…..
Will Durant
Câu Chuyện Triết Học
Dịch giả : Trí Hải và Bửu Đích
Chương 9 (Kết)
Nguyên tác : The Story of Philosophy
FRIEDRICH NIETZSCHE
(1844 – 1900)
…..
I. DÒNG DÕI
Nietzsche là con đẻ của Darwin và (là) anh em của Bismarck.
Nietzsche nhạo báng những người Anh chủ trương thuyết Tiến hoá và những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia, song điều này không quan trọng; ông có thói quen tố cáo những người đã ảnh hưởng tới mình nhiều nhất; đó là cách ông che đậy -một cách vô thức- những món nợ của mình.
Triết học đạo đức của Spencer không phải là hệ luận tự nhiên nhất của thuyết tiến hoá. Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu để sống sót, thì sức mạnh khi ấy sẽ là tối hậu, và sự yếu kém là lỗi lầm duy nhất. Tốt là cái gì sống sót, ưu thắng; xấu là cái gì đầu hàng, thất bại. Chỉ có những người Anh theo thuyết Darwin vào thời đại Victoria, những người Pháp trưởng giả theo thuyết duy nghiệm và những người Đức theo xã hội chủ nghĩa mới có thể che dấu tính cách tất yếu của kết luận này. Những người ấy khá can đảm để chối bỏ thần học Ki-tô giáo, nhưng họ không dám tỏ ra hợp luận lý, không dám phủ nhận những ý tưởng đạo đức, sự tôn sùng tính hoà nhã lịch sự và vị tha, những yếu tố đã thoát thai từ nền thần học ấy. Họ không còn là những người theo giáo đường Anh cát lợi, hay theo Công giáo La Mã, hay theo thánh Luther; nhưng họ không dám thôi làm những người Ki-tô giáo – Friedrich Nietzsche đã lý luận như thế.
“Yếu tố kích thích những nhà tư tưởng tự do Pháp từ Voltaire cho đến Auguste Comte là không theo đuôi lý tưởng Ki-tô giáo, … mà phải vượt hơn nó nếu có thể. Comte, với lý tưởng “Sống cho kẻ khác”, đã có tính cách Ki-tô hơn cả chính Ki-tô giáo. Ở Đức quốc, Schopenhauer và ở Anh, John Stuart Mill, đã đem lại tiếng tăm lừng lẫy nhất cho lý thuyết về thiện cảm, về lòng trắc ẩn, và về sự lợi tha kể như nguyên tắc hành động … Tất cả những hệ thống thuộc xã hội chủ nghĩa đã vô tình tự an vị trên một nền tảng chung đã kể” *) [(*) trích dẫn trong Faguet: On Reading Nietzsche, NY, 1918, tr. 71].
Vô tình Darwin đã hoàn tất công việc của những nhà làm Bách khoa tự điển: họ đã dẹp bỏ nên tảng thần học của đạo đức tân tiến, nhưng vẫn để nguyên vẹn nền đạo đức ấy không động tới.
Những người sáng suốt sẽ nhận thấy ngay những gì mà những bộ óc sâu sắc nhất của mọi thời đại đã biết: ấy là, trong trận đấu ta gọi là cuộc sống này, cái gì ta cần không phải là sự tốt lành mà sức mạnh, không phải tính khiêm cung mà niềm kiêu hãnh, không phải lòng vị tha mà trí thông minh cả quyết; bình đẳng và dân chủ là phản lại luật đào thải và sống còn; không phải là quần chúng mà chính thiên tài mới là cùng đích của tiến hoá; không phải “công bằng” mà chính quyền lực mới là trọng tài của mọi cuộc phân tranh và mọi số phận – Friedrich Nietzsche nghĩ thế.
Nếu tất cả điều trên là đúng, thì không gì hùng vĩ, đầy ý nghĩa hơn Bismarck. Đây là một con người đã hiểu biết những thực tại cuộc đời, người đã nói toạc rằng “không có lòng cao thượng vị tha giữa các quốc gia”, rằng những vấn đề hiện nay phải được định đoạt không phải bằng đầu phiếu và tài hùng biện, mà bằng máu và sắt. Bismarck quả là một cơn lốc tẩy uế cho một Âu châu đã thối rữa vì những ảo tưởng dân chủ và những “lý tưởng” ! Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ông đã khiến toàn thể nước Áo suy tàn phải nhận quyền lãnh đạo của ông; chỉ trong vài tháng ngắn ngủi ông đã triệt hạ một nước Pháp say sưa với huyền thoại Napoléon; và trong những tháng năm ngắn ngủi ấy ông đã đồng lúc bắt buộc tất cả những “tiểu quốc” của nước Đức , tất cả những vị vua chuyên chế, những lãnh chúa, những quyền lực nho nhỏ kia phải tan hoà vào trong một đế quốc hùng mạnh, biểu tượng chính cống của nền đạo đức mới về sức mạnh. Hùng lực kỹ nghệ và quân sự đang lên của nước Đức mới này cần một tiếng nói; chiến tranh cần một nền triết học làm trọng tài để biện minh cho nó. Ki-tô giáo sẽ không làm việc ấy, nhưng thuyết tiến hoá có thể làm. Chỉ cần một ít can đảm để hoàn tất công việc.
Nietzsche đã có cái can đảm ấy và trở thành tiếng nói của thời đại.
II TUỔI TRẺ
Tuy nhiên, cha Nietzsche là một mục sư: một dọc dài những giáo sĩ nối tiếp sau mỗi người họ hàng bà con của ông; và chính ông thuỷ chung vẫn là một nhà thuyết giáo. Ông đả kích Ki-tô giáo bởi vì trong ông, có quá nhiều dấu vết của tinh thần đạo đức Kitô: triết học của ông là một nỗ lực để tạo thế quân bình và sửa đổi -bằng lối nghịch ngôn mạnh mẽ- một khuynh hướng ngả về sự dịu dàng, từ tâm và hoà bình. Éo le thay cho ông, những người lương thiện ở Genoa lại gọi Nietzsche là Il Santo – vị thánh. Thân mẫu ông là một vị phu nhân ngoan đạo rất sùng Thanh giáo, cùng thuộc loại người như những người đã nuôi dưỡng Immanuel Kant và Nietzsche cho đến cùng, vẫn là một người “ngoan đạo”. Thanh giáo, tinh khiết như pho tượng: bởi đó mà ông đả kích Thanh giáo và sự sùng đạo. Vị thánh khó hư hỏng ấy, khốn nỗi lại khao khát vô cùng được biến thành kẻ phạm tội !
