi kháng chiến anh ta vào bộ đội và bị tử thương tại mặt trậnVĩnh Yên. Thằng em tới ngày kể khổ đó mới mười ba tuổi. Nó được cán bộ cho việc canh giữ bà mẹ nuôi. Lúc kiểm thảo nó bắt mẹ nuôi phải gọi nó bằng “ông”.
Nó chỉ vào mặt bà Luân hỏi liên tiếp:
– Tại sao mày không cho tao đi học, lại bắt tao đi chăn trâu?
– Mày có nhớ mày đã từng bắt tao đứng vào đống kiến lửa?
– Mày có nhớ một lần nghi tao ăn cắp tiền, mày đã đổ nước mắm vào mũi tao?
Căm uất hiện lên vẻ mặt già nua và đau khổ, bà Luân chối, giọng bi phẫn nhưng gọn và cương quyết.
Miên nghĩ có câu hỏi giản dị nhất lẽ ra thằng con nuôi bất nhân kia phải nêu trước là: Tại sao bà Luân lại đem anh em nó về nuôi mà không để mặc kệ cho chúng chết đói hoặc tha phương cầu thực nơi đâu?
Cán bộ đã cúi đầu xuống giải thích rất lâu cho bà Luân nghe những gì Miên ngồi xa không nghe rõ, chỉ biết khi lần thứ hai thằng con nuôi lên chỉ vào mặt bà kể mấy tội trên, bà nghẹn ngào đáp gọn:
– Bẩm ông, vâng!
Chỉ có ba tiếng “Bẩm ông vâng” mà chứa chất biết bao tủi nhục đau đớn của người chợt thấy mình đã nuôi ong tay áo, nuôi rắn trong nhà.
IV
Sự buồn nản ở hiện tại và tuyệt vọng ở tương lai đã hun đúc cho Miên một trạng thái tâm lý khá kỳ dị: bình thản! Nàng bình thản đi dự kể khổ, bình thản đi dự các buổi khai hội, kiểm thảo, bình thản hay tin cụ cử Hứa đã bị cô lập. Nhnwg rồi sự bình thản cũng chỉ được đến thế; một ngày kia Miên gặp cụ cử Hứa chỉ còn xương bọc da, dáng người thì mệt mỏi, đôi mắt thì nhớn nhác lo âu. Miên thấy lòng xúc động, mặc dầu trước đây Miên không chút cảm tình với cụ. Miên hay tin thêm cụ Cử bà phải đi mò cua bắt ốc lần hồi kiếm miếng ăn hàng ngày, rồi đến ngày kể khổ khi thấy anh con trai trưởng của cụ, chủ tịch hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác-xít huyện, tung nắm tay lên trước và hô cương quyết: “đả đảo địa chủ!” thì tình cảm phẫn nộ lại trào lên chẹn lấy cổ Miên.
Một buổi sớm bác Hỷ tới, bác đặt gánh hàng xuống chào Miên và cất lời hỏi thăm như thường lệ rồi bác nói khẽ rất nhanh:
– Bà Quản bị cô lập rồi cô biết chưa?
– Miên hốt hoảng:
– Thế à, tôi chưa biết.
Bác Hỷ tiếp:
– Tối hôm kia cán bộ tam cùng đã triệu tập cuộc họp toàn thể xã để định thành phần, bà Quản bị gán là địa chủ. Tôi nói bà chỉ mang tiền của ở Sài Gòn về làm lợi cho làng chứ chẳng có làm hại gì. Tôi tự đem mình ra làm bằng chứng, nếu không được bà Quản cứu thì mẹ con tôi đã chết tự năm đói rồi.
– Thế họ trả lời ra sao? – Miên hỏi
– Họ phê bình tôi là còn tinh thần ôm chân địa chủ. Tôi không được tham dự học tập kể khổ nữa. Tội nghiệp mắt bà Quản kém đến gần như loà mất rồi cô ạ
Có người trong cơ quan ra. Bác Hỷ điềm nhiên nói lớn về việc buôn bán hồng the và hòng ngâm Hạc trì, rồi gánh hàng theo đường lên chợ, tự nhiên như mọi lần trước bác đến báo tin nhà cho Miên.
