BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG (9)
Chương 9
ha định với lấy cái ô, nhưng người lính cứ kéo bừa anh xuống trại. Từ thuở bé, anh chưa hề gặp hoạn nạn to, nên lần này anh mê lên, như người mất hồn. Anh không hiểu sẽ ra sao. Anh chỉ biết rằng tại anh bỡ ngỡ nên mới thành nông nỗi.
Thầy đội lệ đang nằm bên phản, thoáng trông thấy tội nhân bèn hốt hoảng chạy ra và hỏi lính:
– Quan bảo giam nó à? Có phải gì không đấy?
– Con không thấy quan truyền.
Thầy đội mở cửa buồng giam lúc ấy chưa có người nào, tống Pha vào. Pha giẫm lên một lượt đất ẩm, ghê cả chân. Cái cùm lim nặng nề nằm lù lù trước mặt làm anh giật mình. Thầy đội nhấc tấm gỗ lên, nói:
– Tao cứ cùm mày cho cẩn thận. Ngồi xuống.
Pha không dám cưỡng, vì từ nãy đến giờ anh đã lịch duyệt chốn quyền môn. Anh muốn khóc nhưng lại sợ trái phép, đành giấu sợ buồn bã và ngấm ngầm thở dài. Anh ngồi trên lượt rơm đã nát cho khỏi bẩn quần, và duỗi hai chân lên trên phiến lim có khoét hình bán nguyệt. Thầy đội đặt tấm gỗ trên xuống. Anh đau đánh nhói. Cái cùm nặng nề nghiến vào xương như tiện cổ chân anh. Thầy đội khóa đầu chốt lại. Pha đau quá, nhăn nhó nói:
– Lạy thầy nới rộng cho con, buốt lắm.
Thầy đội không đáp, đứng ghếch chân trên mặt phiến lim hỏi:
– Mày tội gì? Nói cho thật.
– Bẩm thầy, con chẳng tội gì.
– Mày ăn cướp hay ăn trộm, cứ nói cho thật, tao liệu cách gỡ tội cho.
Pha tuy ngu dốt, nhưng đã biết nghi ngờ, vả anh nói có tội gì mà cần giấu, nên nói:
– Chỉ tại con chưa kịp đưa tiền trình nên quan giam con, có thế thôi.
Thầy đội không tin:
– Sao lại thế?
Muốn cho thầy đội hiểu đầu đuôi việc của mình, mong thầy có thương hại chăng, Pha bèn kể lể rõ ràng cho thầy nghe. Nghe xong, thầy nói:
– Phải, thằng già ấy nó hay dắt mồi cho quan để làm hại các anh, mà anh phải biết nó cho cả thằng Thi vay ba chục để khấn quan đấy.
Pha sửng sốt cả người, song anh không tin. Anh nghi ngờ hết thảy những người trong huyện. Anh nhận thấy họ có ý ghét ông nghị hay sao, nên từ người lính cho đến thầy đội, ai cũng nói xấu ông. Vả chăng qua cũng là cái mưu mô họ lừa anh, chứ đời nào ông nghị Lại xử tệ với anh được.
Ngắm anh một lát, thầy đội lại hỏi:
– Mày láo, chứ mày bảo chưa kịp nộp tiền trình quan mà quan giam. Hẳn mày đã hỗn láo gì hay có tội gì khác. Trăm thằng vào tù, thằng nào cũng xoen xoét rằng không biết tội gì.
– Bẩm thật.
Thầy đội vờ gắt:
– Mày nói dối là mày dại, con ạ. Mày muốn tao gỡ cho, thì cứ thú thực đi. Thú với tao chứ có phải thú với quan đâu. Nói với tao, tao bày kế cho liệu, mà khi có tốn cũng tốn ít thôi, chứ mày lên quan, hở cơ ra, ông ấy tóm được thì bỏ mẹ, con ạ. Mày phải biết một câu hớ hênh trước mắt quan là một năm tù. Tao bảo trước cho mà biết.
Nghe lời hăm dọa, Pha trố mắt nhìn, nao nao cả ruột gan. Nhưng xét tội mình chẳng qua chỉ chậm chạp nên anh quả quyết đáp:
– Bẩm quả chỉ vì con chậm đưa tiền trình.
Thầy đội nghĩ ra, bĩu môi nhạo:
– Bộ mày thế này mà dám nói có tiền. Mày là cậy có ông nghị làm thầy, nên mày “tăng phú” quan.
Pha cãi:
– Bẩm thực con có mang tiền đi.