Nietzsche sinh ở Rocken, nước Phổ, vào ngày 15 tháng 10 năm 1844 – tình cờ cũng là ngày sinh của vị vua Phổ đang cai trị, Friedrich Wilhelm IV. Thân phụ Nietzsche, người đã làm gia sư cho nhiều người trong hoàng tộc, rất vui mừng trước sự trùng hợp ấy, và đặt tên cậu bé theo tên vua. “Dù sao cũng có một lợi điểm trong việc tôi đã chọn ngày ấy để ra đời; suốt thời thơ ấu, sinh nhật tôi đã là một ngày vui công cộng”.
Cái chết sớm của thân phụ đã để Nietzsche lại làm nạn nhân cho những người đàn bà thánh đức của gia đình; những người này nâng niu yêu dấu cậu đến nỗi khiến cậu bé Nietzsche có một tính nhạy cảm và tế nhị gần như đàn bà. Cậu không thích những đứa bé hư hỏng ở láng giềng, những đứa đi phá tổ chim, phá hoại các vườn hoa, chơi trò lính tráng và nói dối. Những bạn học gọi cậu là “mục sư tí hon” và một đứa trong bọn tả cậu là “một đức Chúa Giê-su trong nhà thờ”. Cậu ưa thích cô quạnh một mình để học thánh kinh, hay đọc cho kẻ khác nghe với một giọng thật cảm động để làm cho họ phải rưng mắt lệ. Nhưng trong cậu, có ẩn một niềm kiêu hãnh và tính khắc kỷ mạnh mẽ: khi những bạn học hoài nghi chuyện về Mutius Scaevola, cậu đã đốt cháy một hộp diêm trong lòng bàn tay và để nó nằm đấy cho đến khi những que diêm cháy hết. Đấy là một mẫu chuyện điển hình: suốt đời Nietzsche sẽ luôn luôn tìm kiếm những phương thế vật lý và tâm thức để tự tôi luyện cho mình một hùng tính được lý tưởng hoá. “Cái gì không phải bản tính của tôi, cái đó đối với tôi chính là Thượng đế và đức hạnh” *) [(*) The Birth of Tragedy, dẫn nhập, tr. xvii].
Vào năm 18 tuổi, Nietzsche mất niềm tin tưởng vào Thượng đế mà ông cha chàng đã tôn thờ, và suốt quãng đời còn lại của chàng được dành cho việc đi tìm một thần-tính mới. Chàng nghĩ chàng đã tìm ra trong Siêu-nhân. Về sau Nietzsche bảo rằng chàng đã thay đổi một cách dễ dàng; nhưng Nietzsche vốn có thói quen tự đánh lừa, và vốn là một người viết tự truyện không đáng tin cậy lắm. Chàng trở thành cay cú, như một kẻ đã đặt cược hết cả tài sản vào một cú đen đỏ và đã thua. Tôn giáo đã là cốt tuỷ chính yếu của đời chàng; bây giờ đời chàng dường như rỗng không, vô nghĩa. Chàng đột ngột đi vào một giai đoạn phóng đãng xác thịt cùng với những bạn cùng trường ở Bonn và Leipzig, và lại thắng lướt được tính “làm bộ” đã khiến chàng khó đạt những nghệ thuật của nam giới như thuốc lá và rượu. Nhưng chẳng bao lâu, rượu, đàn bà và thuốc lá làm chàng ngấy chán; chàng phản kháng lại trong một cơn khinh bỉ tràn trề đối với toàn thể sự ái mộ rượu bia (Biergemuetlichkeit) của xứ sở và thời đại mình, những người uống bia và phì phào ống điều không thể nào có được tri giác minh mẫn hoặc ý tưởng sâu sắc.
Chính vào khoảng này, vào năm 1865, Nietzsche khám phá tác phẩm Thế giới: ý dục và biểu tượng của Schopenhauer, và bắt gặp trong đó “Một tấm gương trong ấy tôi dòm thấy thế gian, cuộc đời và chính bản tính của tôi được trình bày với một vẻ hùng tráng kinh hồn”, chàng đem cuốn sách về nhà và hăm hở đọc từng chữ một. “Dường như thể Schopenhauer đang nói riêng cùng tôi. Tôi cảm thấy nguồn phấn khởi của ông và tưởng như thấy ông trước mắt. Mỗi hàng chữ đều kêu gào thúc dục sự khước từ, chối bỏ, cam chịu”. Màu đen tối của triết học Schopenhauer in ấn tượng vĩnh viễn trên tư tưởng Nietzsche: không những chỉ khi chàng là một môn đồ trung thành của “Schopenhauer nhà giáo dục” (nhan đề một trong những bài tiểu luận của Nietzsche), mà ngay cả khi chàng bắt đầu tố cáo Bi-quan chủ nghĩa, xem như một hình thức của đồi truỵ, chàng tự căn để vẫn là một người bất hạnh, một người mà thần kinh hệ dường như đã được cẩn thận sắp đặt để dành cho khổ đau, người mà sự tán dương bi kịch -xem như nguồn hoan lạc của cuộc sống- cũng chỉ là một hình thức tự dối khác. Chỉ có Spinoza hoặc Goethe mới cứu được chàng khỏi Schopenhauer ; nhưng dù chàng thuyết giáo về đức bình an (aequanimitas) và thuận mệnh (amor fati), chàng không bao giờ thực hành chúng, đức an tịnh trong sáng của hiền nhân và niềm bình lặng của tâm thức quân bình không bao giờ có ở trong chàng.
Vào năm 23 tuổi, Nietzsche bị gọi nhập ngũ. Đáng lẽ chàng được miễn dịch vì cận thị và vì là con của một goá phụ, nhưng quân đội đã gọi chàng. Tuy nhiên, một tai nạn té ngựa đã làm vẹo xương sườn chàng đến nỗi viên đội đi mộ binh buộc lòng phải thả miếng mồi của y. Nietzsche không bao giờ hoàn toàn bình phục sau đó. Kinh nghiệm nhà binh của chàng quá ngắn ngủi đến nỗi chàng rời khỏi quân ngũ mang theo với hầu hết bao nhiêu ảo tưởng về lính như khi chàng mới vào; cuộc sống cam go “kiểu Sparte” với sự ra lệnh và tuân lệnh, với sự dãi dầu chịu đựng và kỷ luật khắt khe đã cám dỗ trí tưởng tượng chàng, bấy giờ khi chàng đã thoát khỏi bổn phận phải tự mình thực hiện ý tưởng ấy; chàng đâm ra tôn thờ quân nhân chỉ vì sức khoẻ chàng không cho phép chàng trở nên một người lính.