Buổi chiều, chị cán bộ nói ý cho Miên hay bà Quản bị cô lập nhưng rồi chỉ bị đem ra kiểm thảo gay gắt để uy hiếp tinh thần tên địa chủ ngoan cố Hứa còn chôn dấu của cải. Chị biết Miên có nhiều liên lạc từ thủa nhỏ với bà Quản, khuyên Miên đứng ra kể khổ, trong trường hợp này lời Miên nói có giá trị hơn cả.
Miên thùy mị đáp lại và trong thâm tâm nàng cảm thấy lời đáp của mình nhiễm tính chất bi hài:
– Chị bảo tôi kể gì bây giờ? Tôi chỉ biết kể riêng với chị là sau khi cha mẹ chết cả anh em tôi được bà Quản mang về nuôi, nhà cửa được bà Quản rào dậu cho, không một chút tơ hào.
Chị cán bộ biết không thể chuyển được lòng Miên, cười chính trị:
– Cái đó tuỳ đồng chí tôi không ép
Chiều hôm sau, sau giờ hành chính Miên cùng các bạn trong tiểu đội vào rừng kiếm củi. Lúc vác bó củi lớn ra khỏi rừng, Miên ngồi nghỉ dưới gốc một cây đa cổ thụ bên lề con đường đất đỏ. Các tá điền vẫn kể đêm đêm hổ thường tới gốc đa này và cách đây năm năm đã có một người đàn bà đi chợ sớm qua đây bị thiệt mạng.
Miên không chú ý đến chuyện hổ vồ mà chỉ lẳng lặng ngắm cây đa uy nghi mà hiền từ rồi suy nghĩ.
Buổi tối sau giờ kiểm thảo thường lệ đã gần nửa đêm, lúc Miên lên giường nằm thì trời đổ mưa lớn. Gió táp và chuyển động các kèo cột, tiếng kêu răng rắc kĩu kịt. Từng làn chớp loé sáng, từng tiếng sét thoạt xé trời rồi rền rĩ đuổi nhau theo từng đợt ra tận biên giới vũ trụ. Hình ảnh những dòng suối nhỏ tràn bờ những bụi cây được rửa sạch… Hình ảnh cây đa cổ thụ chĩu ngọn nhưng bất khuất dưới sức mạnh của gió bão. Hình ảnh dịu dàng của mấy chị bạn “quần chúng” trong cơ quan chiều chiều ra suối gánh nước về cho bạn cấp dưỡng, chị thì cắt tóc ngắn đủ che kín gáy, chị thì bím tóc trông xa như tóc frisé, chị thì để tóc dài xoã ngang vai, có chị nước da bánh mật khoẻ mạnh, có chị da như trứng gà bóc nhưng chị nào cũng cùng vẻ mặt hiền lành chất phác, thụ động, đôi khi ngơ ngác, Miên thấy mến những hình ảnh này, phải chăng vì nàng cũng chỉ là một thứ “nai vàng ngơ ngác”, những gì uất hận đều bị đè nén cho úa héo đi rồi rụng tơi tả trong tâm hồn như những lá mùa thu.
Tiếng sấm sét đã tạm ngớt, nhưng gió càng mạnh và mưa càng nặng hạt hơn, tiếng rào rào như một đoàn quân hàng ngàn vạn người đương hăm hở nạo đất, bào cây, cuốc núi!
Miên giở mình khẽ mỉm cười ôn lại lời mình đáp nữ cán bộ chiều hôm trước: Chị bảo tôi kể gì bây giờ? Tôi chỉ biết kể riêng với chị là sau khi cha mẹ chết cả anh em tôi được bà Quản mang về nuôi, nhà cửa được bà Quản rào dậu cho…
Sống vì người khác, sống cho người khác, đó là khuynh hướng không cưỡng lại được của Miên, tựa như nước lũ tự ngàn lao mình đổ về trung châu. Bởi vậy càng học tập căm hờn, càng chứng kiến những buổi kể khổ, tình yêu thương càng sâu xa, và tâm hồn thuỳ mị của Miên như cây đa cổ thụ kia tung những rễ phụ ra bám chặt lấy mặt đất rồi tiến sâu vào lòng đất, hút lấy mầu đất, tự nuôi cho lớn mạnh để rồi trở thành những thân cây thật sự và sau cùng – chao ôi là vững chãi – biến thành cả một rừng đa kiên cố đến nỗi uy trời là bão tố và sấm sét cũng đành cam chịu bất lực.
