BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG (19)
Chương 19
ược tin quan về đốc thuế, hương lý cuống quýt, vội vàng cho tuần lục bắt tất cả những thân nhân người đi vắng chưa gửi tiền đóng sưu.
Thêm vào bọn đã bị giữ ở đình chịu các nhục hình từ hôm trước, chín người nữa, trong đó có cả Pha, bị trói giải ra chỗ thu thuế.
Từ sáng, thằng Mới phải quyét tước cẩn thận. Bàn đèn, cỗ bài cùng các thứ ăn giở, nó dấu cả vào tận hậu cung.
Ngay đầu làng, mấy là cờ đuôi nheo ủ rũ ở hai bên đường. Hương lý đã tề tựu cả chỗ gốc đa để chờ. Đúng giờ, một chiếc ô-tô bóp còi từ đằng xa lại. Hai chiếc lọng vàng vội vã giương ra. Xe dừng, quan xuống. Bọn tùy tùng, ngoài thừa phái, chánh hội, lính lệ, lính cơ, là những người quen mắt, ta còn nhận thấy một người lạ, đi sau cùng.
Vừa bước xuống xe, quan đã cau có hỏi lý trưởng:
– Thiếu bao nhiêu?
– Lạy quan lớn, chín mươi bảy đồng.
Quan gắt:
– Chúng mày trễ nãi công việc, liệu không ông cách cổ hết. Bảo tuần vào từng nhà bắt trâu bò giải ra đình cho tao.
Cả tụi hương lý, ai cũng có trâu, nên sợ hãi, đưa mắt cho lý trưởng. Lý trưởng xun xoe thưa:
– Bẩm trâu bây giờ không còn con nào ở nhà, làm ngoài đồng cả từ sáng.
Chánh hội tâng công:
– Lạy quan lớn, để con bảo khán thủ đánh mõ gọi về.
Quan gật:
– Vừa mõ vừa sai tuần ra đồng dắt từng con về. Như thế mới được việc.
Quan trèo lên sàn đình, ngồi trên ghế, tỳ tay vào bàn có trải khăn trắng. Một tên tuần phẩy quạt lông. Hương lý đệ trình sổ sách, và trong khi thừa phái đọc tên những người thiếu thuế, lý trưởng dắt đến trước mặt quan một xâu dài cả đàn bà lẫn đàn ông phải trói giật khuỷu. Quan gắt:
– Sao chúng mày dám trốn thuế nhà nước?
Cả từng ấy người ồn ào mỗi người một câu. Thừa phái giơ tay ngăn:
– Im, tên Phạm Liệu đâu? Kêu đi.
– Lạy quan lớn, con không có một sào ruộng, sào đất nào. Con đi ở nhờ, làm ruộng mướn cho ông nghị con, con tưởng được đóng thuế vô sản một đồng, thế mà thầy lý con không nghe, cứ bắt con đóng ba đồng ba xu. Lạy quan lớn đèn trời soi xét.
Lý trưởng nhanh nhảu gãi tai thưa:
– Lạy quan lớn, tên này tuy không có ruộng có đất, nhưng đầu năm nó đi vắng làng quá ba tháng.
Lạy quan lớn.
Quan trợn mắt quát:
– Im. Vả vào mồm nó kia.
Tức thì năm đầu ngón tay của lý trưởng ấp vào má Liệu, cả cái đầu tưởng rơi bắn đi.
Thừa phái gọi:
– Nguyễn Thăng.
Thăng chưa kịp nói gì, lý trưởng đã cướp lời:
– Lạy quan lớn, tên này nhất định chỉ nộp chính tang hai đồng rưỡi còn ngoại phụ với tương tế năm hào ba không nộp. Lại đổ cho chúng con hà lạm.
Thăng giương mắt cãi:
– Bẩm lý trưởng khai man…
Thừa phái trỏ tay, mắng:
– Im.
– Tên Vũ Hữu Chứ.
Lý trưởng nói:
– Bẩm có mẹ tên Chứ.
Bà cụ già đầu trọc tếch, da mặt nhăn nhúm, chân tay khẳng khiu, nhăn nhó nhìn quan phụ mẫu bằng đôi mắt nằn nì và vì hai tay bị trói, nên phải gật đầu để lạy, nói không ra hơi:
– Lạy quan lớn thương già này đã tám mươi hai tuổi. Còn chúng con đã chết từ tháng chạp, có khai tử hẳn hoi, mà đến bây giờ thầy lý bắt con phải đóng công sưu.
Nói đoạn bà sụt sịt, hai dòng nước mắt ròng ròng chảy xuống má qua đôi môi mếu xệch.
Thừa phái động lòng, giảng:
– Phải rồi, con bà già chết tháng chạp, nhưng ngay từ cuối tháng một, nghĩa là đầu năm tây, làng làm sổ kê tên những người phải nộp thuế năm nay, và sổ thông quy ấy đệ trình lên tỉnh. Trên tòa chiếu số đinh, làm bài chỉ tư ra kho bạc, rồi đến kỳ đổ thuế này, kho bạc cứ đúng số tiền trong bài chỉ ấy thu tiền.