Từ nếp sống quân ngũ chàng nhảy qua lãnh vực tuyệt đối tương phản với nó: nếp sống hàn lâm của một nhà ngữ học: thay vì trở thành một chiến sĩ, chàng đã trở thành một tiến sĩ. Năm 25 tuổi, chàng được chỉ định chức giáo sư ngữ học cổ điển ở đại học Basel (Basle), từ khoảng cách an toàn này chàng có thể ngưỡng mộ Bismarck. Chàng hối tiếc lạ lùng vì đã chọn lựa cái công việc ngồi lỳ một chỗ và không anh hùng tí nào này: một mặt chàng ao ước giá mình đã chọn một nghề thực tiễn và linh hoạt, như y học chẳng hạn; đồng thời chàng lại tự thấy mình có thiên tư về âm nhạc. Chàng đã trở thành gần như một nhà chơi dương cầm, và đã viết những khúc cầm- nhạc (sonata); “đời sẽ là một lỗi lầm nếu không có âm nhạc”, chàng bảo.
Gần Basel là thành phố Tribschen, nơi nhà danh nhạc khổng lồ, Richard Wagner đang sống với vợ một người khác. Năm 1869 Nietzsche được mời đến ở chơi Giáng sinh tại đấy. Chàng là người nồng nhiệt tán dương âm nhạc cho ngày mai, và Wagner không chê những “lính mới” có thể đem lại cho mình một ít hơi hướng của uy danh thuộc giới học giả và đại học. Dưới bùa lực của nhà soạn nhạc vĩ đại này, Nietzsche bắt đầu viết tác phẩm đầu tiên của chàng, tác phẩm sẽ mở đầu với kịch nghệ Hy Lạp và kết thúc bằng Der Ring des Nibelungen*) [(*)Chiếc nhẫn (của vương quốc) Nibelungen – Tác phẩm opera vĩ đại của Richard Wagner dựa trên Anh hùng ca thần thoại Đức về kho tàng châu báu của vương quốc Nibelungen ở khu vực sông Rhein (Rhin), gồm bốn vở: 1. Das Rheingold, 2. die Wallküre, 3. Siegfried và 4. Goetterdaemmerung- chú thích của người đánh máy-], thuyết giáo về Wagner cho cả thế giới, xem như một Achille tân thời. Chàng lên tận vùng núi Alpen để được an ổn viết, xa hẳn đám đông ồn ào; ở đấy, vào năm 1870, chàng được tin Đức và Pháp lâm chiến.
Chàng ngần ngại, tinh thần của Hy Lạp và hết thảy những thi thần của thơ, kịch, triết và nhạc đã đưa những bàn tay dâng hiến ra mời mọc chàng. Nhưng chàng không thể chống lại tiếng gọi của xứ sở; đây cũng là thơ chứ ! “Ở đây, chàng viết, ta có quốc gia với nguồn gốc đáng hỗ thẹn; đối với phần đông người, đó là một cái giếng sâu đầy đau khổ không bao giờ khô cạn, một ngọn lửa thiêu huỷ họ trong những cơn khủng hoảng triền miên. Tuy thế mà khi nó cất tiếng gọi, linh hồn ta đâm ra quên bẵng mình; trước tiếng gọi đẫm máu của nó, quần chúng được thúc giục phải dũng cảm và được nâng lên hàng anh hùng”*) [(*) Trong Halevy, Life of F.Nietzsche , London, 1911, tr. 106]. Ở Frankfurt, trên đường ra trận tuyến, chàng thấy một đội kị binh diễn hành với vẻ huyên náo và hùng tráng đi qua thành phố; ngay tức thì và tại chỗ, chàng bảo chàng có một tri giác, một linh kiến mà từ đó toàn thể nền triết học của chàng sẽ trưởng thành. “Lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng ý chí muốn sống mãnh liệt nhất và cao độ nhất không phải biểu thị trong một cuộc vật lộn thảm hại để sống còn, mà trong một ý chí muốn Chiến tranh, một ý chí muốn Quyền lực, một ý chí muốn khắc phục [Trong Forster, The Young Nietzsche , London, 1912, tr. 235]. Vì thị giác kém chàng không được làm lính một cách tích cực, mà đành phải y tá điều dưỡng; và mặc dù mục kích khá nhiều cảnh tượng khủng khiếp, chàng không bao giờ biết được sự tàn bạo đích thực của chiến trường mà tâm hồn nhút nhát của chàng về sau sẽ lý tưởng hoá bằng tất cả cường độ tưởng tượng của kẻ thiếu kinh nghiệm. Ngay cả trong việc nuôi bệnh, chàng cũng quá nhạy cảm; cảnh máu me làm cho chàng nhuốm bệnh; chàng ngất xỉu và được đưa về nhà hoàn toàn kiệt quệ. Mãi từ đấy về sau chàng có những sợi thần kinh của một Shelley và bao tử của một Carlyle; tâm hồn của một thiếu nữ dưới lớp áo của một quân nhân.
III. NIETZSCHE VÀ WAGNER
Vào đầu năm 1872 Nietzsche ấn hành tác phẩm đầu tiên, tác phẩm duy nhất được hoàn thành của chàng – Sự thoát thai của Bi kịch từ tinh thần Âm nhạc (= Bi kịch)- Chưa có một nhà ngữ học nào từng ăn nói trữ tình như thế. Chàng nói về hai vị thần mà nghệ thuật Hy Lạp tôn thờ: trước tiên là Dionysus (hay Bacchus), vị thần của rượu và cuộc vui chơi, của cuộc đời đi lên, của niềm vui trong hành động, của cảm xúc và hứng cảm xuất thần, của bản năng và phiêu lưu và sức khổ đau dũng cảm, vị thần của ca nhạc, vũ và kịch; rồi về sau là Apollon, vị thần của thanh bình, nhàn hạ, nghỉ ngơi, của cảm xúc nghệ thuật, của mặc niệm tri thức, của trật tự hợp lý và niềm bình an triết học, vị thần của hội hoạ điêu khắc và anh hùng ca. Nghệ thuật Hy Lạp cao quý là một hoà điệu của hai lý tưởng, – sức mạnh nam tính lăng xăng của Dionysus và vẻ đẹp nữ tính yên lặng của Apollon. Trong kịch nghệ, Dionysus khởi hứng cho ca khúc và Apollon cho lời đối thoại; ca khúc phát xuất trực tiếp từ đám diễn hành của những môn đồ Dionysus: lời đối thoại là ý nghĩa đến sau, một phần hỗ trợ phản ánh của một kinh nghiệm cảm xúc.