Chắc chắn những buổi học tập kể khổ bà Quản tối tối vẫn tiến hành nhưng Miên và bác Hỷ thuộc thành phần không được tới dự.
Ngày giỗ cha mẹ lần này Miên không về Hạc Thủy như mọi năm. Về gặp bà Quản chỉ khiến cả bà, cả Miên thêm đau lòng. Tuy biết vậy là hợp lý mà Miên vẫn áy náy cảm thấy mình hèn, đã tránh mặt ân nhân trong cơn nguy khốn.
Miên mua hương nến hoa quả bày bàn thờ làm giỗ cha mẹ ở một góc sân khuất tại ngay cơ quan. Khi lễ nàng tưởng nhớ cha mẹ đã khuất và cả Hiển, người anh còn sống hiện ở bên Trung Quốc.
Nữ đảng viên phụ trách nàng không bỏ sót việc ấy, có tiến lại hỏi:
– Đồng chí có chắc hương hồn các cụ về hưởng hương hoa ở đây?
Tuy vẫn giữ khuôn mặt ủy mị, nhưng đôi mắt Miên thoáng giận dữ và giọng nói hơi sẵng:
– Làm sao tôi trả lời chị câu ấy được? Nhưng thiết nghĩ nếu ở một tổ chức rộng lớn, toàn dân chúng ta làm lễ kỷ niệm cách mạng tháng tám, cách mạng tháng mười thì cá nhân tôi nhỏ hẹp hơn có thể làm lễ tưởng nhớ ngày cha mẹ tôi qua đời lắm chứ.
Một lần nữa nữ đảng viên tạm lui:
– Không, không! Điều đó có sao đâu! Là tôi chỉ hỏi ý kiến đồng chí.
Miên thừa biết nữ cán bộ chỉ tạm rút lui. Miên thừa biết chi bộ sẽ họp bàn nhau tìm cách khuất phục thái độ nàng bằng được. Nhưng có điều Miên không biết, Miên không ngờ là đúng ngày hôm đó tại Phụng Minh Thôn thuộc huyện Côn Minh bên Tàu cũng xảy ra một cuộc đấu khẩu tương tự nhưng gay go hơn nhiều giữa Hiển và một cán bộ bần cố nông. Miên chỉ thấy mình ở vào một hoàn cảnh vô cùng tuyệt vọng và cô độc. Nàng vùi đầu vào công tác.. vùi đầu vào công tác… để quên thời gian và với ý định hủy hoại thân thể mình nhưng vẫn giữ nguyên được căn bản thiện sang bên kia thế giới. Ngược lại các đảng viên thấy thái độ làm việc quá gương mẫu của nàng thì coi đó như một thái độ lập công, bởi vậy vấn đề kiểm thảo để giáo dục lại Miên, họ chưa vội đặt lên.
Bên ngoài, thiên nhiên vẫn bình thản.
Mây trôi theo gió thư thái nhàn hạ, cây rừng rụng lá, nhưng lộc non luôn luôn thao thức chờ sức nhựa từ lòng đất dâng lên để trổ ra kịp thời.
Phần III- GIÃ TỪ – Chương 1
NGƯỜI ANH TRỞ VỀ
Một buổi trưa oi nồng ăn xong ai nấy mồ hôi mồ kê ướt đẫm trở về giường nằm mong cố chợp mắt chút ít cho lại sức. Miên lẳng lặng trở xuống bếp lấy hai cặp ống bương đi gánh nước.
Ông Lợi, trưởng ban cấp dưỡng, một người đàn ông nhà quê đã trên bốn mươi tuổi, mắt kém, tính tình chất phác, thấy vậy bèn lên tiếng ngăn:
– Thôi cô Miên ạ, hãy nghỉ trưa một tí, nước thổi nấu bữa chiều cũng đã tạm đủ.
Miên đáp giọng vui:
– Nước ăn thì đủ, nhưng nước uống thì chưa có, ông Lợi có thấy đúng không ?