Thấy Pha bị trúng kế, thầy đội nói khích để thách:
– Ừ, thì tiền mày đâu? Mày nói gian lòi đuôi ra rồi.
Muốn chứng sự thực thà, Pha cởi nút thắt lưng lấy ra năm tờ giấy một đồng, xòe ra trước mặt thầy đội.
– Bẩm đây, chứ con có dám nói dối đâu.
Bất đồ thầy đội chộp ngay, bóc lấy một tờ, bỏ nghiến vào túi, vui sướng nói:
– Ừ, tóm được cậu rồi, có chạy đường trời, đang thiếu tiền góp tổ tôm tối nay đây.
Rồi không lý sự gì thêm nữa, thầy chạy ra như thằng ăn cắp giật và khóa tách cửa lại, rồi quay vào cười ha hả. Hẳn thầy đắc chí về cách lấy tiền có nghệ thuật.
Bị mất tiền Pha quờ tay theo để vớ lại và đứng phắt dậy, nhưng đánh nhói, anh tưởng gãy chân về cái cùm. Anh ôm cẳng xuýt xoa, vừa đau, vừa tức, bất giác anh hu hu khóc. Anh không ngờ chốn công môn lại nhũng nhiễu hơn chợ. Mất một đồng bạc, anh có còn bốn. Anh lấy gì lễ quan, theo trong giấy ông nghị được? Như vậy anh không thể kêu oan nữa. Anh nói dối quan thật, vì anh có đủ đâu năm đồng? Thế này thì chiều nay hay mai anh cũng không mong gì được tha về. Mà tội lừa quan trên phải biết rằng không nhẹ. Lại nghĩ đến từ hôm qua đến nay, anh mất vào những chỗ không đáng mất gần hai đồng rồi. Anh tiếc món tiền mồ hôi nước mắt, có thể cứu sống gia đình anh ngót một tháng trời.
Pha ngồi trong buồng giam nhìn ra ngoài sáng. Bụng anh lo lắng không lúc nào ngơi. Anh thương vợ phải mong mỏi anh về, mà ngày về của anh, chưa biết chừng một tháng, hai tháng, hay đôi ba năm… Chẳng hay vợ anh có biết nông nỗi này mà tìm anh, cố lo cho anh khỏi tai nạn hay không.
Thỉnh thoảng những con muỗi to và những con kiến lửa kềnh lại đốt anh đánh nhói. Mà cả hai đùi tê liệt, máu đọng lại, bấm không thấy đau. Anh mỏi, nhưng càng cựa càng đau. Anh thấy ở đời không có cái dại nào giống cái dại nào, tự nhiên vô cớ đưa đầu vào tròng để nên tù nên tội. Anh chỉ mong trời phật run rủi, cho ông nghị có thể giải thoát cho anh được.
Bóng nắng ngoài hè càng rợp sân, anh càng nóng ruột. Rồi thấy bụng đói và thèm thuốc lào nữa. Nhất là khi lũ lính ăn cơm ở gian ngoài, anh càng cồn cào. Chắc là anh phải nhịn bữa chiều hôm nay.
Rồi đến sẩm tối, trong trại vắng tanh, anh nghĩ đến vợ anh ở nhà, bụng dạ lại cồn cào hơn đói. Một đêm nay nữa, một đêm lo sợ, không ngủ được, anh sẽ thấy nó dài là ngần nào. Nghĩ đến từ sáng hôm nay về trước anh được tự do mà thèm. Biết bao giờ anh lại được hưởng sự sung sướng như thế nữa. Nhìn cái tương lai mù mịt, anh chỉ thở dài.
Anh ngả lưng xuống nhắm mắt lại, cố ngủ cho quên đói, quên mong, quên khổ. Nhưng đất ẩm, anh xê dịch ra chỗ nào cũng không thoát. Muỗi vo ve như đàn ong.
Anh thấy gian ngoài người ta thắp đèn ba dây, thầy đội lệ và bốn người nữa châu đầu vào ánh sáng đánh tổ tôm với nhau. Mỗi tiếng cười ròn rã của thầy đội là một nhát dao nhọn nó đâm vào ngực anh.
Anh cố ngủ, song không tài nào ngủ được. Lúc về sáng, anh có chợp mắt hai ba dạo, nhưng lần nào cũng chiêm bao. Khi thấy như đang ở nhà với vợ con. Khi thấy phải đày ra một nơi rừng rú nước độc. Cho nên lúc tỉnh dậy, mình mỏi, hai chân đau liệt, anh bàng hoàng nghĩ đến ngày mai.