Đặc điểm thâm thuý nhất trong kịch nghệ Hy Lạp là sự chinh phục bằng nghệ thuật của Dionysus đối với bi quan chủ nghĩa. Những người Hy Lạp vốn không phải là những người vui vẻ lạc quan chúng ta bắt gặp trong những bài vè sử nói về họ ngày nay; họ tri giác rất thâm thiết những mũi châm chích của cuộc đời, và tính cách ngắn ngủi bi thảm của nó. Khi Midas hỏi Silenus số phận nào là tốt nhất cho con người, Silenus trả lời: “Hỡi nòi giống đáng thương chỉ sống có một ngày kia ơi, hỡi những đứa con của tai nạn và buồn sầu, sao ngươi lại buộc ta phải nói những gì mà tốt hơn đừng nên nghe tới ? Số phận tốt nhất không thể có được: ấy là đừng sinh ra đời, không là cái gì cả. Thứ đến là chết thật sớm”. Rõ ràng những người này không cần phải thụ giáo với Schopenhauer, hay với những người Ấn giáo. Nhưng những người Hy Lạp đã thắng lướt được màu u ám của sự vỡ mộng bằng ánh rực rỡ của nghệ thuật: từ nơi khổ đau của chính họ, họ đã làm nên bối cảnh cho kịch nghệ và khám phá rằng “cuộc tồn sinh và thế giới có vẻ hữu lý chỉ vì đấy là một hiện tượng nghệ thuật” (Bi kịch, 50, 183), một đối tượng cho sự thưởng ngoạn hay cho việc tái tạo thẩm mỹ. “Những gì tuyệt vời chính là nghệ thuật đã chế phục được cái khủng khiếp” (Bi Kịch, 60). Bi quan là dấu hiệu của suy tàn, lạc quan là biểu trưng của tâm hồn nông cạn, nhưng “lạc quan bi tráng” chính là tư thái của con người hùng mạnh đi tìm nồng độ và chiều rộng sâu của kinh nghiệm cho dù phải chịu muôn sầu nghìn thảm, tư thái của con người hân hoan nhận chân rằng xung đột chính là định luật của cuộc sống. “Bi kịch chính nó là bằng chứng cho sự kiện rằng những người Hy Lạp không phải bi quan. “Những ngày mà tư thái này đã đẻ ra kịch nghệ Achille và triết học tiền-Socrate là những ngày vĩ đại phi thường của Hy Lạp” (Thư Wagner – Nietzsche, NY, 1921, tr. 167). Socrate -“mẫu người lý thuyết” (Bi kịch, 114) là một biểu hiệu cho khí chất lỏng lẻo của cá tính Hy Lạp; “khả năng cường tráng kiểu Marathon xưa cũ của thân xác và tâm hồn dần dà bị hy sinh cho một tuệ giác khả nghi, hàm ẩn sự suy đồi dần dần của những năng lực thể chất và tâm linh” (tr. 102). Triết học phê phán đã thay chỗ cho thi ca triết lý của thời tiền-Socrate; khoa học thay chỗ cho nghệ thuật; trí năng thay thế trực giác; biện chứng thay thế những trò chơi. Dưới ảnh hưởng Socrate, Platon nhà lực sĩ trở thành một nhà thẩm mỹ, Platon nhà làm kịch trở thành một nhà luận lý, một kẻ thù của lòng say mê, một người trục xuất các thi sĩ, một người Ki-tô giáo tiền-Ki-tô, một nhà chủ trương nhận thức luận. Trên đền thờ Apollon ở Delphes, những châm ngôn của trí khôn vô dục được khắc lên – “Gnothi seauton” và “medem agan” (“tự biết mình” và “trung đạo”)- những châm ngôn đã trở thành, nơi Socrate và Platon, cái ảo tưởng cho rằng trí tuệ là đức hạnh duy nhất, và nơi Aristote cái chủ thuyết trung đạo nhu nhược. Trong thời còn trẻ trung, một dân tộc sản sinh huyền thoại và thi ca; vào thời suy tàn, nó sản sinh triết học và luận lý. Vào giai đoạn trẻ trung của nó, Hy Lạp sản xuất Homère và Achille, khi tàn tạ nó cho chúng ta Euripides -nhà luận lý bị biến thành kịch gia, nhà duy lý phá hoại huyền thoại và biểu tượng, nhà duy cảm phá hoại niềm lạc quan bi tráng của thời đại hùng tính, người bạn của Socrate, người đã thay thế ca khúc Dionysus bằng đám người của Apollon, những nhà biện chứng và diễn giả.
Thảo nào lời tiên tri của Apollon ở đền Delphe đã gọi Socrate là người thánh-trí thứ nhất của dân Hy Lạp, Euripides thánh trí thứ nhì sau Socrate; và thảo nào “bản năng không lầm lẫn của Aristophanes .. đã thù ghét cả Socrate lẫn Euripides… và thấy nơi họ những triệu chứng của một nền văn hoá suy tàn” (Bi kịch, 182). Dĩ nhiên họ đã phản tỉnh; dĩ nhiên vở kịch cuối cùng của Euripides -The Bacchoe- chính là sự quy hàng của ông trước Dionysus, là bài giáo đầu báo hiệu việc tự sát của ông; và dĩ nhiên Socrate ở trong tù đã khởi sự tập tành âm nhạc của Dionysus để trấn tỉnh lương tâm. “Có lẽ -ông ta phải tự hỏi- có lẽ cái gì tôi không hiểu được phải chăng không vì thế mà phi lý ? Biết đâu lại không có một lãnh vực của tri giác, ở đó nhà luận lý bị gạt ra ? Biết đâu nghệ thuật lại không chính là một cái gì nhất thiết quan hệ đến tri thức và bổ sung cho tri thức ?”. Nhưng đã quá muộn màng; công trình của nhà luận lý và nhà duy lý không thể phá huỷ; kịch Hy Lạp và cá tính Hy Lạp đã suy tàn. “Một điều lạ đã xảy đến là : khi nhà thơ và nhà triết phản tỉnh, thì nội cái khuynh hướng phản tỉnh của họ đã chiến thắng” (tr. 95). Cùng với họ chấm dứt thời đại những anh hùng, và nghệ thuật của Dionysus. Nhưng phải chăng thời đại Dionysus có thể trở về ? Há Kant đã không phá huỷ một lần dứt khoát tất cả lý trí lý thuyết và con người lý thuyết ? – Schopenhauer há đã không dạy trở lại cho chúng ta cái sâu sắc của bản năng và bi kịch của tư tưởng ? – và há Richard Wagner một Archilles thứ hai lại không hiện đang khôi phục những linh thoại và biểu tượng, và trở lại phối hợp nhạc và kịch trong một niềm say sưa kiểu Dionysus ? “Từ nơi gốc rễ Dionysus của tinh thần dân Đức, một năng lực đã sinh khởi, một năng lực không có gì chung cùng với những điều kiện sơ khai của văn hoá Socrate, … – nghĩa là nền âm nhạc Đức quốc … trong quỹ đạo rộng lớn từ Bach đến Beethoven, từ Beethoven tới Wagner” (Bi kịch, 150). Tinh thần Đức quốc từ quá lâu đã phản ảnh một cách thụ động nghệ thuật kiểu Apollon, của Ý và Pháp; dân tộc Đức hãy nhận chân rằng những bản năng của riêng họ vốn khoẻ mạnh hơn những nền văn hoá suy đồi kia; họ hãy làm một cuộc canh tân về âm nhạc cũng như về tôn giáo, trút cái hùng khí man dại của Luther vào lại trong nghệ thuật và trong cuộc đời. Biết đâu từ nơi những thống khổ chiến tranh mà Đức quốc phải chịu đựng, lại không lộ xuất một thế hệ anh hùng mới và từ nơi tinh thần âm nhạc, bi kịch biết đâu không tái sinh ra đời ?