– Đã đành rằng thế nhưng …
– Nhưng tôi đi gánh cho ông yên chí, nóng thế này cũng chẳng ngủ được.
Khi nàng vừa gánh ống bương ra tới ngõ, nàng bỗng đứng sững, tựa như có lùi lại chút xíu. Có thật vậy không? Chỉ thoáng thấy bóng người ấy, cảm giác nóng bức bỗng nhường cho cảm giác dịu mát, thứ dịu mát mênh mông khiến Miên thấy như chính nàng được hòa biến vào trong đó. Người đứng trước cửa là Hiển! là Hiển! Quả thực là một giấc mơ, nàng không sao thốt lên được một tiếng kêu vui.
Hiển cười thoạt buồn rầu chắc vì thấy nàng gầy và xanh rớt, nhưng rồi nụ cười tươi ngay lên. Miên sung sướng quá, anh nàng vẫn còn ở bên này của cuộc sống tình cảm, vẫn còn là … người.
Hiển nói, vẫn giọng nói ấm cúng và âu yếm của anh nàng khi xưa:
– Anh đến xin phép cho cô về nghỉ ba ngày.
Miên hỏi:
– Anh còn nghỉ nhà ba ngày?
Hiển mỉm cười:
– Ừ, ba ngày.
Miên theo anh tiến vào nói tiếp:
– Bà Quản bị cô lập anh biết chưa?
Hiển đáp nhanh:
– Anh chưa biết vì anh đã về làng đâu.
– Thế còn “ba lô” của anh?
– “Ba lô” của anh đã có một anh bạn ngồi ở đầu đường kia giữ hộ.
– Còn một anh bạn nữa hở anh?
Hiển không trả lời câu hỏi ríu rít đó vì đã đến bàn giấy cơ quan quân y. Anh cán bộ phụ trách còn nhớ Hiển là anh Miên. Việc xin phép cho Miên nghỉ ba ngày không có gì trở ngại, ai cũng biết Miên đã tận lực làm việc.
Khi ra ngoài sân Hiển bảo Miên:
– Cô gói hết quần áo về vì còn ở nhà ba ngày.
Miên ngoan ngoãn vâng lời. Năm phút sau nàng đã theo anh ra cổng, mắt sáng và đen láy, khuôn mặt vẫn gầy nhưng màu da tựa như có hồng hào lên nhiều.
– Ấy chết! – Miên kêu khẽ.
Hiển dừng vội lại:
– Gì thế, cô?
Miên cười chỉ hai cặp ống bương lăn lóc bên tường:
– Em vừa định ra suối gánh nước thì gặp anh, để em mang vào trả ông Lợi.
– Thôi, đi cho nhanh cô ạ.
– Không được, thế không tiện.
Miên cúi nhặt hai cặp ống bương vội vã tiến về phía nhà bếp. Khi nàng trở lại Hiển vừa rảo bước vừa nói khẽ:
– Phải tạt về thăm bà Quản cái đã.
Miên hỏi lại:
– Ô hay, chẳng về đấy thì đi đâu hở anh?
Hiển đã tới quãng quẹo đầu đường. Một người ngồi đấy đợi. Miên không chú ý tới người đó vì còn mãi nghĩ đến câu nói vừa rồi của anh.
Từ cơ quan quân y về làng Hạc Thủy đi thong thả mất một giờ đường, nhưng theo nhịp bước của Hiển như thế này chỉ mất nửa giờ hay hơn một chút. Miên bám sát lấy anh, “người kia” đi sau cùng. Dọc đường Hiển có hỏi Miên vài câu về bà Quản rồi lại suy nghĩ.
Khi qua làng Thạch Trục “người kia” cất giọng nói với Hiển:
– Hiển này, ngày xưa tôi học Luật ở đây.
– Trường Luật đóng ở đây à? – Hiển hỏi trong khi Miên đưa mắt quan sát “anh chàng”.
– Phải trường Luật trước đóng ở đây – “anh chàng” đáp.
Miên muốn quan sát “anh chàng” thế vì chợt nhớ đêm nào khi trở về cơ quan, nàng đi vào bóng thông dưới trăng và tiếng một sinh viên phê bình khẽ: “Nàng tiên đi dước trăng”. Thoáng một chút suy nghĩ, Miên tung lời tìm hiểu với “anh chàng”:
– Ngày xưa tôi có chị bạn quen đi qua đây và có một anh gọi đùa là “nàng tiên đi dưới trăng”.