Thấy quan đứng dậy đi ra mé đình nhổ, lý trưởng trừng trừng nhìn bà già, trỏ vào mặt, chửi khẽ:
– Mẹ bố con quạ cái, cãi nữa đi. Con mày khôn hồn sao không chết từ đầu tháng một năm ngoái?
Bà già ức lên không chịu nổi, òa lên khóc:
– Ồ con tôi, ối bố Vòi ôi, nhục nhã cho mẹ, mẹ có ngờ đâu mày chết còn chưa thoát.
Mọi người cảm động, im lặng nhìn cái cảnh não nùng. Ông huyện chạy lại quát:
– Im.
Lý trưởng nhanh nhảu, trợn mắt, hầm hầm giơ tay toan tát, ông huyện ngăn:
– Thôi, còn những đứa kia, không có tiền đóng thuế thì phải ngồi tù.
Từ nãy, Pha nơm nớp nhìn quan phụ mẫu. Anh không sợ hãi, trái lại anh mong đến lượt được trả lời để có dịp tố cáo lý trưởng đã thu lạm lại bắt người vô lý. Anh yên trí quan sẽ bênh anh, vì anh nhớ lời nghị Lại đã dạy hôm nọ. Anh đã mất tiền cho quan hai mươi nhăm đồng bạc. Tiền ấy là tiền không mất đi đâu. Quan tất nhớ anh mà bênh vực cho anh và trị lý trưởng. Bây giờ quan bảo phải tù, anh thất vọng quá, vội kêu to, để quan trông thấy:
– Lạy quan lớn.
Ông huyện trông anh ngờ vực. Pha khấp khởi mừng, trống ngực thình thình. Khi ông huyện đã nhớ ra, thì trỏ vào mặt anh mà nói với lý trưởng:
– Thằng kia nhà khá mà cũng thiếu tiền thuế, sao không đánh ựa cơm nó ra.
Nói đoạn ông nhìn ra sân, thấy một người tuần mặt mũi đầu những máu, dắt trâu về. Tất cả hương lý nhìn vật và người bị nạn, chẳng ai tỏ vẻ ngạc nhiên.
Người tuần lên sàn đình, tức tối kêu:
– Lạy quan lớn, thừa lệnh quan lớn truyền, chúng con ra đồng bắt trâu, nhưng chúng nó chạy hết, có mỗi một con này con bắt được, thì tên cai đánh con, lạy quan lớn đèn trời soi sét…
Lý trưởng mách:
– Bẩm trâu của ông nghị Lại ạ.
Ông huyện thất vọng, mắng trương tuần:
– Mày không biết trâu này của ông nghị Lại à? Sao mày dại thế? Nó đánh cho cũng phải, ngoài đồng thiếu gì trâu?
Một tên tuần nữa dắt một con trâu khác về đứng ở sân đình. Sau khi biết rằng không phải của ông nghị Lại, người lạ mặt đi theo sau quan vội vàng xuống, xem xét ngắm nghía con vật hồi lâu, rồi lên nói:
– Lạy quan lớn, con xin nộp mười lăm đồng.
Nói đoạn, hắn xỉa ba tờ giấy năm đồng trước mặt quan, thì một người đàn bà hốt hoảng, vừa thở vừa xông vào sân đình.
– Lạy quan lớn, trâu của con. Con không có tội gì. Thuế ruộng con đã nộp rồi. Quan lớn tha trâu của con. Con mua bảy tám chục đồng bạc đấy.
Quan thản nhiên trỏ vào những người bị trói:
– Mày đòi những đứa này sau.
– Lạy quan lớn…
Quan hất hàm bảo lính. Họ kéo tuột người đàn bà hung hăng đi ra tận xa. Tiếng roi vút đen đét và tiếng kêu tiếng khóc còn vang động.
Ông huyện chờ mãi, hỏi lý trưởng:
– Làng này bao nhiêu trâu, sao chúng nó bắt được có hai con về?
Lý trưởng ấp úng. Quan nhìn người lái trâu, mỉm cười, nói khẽ gì, rồi ngài đứng dậy:
– Lý trưởng, dẫn tao vào làng, đến những nhà giàu.
– Lạy quan lớn, mời quan lớn vào nhà ông nghị Lại ạ.
Quan nhăn mặt gắt:
– Trừ nhà ông nghị, không còn nhà nào đủ bát ăn à?
Phó hội nhắc:
– À, nhà ông phó Năng.
Lý trưởng sực nhớ phó Năng đã nhất định chỉ nộp có ba đồng ba xu thôi, bèn dẫn quan đến.