Năm 1872 Nietzsche trở về Basel, thể xác còn yếu đau nhưng tinh thần bùng cháy tham vọng, và không muốn bị tiêu mòn trong công việc giảng dạy mệt nhọc. “Tôi có trước mắt công việc đủ để làm trong năm mươi năm, và phải canh chừng thời gian một cách nghiêm nhặt” (Trong Halévy, 169). Bây giờ Nietzsche đã hơi thất vọng về chiến tranh. Chàng viết:” Đế quốc Đức quả đang tuyệt diệt tinh thần Đức”. Chiến thắng 1871 đã đem lại một ít tự phụ thô lỗ trong linh hồn Đức quốc và không có gì thù nghịch với sự trưởng thành tâm linh hơn thế. Một tính chất quỉ ma trong Nietzsche khiến chàng hung hăng trước mọi thần tượng, và chàng quyết định đả kích vẻ tự mãn đáng chán này bằng cách công kích người đại diện được tôn kính nhất của nó – David Strauss. “Tôi bước vào xã hội với trận đấu kiếm tay đôi: Stendahl đã cho tôi lời khuyên ấy” (Ibid).
Trong ý tưởng thứ hai của những Ý tưởng lỗi mùa – cái tên khéo đặt – “Schopenhauer nhà giáo dục”, Nietzsche quay mũi súng về những đại học đường có tinh thần ái quốc quá trớn. “Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng không gì chướng ngại cho sự phát triển những triết gia lớn cho bằng thói tục nâng đỡ những triết gia tồi trong các đại học quốc gia, không quốc gia nào sẽ dám bảo trợ những người như Platon và Schopenhauer … Quốc gia luôn luôn sợ những người như thế” (Schopenhauer nhà giáo dục, đoạn 8). Chàng trở lại sự công kích trong “Tương lai những cơ sở giáo dục của chúng ta” và trong “Sử dụng và lạm dụng sử học”, chàng nhạo báng sự ngụp lặn của giới trí thức Đức quốc vào trong nền học vấn khảo cổ chi li. Trong những bài tiểu luận này, ta đã thấy biểu lộ hai trong những ý tưởng đặc sắc của Nietzsche: ấy là đạo đức, cũng như thần học, phải được tái lập theo tiêu chuẩn và thuyết tiến hoá ; và nhiệm vụ của đời sống là đem lại “không phải sự cải thiện số đông quần chúng mà xét riêng từng người, là những kẻ vô giá trị nhất”, mà chính là “sự tạo dựng thiên tài”, sự phát triển và nuôi nấng những nhân cách cao cả (Ibid, đoạn 6).
Bài tiểu luận hăng hái nhất trong số này là bài “Richard Wagner ở Bayreuth”, hoan hô Wagner như một Siegfried, “người chưa từng biết ý nghĩa của sợ hãi” (Ý tưởng lỗi mùa, i, 117) , và như nhà sáng lập nền nghệ thuật chân chính duy nhất, bởi vì ông là người đầu tiên đã hoà hợp tất cả các nghệ thuật vào trong một tổng thể vĩ đại. Bài tiểu luận còn kêu gọi Đức quốc phải nhận chân ý nghĩa hùng vĩ của cuộc lễ lạc Wagner sắp đến – “Bayreuth với chúng ta có ý nghĩa là phép bí tích ban mai vào ngày lâm chiến” (Ibid., 104). Đấy là tiếng nói của lòng tôn sùng nơi tuổi trẻ, tiếng nói của một linh hồn tế nhị gần như đàn bà đã thấy nơi Wagner một vẻ cương nghị dũng cảm đầy hùng tính, những gì về sau sẽ thai nghén nên Siêu nhân. Nhưng người tôn sùng đồng thời cũng là một triết gia nên chàng thoáng thấy nơi Wagner một tính vị kỷ độc tài gây thương tổn cho một tâm hồn quý tộc. Chàng không thể chịu được sự việc Wagner công kích người Pháp vào năm 1871, và lấy làm kinh ngạc trước sự ganh tị của Wagner đối với Brahms (Thư Wagner – Nietzsche, tr. 223). Đề tài trọng tâm của bài tiểu luận tán dương này đã không báo điềm tốt gì cho Wagner : “Thế giới đã bị đông phương hoá từ lâu rồi; bây giờ mọi người đang khao khát được Hy Lạp hoá”. Nhưng Nietzsche cũng đã thừa biết Wagner có nửa dòng máu Do thái.
Và năm 1876, chính lễ Bayreuth đã đến, với nhạc kịch Wagner đêm dài nối đêm, với những bà mê say Wagner, những hoàng đế, hoàng tử, vương hầu, những người cự phú nhàn hạ lùa gạt ra ngoài bọn ái mộ túi rỗng. Bỗng nhiên Nietzsche chợt thấy Wagner thật giống Geyer *) [(*) một kịch sĩ Do thái, mà Nietzsche nghi là cha ruột của Wagner. Ludwig Geyer cưới mẹ Wagner sau khi cha chàng mất (lúc ấy chàng mới ra đời được 6 tháng)], tác phẩm The Ring of the Nibelungs thật đã nhờ biết bao đến những tác dụng sân khấu đầy dẫy trong đó, và đến độ nào những khúc Melos không có trong âm nhạc đã vào trong kịch nghệ. “Tôi đã thấy những hình ảnh một kịch bản tràn đầy hoà tấu, một hình thức thoát thai từ khúc hát. Nhưng tiếng gọi xa lạ của nhạc kịch đã khăng khăng lôi cuốn Wagner về hướng khác” (Thư Wagner-Nietzsche, tr. 279). Nietzsche không thể đi theo hướng đó, chàng ghét kịch và nhạc kịch. “Hoạ là điên, tôi mới ở lại đây”, chàng viết. “Tôi khủng khiếp chờ đợi từng đêm trình diễn nhạc dai dẳng ấy … Tôi không thể chịu đựng được nữa” (Trong Halévy, tr. 191).