– Ấy chính tôi ! – “anh chàng” nói như cướp lời. Miên dấu nụ cười đắc ý. Cả ba lại im lặng miết mải bước. Hiển luôn luôn dẫn đầu.
II
Tới Hạc Thủy, rồi tới cổng nhà bà Quản có hai người du kích đứng canh. Hiển và Miên tiến lại.
Theo nguyên tắc ai tới thăm địa chủ thì lúc vào cũng như lúc ra đều bị khám. Sự thực cũng rất ít người dám đến thăm. Anh du kích xã biết Hiển thuộc cấp chỉ huy quân đội, lại thấy anh có anh chàng ngồi coi “ba lô” đằng xa, anh vội mở cửa ngay cho Hiển và Miên vào.
Bà Quản đã gần lòa hẳn. Bà gầy như chiếc que, lưng còng nữa. Bà ngồi thu hình vào một góc nhà nghe ngóng vì bà biết có bước chân người lạ tiến vào.
– Lạy bà ạ!
– Ấy chết tôi không dám, ai đấy ?
– Con đây, con là Hiển.
– Và con là Miên nữa.
Bà Quản thoáng vẻ vui nhưng bà kiềm chế được ngay. Bà cất tiếng nói khẽ:
– Hiển, Miên các con đấy ư?
Hai tiếng “các con” thốt ra ở miệng bà khi ấy làm Miên se lòng, rõ ra là lời nói của người thèm được ban phát tình cảm và ao ước được nhận tình cảm.
Hiển nói rất ngắn và gọn:
– Chúng con biết là bà bị đem ra kiểm thảo trước để uy hiếp tinh thần cụ cử Hứa còn chôn dấu của cải. Trong một địa phương người ta chỉ cần trừng trị nặng một người thôi!
Bà Quản biết ý Hiển muốn nói người ra đấu trường sau này để lãnh án tử hình là cụ cử Hứa.
Hiển tiếp:
– Chúng con đến thăm bà, biếu bà lọ thuốc sốt rét có chừng hai chục viên ký ninh vàng và một số tiền nhỏ.
Hiển khẽ cúi xuốn lanh lẹ ấn những thứ đó xuống dưới chiếu chỗ bà Quản ngồi, trong khi Miên hỏi nhỏ:
– Thưa bà anh Tài con không về?
Bà Quản thở dài:
– Trông mong gì ở nó hở cô?
– Chị Nẵng, chị Nhơn ra sao? – Vẫn lời Miên hỏi.
– Chúng nó cũng đứt từng khúc ruột nhưng chẳng dám làm gì …
Hiển nói:
– Thôi chuyến này chúng con đi công tác hơi xa, chúng con đến chào bà. Bà yên lòng, rồi mọi việc ổn thỏa. Ngộ tết chúng con không về kịp, bà trông nom hai phần mộ giúp chúng con.
Miên không sao cất lời chào bà Quản được nữa vì nàng thấy bà Quản chợt gục đầu lên gối, hai vai gầy rung động.
Bà Quản khóc, trong thâm tâm bà vừa đau khổ vừa sung sướng, đau khổ vì hoàn cảnh của bà, sung sướng vì bà cảm thấy rõ trên đời không bao giờ thiếu những người tốt. Tấm lòng vàng như mạch nước mát rợi không biết tự đâu chảy đến thấm qua khe đá chảy mãi, chảy mãi không bao giờ ngừng không bao giờ hết.
Cuộc đến thăm chỉ lâu chừng ba phút. Dáng đi hiên ngang của Hiển làm hai người du kích xã không chút nghi ngờ gì cả và Miên đã hiểu anh sắp đưa mình đi đâu. Lần này đến chổ để ba lô, Miên có dịp chú ý nhiều hơn đến “anh chàng”. Đó là một chàng thanh niên trạc tuổi Hiển, khuôn mặt đăm chiêu kín đáo như cố giữ không cho thoát lộ tình cảm, như luôn luôn đượm chút nghi kỵ. Nhưng khi anh chàng ngẩng lên nhìn thẳng về phía Miên…. chạm phải đôi mắt ấy Miên có cảm giác rờn rợn, vừa lạ lùng vừa êm ái. Miên lại đi sát bên Hiển, để mặc anh chàng đi sau cùng.