Phó Năng vừa chào, quan đã nói:
– Nhà mày giàu, mày phải cho những đứa nghèo vay tiền nộp thuế?
Phó Năng chối đây đẩy:
– Lạy quan lớn, anh lý con khai man.
Quan không đáp, hất hàm ra lệnh. Tức thì, hai người lính trú giữ hai vợ chồng phó Năng một chỗ, và đội lệ cùng mọi người đi khám tiền ở trong buồng.
Phó Năng nhất định không nghe, kêu vang hết lời. Thản nhiên quan hỏi phó Năng:
– Biên lai thuế mày đâu?
Phó Năng không hiểu để làm gì bèn móc bao phục lấy đưa quan và nói:
– Lạy quan lớn, con có bao nhiêu tiền đã nộp vào thuế mất rồi.
Không đáp nửa lời, ngài đưa thư ký:
– Nếu nó không chịu cho dân vay, mày hủy phái lai này đi, món tiền thuế nó đã nộp thì biên sang tên những đứa khác. Nếu rồi nó không chịu nộp cho nó, mày trình, tao sẽ tịch lý nhà nó.
Phó Năng tức run bắn người lên. Chánh đội ở trong buồng ra, tay ôm bốn quan tiền trinh và một ít giấy bạc. Quan mừng rỡ. Vợ phó Năng tiếc của kêu gào. Song mọi người vẫn cứ im lặng làm việc. Quan bảo:
– Đếm xem bao nhiêu?
Phó Năng nhăn nhó kêu:
– Lạy quan lớn, thế thì thiệt hại cho chúng con quá.
– Mày không mất gì mà phải thiệt hại. Việc quan khẩn, tao phải làm thế, rồi mày bắt những đứa thiếu tiền thuế viết văn tự nợ lại mày.
Chánh đội đếm xong, bẩm:
– Lạy quan lớn, bốn tám đồng năm hào.
Quan lẩm bẩm:
– Với mười lăm đồng là sáu ba đồng năm hào.
Lý trưởng nói:
– Bẩm còn thiếu ba mươi ba đồng năm hào.
Quan đứng dậy, và mọi người đi theo lý trưởng đưa đường rẽ vào ngõ nhà bà Thêm, một người đàn bà góa. Bà này vốn biết tin quan đến lục tiền nhà phó Năng. Nay lại thấy rầm rập kéo vào nhà mình, vội vã đóng cổng lại rồi chạy vào sân, hai chân giậm xuống đất kêu:
– Ối làng nước ơi. Cướp. Cướp nhà bà Thêm.
Bà tưởng kêu như thế, người làng sẽ đến cứu bà, nhưng vô hiệu. Bọn tuần phá cửa. Lúc hai cánh cửa mở toang, bà ngã lăn đùng như người ngộ gió líu ríu kêu khóc. Người ta khênh bà vào, đặt nằm trong nhà và lần chìa khóa ở bộ sà tích trong túi bà, đi mở các hòm các tủ. Sau cuộc vơ vét, họ được thêm bốn mươi đồng.
Bà Thêm tỉnh dậy, kêu gào. Ông huyện ái ngại, giảng giải cho bà ta biết cái ý nghĩa nhân đạo của sự cho vay tiền này. Nhưng người đàn bà góa nhất định không muốn hiểu mục đích cao thượng của công việc mình đương bị làm. Bà ta hò chồng khóc con thảm thiết. Không chịu được lời tru tréo của con mẹ bất tử, ông huyện bảo một người lính cơ:
– Chúng mày làm như hôm qua vậy.
Lập tức hai người lính sang những nhà bên cạnh, bất cứ có người hay vắng, họ cũng cứ vào. Họ lấy những cây nến gỗ, nồi đồng, họ bắt cả lợn, nghĩa là tất cả đồ đạc đáng giá từ một hào trở lên, quẳng ở sân nhà bà Thêm. Tiếng kêu khóc dậy lên khắp mọi nơi. Ông huyện trỏ vào các đồ vật, bảo lý trưởng:
– Rồi trong làng thu xếp lấy với nhau. Những thức này đền con mẹ mày. Tùy giá rồi trừ tiền của nó đi, và bắt những đứa thiếu thuế phải nợ lại.
Nói đoạn, kệ mọi người gào la thảm thiết, bọn quan quân bình tĩnh về đình. Quan ngồi ở ghế, vui vẻ nói:
– Không thế, không tài nào xong được.
Lý trưởng khúm núm, đặt năm tờ giấy bạc vào cái đĩa, gãi tai nói:
– Lạy quan lớn, quan lớn thương chúng con, chứ như chúng con không biết làm thế nào, gọi là vi thiềng quan lớn.
Quan huyện thu tiền bỏ vào túi rồi đứng dậy ra về. Từ thừa phái trở xuống, mỗi người được lý trưởng tùy chức cao thấp tiễn tiền xe, tuy họ cùng ngồi ô-tô với ông huyện.