Bởi thế chàng chuồn thẳng, không một lời với Wagner và giữa lúc Wagner đang ở tột đỉnh quang vinh, trong khi mọi người đang tôn thờ; chuồn thẳng, “chán ngấy trước tất cả những gì có tính cách đàn bà và vẻ vô kỷ luật trong cái lãng mạn ấy, trong sự lừa dối ấy, trong sự làm yếu mềm lương tâm người, những gì đã chinh phục được một trong những linh hồn dũng cảm nhất ở đây”. Sau đó, ở miền Sorento xa xôi, chàng lại chạm mặt với chính Wagner, đến nghỉ ngơi sau trận chiến thắng của mình, trí hoài thai một bản nhạc kịch mới – Parsifal. Đấy sẽ là một bản ca tụng Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và tình yêu không xác thịt, ca tụng một thế giới được cứu chuộc nhờ một “người điên thuần tuý”, “người điên trong Chúa Kitô”. Nietzsche ngảnh mặt làm ngơ không một lời cáo biệt, và từ đấy về sau không bao giờ nói với Wagner nữa. “Tôi không thể nào công nhận một sự vĩ đại không phối hợp cùng đức trong sạch và chân thành đối với chính mình. Lúc tôi đã khám phá ra một điều như thế, thì tất cả những thành quả của một người đối với tôi tuyệt đối không còn ý nghĩa gì nữa” (Ibid., 295). Nietzsche thích anh chàng Siegfried người nổi loạn hơn là Parsifal bậc thánh nhân, và không thể tha thứ Wagner về việc ông đã thấy trong Ki-tô giáo một giá trị đạo đức và một vẻ đẹp có ảnh hưởng hơn những khuyết điểm thần học của nó bội phần. Trong cuốn Trường hợp Wagner chàng đã nhục mạ Wagner với cơn giận dữ điên loạn: “Wagner nịnh hót mọi thiên tính ngã về Phật giáo hư vô, và nguỵ trang nó bằng âm nhạc; hắn nịnh hót mọi thứ Ki-tô giáo và mọi hình thức tôn giáo biểu thị của suy đồi… Richard Wagner, một kẻ lãng mạn vô vọng đã tàn bại, bỗng ngã quỵ thình lình trước Thánh giá. Chớ không có người Đức nào có con mắt mà nhìn, có tấm lòng trắc ẩn mà khóc cái cảnh tượng kinh khủng này hay sao ? Vậy hoá ra tôi là kẻ độc nhất hắn đã làm cho khổ đau hay sao ? … Ờ, mà tuy nhiên tôi là một trong những thằng hâm mộ Wagner đồi truỵ nhất … Được rồi, tôi là đứa con của thời đại này, y hệt như Wagner, – nghĩa là, một thằng suy vi; nhưng tôi ý thức được chuyện đó, tôi bảo vệ cho tôi chống lại chuyện đó”.
Nietzsche thật ra có tính chất “Apollon” nhiều hơn chàng tưởng: một con người yêu những gì thanh tú, tế nhị chứ không phải yêu sức mạnh man dại đượm tính chất Dionysian, cũng không phải yêu cái mỹ miều của rượu, ca khúc và tình ái. “Anh của bà, với cái bộ kiêu kỳ của nó, là thằng cha khó chịu nhất”, Wagner đã nói với bà Forster-Nietzsche; “…đôi khi nó hoàn toàn bối rối trước những lời nói đùa của tôi, và tôi càng được thể đùa dai hơn baogiờ cả” (Ellis trích dẫn trong Affirmations, tr. 27). Nơi Nietzsche có quá nhiều hơi hướng Platon; chàng lo sợ rằng nghệ thuật sẽ dạy cho con người hết cứng rắn; vốn có tâm hồn mẫn cảm, chàng tưởng cả thế giới cũng như mình, -nguy thay suýt thực hành Ki-tô giáo. Không có nhiều chiến tranh đủ để thích hợp với vị giáo sư hiền lành ấy. Tuy nhiên, trong những giờ bình lặng, chàng biết rằng Wagner cũng đúng như Nietzsche, tính chất tao nhã nơi Parsifal cũng cần thiết như sự hùng mạnh nơi Siegfried, và nhìn dưới một nhãn quan vũ trụ, những mâu thuẫn khốc liệt kia sẽ tan hoà trong những nhất-thể đầy sáng tạo tốt lành. Nietzsche thích nghĩ về tình bạn như “tình sao” này (như những vì sao trên trời – chú thích của người đánh máy -) , mối tình vẫn âm thầm gắn bó chàng với con người đã là kinh nghiệm phong phú và giá trị nhất đời chàng. Và về sau, vào một giây lát minh mẫn trong cơn điên cuối đời, khi nhìn thấy một bức tranh Wagner, đã chết từ lâu, Nietzsche đã thốt ra rất khẽ: “Chính người ấy, ta đã yêu nhiều”.
IV. TIẾNG HÁT ZARATHUSTRA
Và từ nghệ thuật, như đã bỏ rơi chàng, chàng tìm trú ẩn trong học thuật – nơi đó bầu không khí Apollonian giá lạnh đã tẩy sạch linh hồn chàng sau cơn nhiệt nồng và hỗn loạn kiểu Dionysus ở Tribschen và Bayreuth – và trong triết học, “cho ta một chỗ tị nạn ở đấy không nền chuyên chế nào có thể xâm nhập”. Cũng như Spinoza, chàng cố làm lắng dịu những cảm xúc bằng cách xem xét chúng; theo Nietzsche, chúng ta cần đến một “khoa hoá học về những cảm xúc”. Bởi thế, trong tác phẩm sau đó Con người quá đỗi người (1878-1880), chàng trở nên một nhà tâm lý học, phân tích với sự tàn bạo của một nhà giải phẫu, những cảm thức dịu dàng nhất và những niềm tin được ấp ủ nhiều nhất, – mạnh dạn đề tặng tác phẩm gây phản ứng mãnh liệt đó cho Voltaire con người ưa nói xấu.