– Cô hiểu rồi chứ? – Hiển hỏi.
– Em hiểu – Miên đáp – Thực em không ngờ, em sung sướng quá!
Ra tới đầu làng Hạc Thủy, cùng trên đường đi, Hiển dẫn đầu rẽ sang bên phải theo đường bạc ruộng khu thung lũng đi lên dần tới mộ cha mẹ.
Không khí xung quanh vắng lặng, hoang vu, Hiển cúi xuống dùng hai tay lực lưỡng nhổ cây mua hao tím trên mộ mẹ. Miên chạy tới thửa ruộng mới cấy gần đấy, lễ mễ khiêng lại tảng đất lớn đắp lên khoảng hoắm của cây mua vừa bị nhổ bật rễ.
Hiển nói:
– Cũng may anh em mình đã cho xây gạch quanh một từ mấy năm trước.
Rồi Hiển rút trong ba lô ra thẻ hương và bao diêm. Rõ ràng chàng đã có ý sửa soạn từ trước.
Khói hương bốc lên mỏng mảnh và âm thầm.
Ba người tiếp tục theo đường lên núi, Miên còn ngoái cổ ngắm lại làn khói hương trên mộ cha mẹ một lần nữa như để vĩnh viễn chụp lấy vào tâm tưởng mình. Lát sau cả ba đã tới đỉnh, đúng khoảng trước đây Miên thường leo lên để ngắm vạn vật xuất hiện dưới tia nắng đầu tiên của vừng đông hay dưới ánh nắng hấp hối của chiều tà.
Thốt nhiên Miên quay phắt lại:
– Hãy dừng lại anh, cho em nghỉ một chút thôi, đi một mạch lên đỉnh núi em mệt!
Sự thực Miên không mệt. Nàng nhìn thẳng về phía núi xa, nơi trước đây có khoảng lay động màu xanh cẩm thạch. Màu xanh cẩm thạch không còn, nhưng vẻ dạt dào uyển chuyển vẫn như xưa.
Miên hỏi Hiển:
– Sao màu xanh cẩm thạch của khu rừng lau trên núi Sáng nay lại thấp thoáng chuyển sang màu tím hoa cà hở anh?
Tuy còn giữ nguyên vẻ vội vã, Hiển cũng đứng lại để thở, nhìn về phía khu rừng lau và suy nghĩ về câu hỏi của Miên.
– Bây giờ đương mùa hoa lau cô ạ – “anh chàng” vừa ngồi xuống vừa nhìn thẳng về khu rừng lau vừa trả lời = hoa lau màu tím phớt, đúng như thế kia đó.
Rồi anh chàng quay lại, không nhìn Miên ( Miên cũng không muốn anh ta nhìn mình, nàng sợ!) nhưng nhìn ngón tay út của nàng, ngón tay có đeo chiếc nhẫn saphir màu đỏ. Anh chàng hơi nghiêng đầu chú ý ngắm, thành thử trông anh bỗng ngộ nghĩnh như con chim khuyên sắp mổ hạt thóc. Khi anh nhìn về phía cũ – phía khu rừng lau xa – đôi mắt anh chăm chú, đôi lông mày hơi nhíu, răng bậm lấy môi dưới suy nghĩ, vẻ mặt dịu hẳn xuống. Miên yên lòng kín đáo theo dõi. Sự khám phá ra “thủ phạm” lời nói đùa “nàng tiên đi dưới trăng” cộng thêm sự hiểu biết về hoa lau của chính kẻ đó càng khiến Miên muốn tò mò quan sát anh chàng kỹ hơn. Kỳ dị thay Miên nhận thấy đặc biệt khuôn mặt trái soan của anh chàng có ánh vẻ lãng mạn của màu tím hoa lau. Anh chàng bỗng cất tiếng ngâm hai câu lục bát, lúc đó anh như chẳng thèm biết có ai quanh mình, nội dung hai câu thơ ngẫu hứng đó có nhắc đến màu tím hoa lau:
Tình ta thức trắng tinh cầu
Hồn ta tím ngát một màu hoa lau.
Giọng ngâm đắm đuối của anh tỏa ra man mác cùng gió và nắng, giọng ngâm như biến thành mũi tên êm ái, tim Miên bị thương trong vắng lặng. Tiếng ngâm dứt, âm thanh còn vang vang, anh chàng bỗng quay sang trao đổi một vài ý kiến với Hiển. Miên biết thêm tên anh chàng là Kha. Khi trao đổi ý kiến, đôi mắt anh chàng hoặc chiếu thẳng vào người đối thoại hoặc chiếu thẳng vào khoảng không nhưng bao giờ cũng man mác sinh lực, đượm tính chất siêu hình, khoáy sâu vào bản thể sự vật vào hồn người. Khi phát biểu xong ý kiến đôi môi anh thường mím lại nhưng hơi rung động như cánh bướm còn đập nhẹ khi vừa đậu vững trên hoa, vì vậy lời nói của anh tuy có vẻ cương quyết nhưng vẫn đượm chút duyên tinh nghịch. Miên nhắm mắt ôn lại trong trí lời ngâm của anh chàng đồng thời nàng cũng thấy xuất hiện khuôn mặt trái soan ấy, lời nói đôi môi hơi rung động ấy, cái nhìn man mác sinh lực siêu hình ấy … tất cả tổng hợp lại toát ra một sức mạnh man rợ. Sức mạnh man rợ đó thuộc tinh thần thuần túy nên có làm điên đảo đối phương – (Miên quên rằng đối phương đấy chính là nàng) – nhưng là thứ điên đảo gây kỳ thú, chứ chẳng hề gây lo âu, dằn vặt.
– Xuống núi thôi! – Hiển nói qua tiếng thở phào làm Miên giật mình, mở choàng mắt ngẩng lên bất chợt anh chàng đang chăm chú nhìn chiếc nhẫn saphir ở ngón út của nàng, dường như chiếc nhẫn saphir có gợi lên trong tâm tưởng anh một kỷ niệm, một thắc mắc nào. Miên không hiểu anh chàng ngắm nhẫn saphir (và cũng là ngắm nàng vào lúc nhắm mắt) như thế đã bao lâu.
Miên sực nhớ ra điều gì, nang hỏi:
– Anh Kha có quen anh bạn nào tên là Tân không nhỉ?
Đôi mắt Kha chiếu thẳng vào đôi mắt nàng suy nghĩ một giây rồi gật đầu lia lịa:
– Có, có, tôi gặp Tân ở đồn điền Lợi ký và chia tay ở bờ sông Hồng !
– Thôi đúng là anh Tân ấy rồi – Miên thốt, không dấu được vẽ vui mừng – tôi gặp anh Tân ở một đơn vị hậu cần quân y cách đây ngót hai năm …
– Phải, Tân học quân y – Kha nói – dạo đó Tân rủ tôi học Thuốc mà.
Miên mỉm cười, nàng còn nhớ lời Tân kể chính Kha rủ Tân học thuốc rồi bỏ rơi câu chuyện đi biệt tích phương nào. Nàng hỏi giọng tính nghịch:
– Anh Tân rủ anh hay chính anh rủ anh Tân?
Đáp câu hỏi nhiễm vẻ riễu cợt của Miên, Kha đáp lại thực thà:
– Tôi không nhớ rõ tôi rủ Tân hay Tân rủ tôi nữa.
Nhưng Miên không chú ý đến lời Kha đáp, nàng cúi nhìn chính bàn tay của nàng đương vân vê một lá cỏ, nàng nhớ lại câu người xưa thường nói “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”. Nàng bỗng thấy cuộc đời đáng sống và rất dễ thở, hầu như càng chịu nhiều đau khổ hạnh phúc càng trong sáng, trong sáng đến thành muốn yêu … đau khổ!
– Đi ngay thôi chứ cô Miên? – Chính Kha nhắc nàng.
– Vâng đi! Miên vừa đứng dậy vừa đáp.
Kha né mình nhường lối cho nàng đi và chàng vẫn đi sau cùng.
Hết Phần Hai, Xem Tiếp Phần Ba