Rồi ngay giữa lúc tuổi còn xanh, vào năm 1879, Nietzsche ngã quỵ, cả thể các lẫn tinh thần, lụn xuống gần kề chỗ chết. Chàng ương ngạnh chuẩn bị cho giờ lâm tử: “Em hãy hứa với anh -chàng nói với em gái- rằng khi anh chết, chỉ có những người bạn được đứng cạnh quan tài, cấm lũ người tò mò thóc mách. Hãy để ý đừng cho một linh mục hay bất cứ ai khác, thốt những lời bá láp bên mồ anh, khi anh không còn thể tự bảo vệ, hãy để anh đi xuống mồ nguyên vẹn là một đứa vô thần chân chính” (Nietzsche, con người cô đơn, tr. 65). Nhưng rồi chàng đã bình phục và tang lễ bi hùng đành phải hoãn lại. Từ trận ốm ấy, chàng đâm ra yêu sức khoẻ và mặt trời, yêu đời và tiếng cười và vũ điệu, yêu “âm nhạc miền Nam” của Carmen; cũng từ trận ốm ấy nẩy sinh rằng một ý chí mãnh liệt hơn, do cuộc chiến đấu với tử thần, một “tiếng ừ” cảm nhận vị ngọt ngào của sự sống ngay cả trong niềm cay đắng nhọc nhằn. Và có lẽ cũng từ trận ốm kia nẩy sinh ra một nỗ lực đáng thương của chàng để vươn đến chỗ giới hạn tự nhiên, chấp nhận số phận con người. “Công thức của tôi về sự vĩ đại là Amor fati (thuận mệnh): không những chỉ chịu đựng mọi điều không thể tránh, mà còn yêu thương nó”. Khốn nỗi, việc ấy nói dễ hơn làm.
Những nhan đề các tác phẩm sau đó của Nietzsche -Bình minh (The Dawn of Day, 1881) và Trí tuệ hân hoan (The Joyful Wisdom, 1882) phản ảnh của một giai đoạn bình phục đầy tri ân, ở đây ta đọc thấy một giọng điệu từ tốn hơn, một lời lẽ hoà nhã hơn trong những tác phẩm về sau. Bấy giờ chàng có một năm trời với những ngày êm lặng, sống đạm bạc với số tiền phụ cấp của Đại học viện. Nhà triết học kiêu hãnh của chúng ta cũng có thể lụy trong một cơn yếu đuối ngộ nghĩnh: đùng một cái, chàng đâm ra si tình. Nhưng Lou Salomé không đáp lại tình yêu của chàng; chàng có đôi mắt quá sắc và sâu, không làm người ta thoải mái. Paul Rée ít nguy hiểm hơn, và đã đóng vai trò bác sĩ Pagello cho De Musset là Nietzsche. Nietzsche thất vọng bỏ ra đi, vừa đi vừa sáng tác những châm ngôn phản đối phụ nữ. Trong thực tế, chàng vốn thật thà; nồng nhiệt, lãng mạn, hiền lành đến độ đơn sơ chất phác; sự tuyên chiến của chàng đối với tính mềm yếu chính là một cố gắng để xua đuổi một đức hạnh đã đưa chàng đến chỗ thất vọng chua chát và gây một vết thương không bao giờ lành.
Bấy giờ đối với chàng, cô đơn mấy cũng không vừa: “Thật khó sống với người; vì im lặng thật khó khăn” (Zarathustra, tr. 212). Chàng đi từ Ý đến những miền cao của dãy Alpen ở Sils Maria trong vùng Upper Engadine, -không yêu đàn ông cũng như đàn bà, và cầu nguyện cho con người có thể siêu việt. Ở đấy trên những miền cao cô quạnh, cảm hứng cho tác phẩm vĩ đại nhất đã đến với chàng.
Tôi ngồi đây chờ đợi – chờ đợi hư vô
Đã vượt ngoài thiện ác, bây giờ tôi thưởng thức
ánh sáng rồi bóng râm; chỉ có
ngày, hồ, ban trưa, thời gian vô tận.
Nhưng bỗng nhiên bạn hỡi, một đã thành hai,
Và Zarathustra lướt qua cạnh tôi.
(Trong Halévy, 234)
Bây giờ “linh hồn chàng bừng dậy và tràn ngập mé bờ” (Zarathustra, 315). Chàng đã tìm ra một thầy mới – Zoroaster; một Thượng đế mới – Siêu nhân; và một tôn giáo mới – Sự vĩnh viễn phục hồi. Bây giờ chàng phải hát ca triết học vươn lên thành thi ca dưới một bài ca, và sẽ hát, dù tôi đang cô quạnh trong một ngôi nhà trống rỗng, và phải hát bài ca ấy cho chính lỗ tai tôi nghe” (Zarathustra, 279). “Hỡi vì sao vĩ đại ! – Hạnh phúc của ngươi sẽ là cái gì nếu không có những người ngươi chiếu cho ánh sáng ? … Này ! Ta đang mỏi mệt chán chường về sự minh triết của ta, cũng như con ong đã hút quá nhiều mật ngọt; ta cần những bàn tay với đến xin đòi” (Zarathustra, 1). Bởi thế chàng viết Lời Zarathustra và hoàn tất nó vào “giờ linh thiêng khi Richard Wagner trút linh hồn ở Venice”. Đấy là lời đáp mỹ lệ của chàng trả lời Parsifal; nhưng tác giả Parsifal đã chết.
Đấy là tuyệt tác của Nietzsche, và chàng cũng biết thế. Sau này chàng đã viết về nó:”Tác phẩm này đứng một mình một cõi. Đừng để chúng ta nhắc đến những thi sĩ trong cùng một hơi; có lẽ chưa từng có cái gì đã được sáng tạo từ một mãnh lực tràn trề đến thế … Dù cho tất cả sự hăng hái và sự tài hoa của mọi tâm hồn lớn đều tụ lại, cũng không thể sáng tạo nên chỉ một bài duy nhất trong những bài giảng của Zarathustra”. Hơi quá đáng đấy, nhưng chắc chắn đấy là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của thế kỷ 19. Tuy nhiên Nietzsche đã qua một giai đoạn cay chua để ấn loát nó; phần đầu bị đình trệ vì nhà in của nhà xuất bản bận in một món hàng đặt cọc gồm 500 000 quyển thánh ca, rồi tiếp đó lại bận in một loạt những tập nhỏ chống Do Thái; và người xuất bản không chịu in phần cuối cùng nên tác giả đành phải bỏ tiền ra ấn hành phần ấy. Quyển sách bán được bốn mươi bản; bảy cuốn được đem phân phát; người ta ghi nhận nó, không ai tán dương nó. Chưa ai từng cô đơn đến thế.
Zarathustra, 30 tuổi, hạ sơn từ đỉnh núi tư duy để thuyết giáo trước quần chúng, như người tiên phong của ông ở Ba-tư là Zoroaster; nhưng đám đông đã quay đi chỗ khác để nhìn một trò biểu diễn người đi trên dây. Người biểu diễn này té chết, Zarathustra vác y lên vai mang đi; “bởi vì anh đã lấy nguy hiểm làm nghề nghiệp, nên tôi sẽ chôn anh với chính tay mình”. “Hãy sống nguy hiểm”, chàng thuyết giáo. “Hãy dựng những đô thị của các người bên cạnh núi lửa Vesuvius. Hãy đưa những chiếc tầu của các người đến những vùng biển chưa thám hiểm. Hãy sống trong tình trạng chiến tranh”.
Và hãy nhớ vứt bỏ đức tin. Zarathustra hạ sơn gặp một ẩn sĩ già nói với chàng về Thượng đế. “Nhưng khi Zarathustra ở một mình, chàng tự nhủ rằng :”Có thể nào như thế được chăng ? Ông thánh già này ở trong khu rừng chưa nghe gì về chuyện Thượng đế đã chết à !” *) [(*) ám chỉ tác phẩm Goetterdaemerung – Hoàng hôn của Thượng đế – của Wagner ]. Song dĩ nhiên là Thượng đế đã chết, tất cả các Thượng đế đều đã chết cả rồi.
Vì những Thượng đế cổ lổ đã chấm dứt từ lâu. Và chính thế, đấy là một chấm dứt tốt đẹp và hân hoan của những vì Thượng đế !
Không phải họ chết mà vẫn lai vãng trong hoàng hôn đâu, mặc dù người ta đã nói dối như vậy ! Trái lại, vào một ngày xưa, họ đã cười ngất đến chết !
Việc ấy xảy ra khi mà, chính một vị Thượng đế đã thốt ra lời nói ít-có-vẻ-Thượng-Đế nhất. Lời ấy như vầy: “Chỉ có một Thượng đế ! Trước ta, ngươi sẽ không được có một vì Thượng đế nào khác”.
Khi ấy tất cả các Thượng đế đều cười lớn rũ rượi trong ghế bành của họ mà la lên “Phải chăng Thượng-đế-tính đúng nghĩa là chỉ có những Thượng đế chứ không có một Thượng đế ?”
Ai có tai, hãy lắng mà nghe.
Zarathustra đã nói thế (Zarathustra , 263).
Thật là một vô thần luận khoái hoạt làm sao! “Có phải Thượng-đế-tính như vầy là đúng nhất không: ấy là, không có Thượng đế ?”. “Cái gì có thể được sáng tạo nếu có những Thượng đế ?… Nếu có những Thượng đế, thì làm sao ta chịu được cái chuyện rằng ta không phải là Thượng đế ? Do đó không có Thượng đế nào cả” (Zarathustra, 116-118). “Có ai có nhiều tính chất phi-thượng-đế hơn ta, để ta có thưởng thức những lời dạy ? (Z., 245). “Ta van xin các người, hỡi những huynh đệ của ta, xin các người hãy trung thành với trái đất, và đừng tin tưởng những kẻ nói cho các người nghe về những hy vọng siêu trần ! Họ chính là những kẻ bỏ thuốc độc, dù họ ý thức hay không” (Z., 5). Nhiều kẻ ươn gàn ngày xưa cuối cùng đã trở về với chất thuốc độc ngọt ngào này, cần thiết cho cuộc đời như một thứ thuốc mê. Những “người cao cả” tụ họp trong hang đá của Zarathustra để chuẩn bị đi rao truyền lý thuyết của chàng; chàng từ giã họ một thời gian, và trở về để thấy họ đang thờ phượng một con lừa đã “sáng tạo thế giới theo hình ảnh của mình – nghĩa là, ngu đần hết mức” (Z., 457). Bấy nhiêu đây không khuyến dạy gì; nhưng hãy nghe bản văn sau đó:
“Kẻ nào phải làm một đấng sáng tạo về thiện và ác – đúng thế, kẻ ấy phải trước hết là một thần phá hoại, đập tan những giá trị cho rời rã.
Như vậy, cái cực ác là một phần của cái cực thiện. Nhưng cái thiện này là cái thiện đầy sáng tạo.
Hãy nói về điều ấy, hỡi những người minh triết, dù nó có xấu xa bao nhiêu nữa. Im lặng là điều tệ hơn; mọi chân lý không-được-nói-ra đều trở thành độc hại.
Và dù cái gì sẽ đập tan những chân lý chúng ta, cứ để cho nó đập tan ! Còn nhiều ngôi nhà cần xây dựng.
Zarathustra đã nói thế !” (Z., 162)
Có phải lời này bất kính không ? Nhưng Zarathustra phàn nàn rằng “không còn ai biết cách sùng kính như thế nào cả” (Z.,354) và chàng tự gọi mình là “người kính tin nhất trong những người không tin Thượng đế”. Chàng khao khát niềm tin và xót thương “tất cả những kẻ, như ta đã khổ vì nỗi ghét thù lớn rộng, những kẻ đã thấy rằng Thượng đế cũ đã chết mà chưa có một Thượng đế mới nào quấn tã nằm trong nôi” (Z., 434). Và đoạn chàng gọi đích danh vị Thượng đế mới:
Tất cả Thượng đế đều chết rồi, bây giờ chúng ta muốn rằng siêu nhân phải sống …
Ta dạy các người siêu nhân. Con người là một cái gì phải được siêu vượt. Các ngươi đã làm gì để vượt trên con người ?
Cái lớn lao trong người là ở chỗ nó là một cây cầu chứ không là một mục đích: cái ta có thể yêu thương nơi con người là ở chỗ nó là một chuyển tiếp và một sự phá huỷ.
Ta yêu những con người không biết sống ra sao trừ phi bằng cách chết, vì họ là những người vượt qua bên kia.
Ta yêu những con người khinh bỉ tất cả bởi vì họ là những người tôn sùng vĩ đại, họ là những mũi tên của sự khao khát bờ bên kia.
Ta yêu những con người không tìm kiếm bên kia những vì-sao một lý do để chết và được hy sinh, mà tự hiến mình cho trái đất để một ngày kia trái đất này có thể trở thành trái đất của siêu nhân …
Đã đến lúc cho người đánh dấu mục tiêu mình. Đã đến lúc cho người dựng mầm cây hy vọng lớn nhất của nó.
Hãy nói ta nghe, hỡi huynh đệ, nếu loài người mà thiếu mục đích, thì phải chăng chính nhân loại của bất thành ?
Tình yêu đối với con người xa xôi nhất vốn cao cả hơn tình yêu đối với láng giềng ngươi” (Z., 108, 419, 5, 8, 11, 79, 80).
Nietzsche dường như thấy trước rằng mọi độc giả sẽ nghĩ chính chàng là siêu nhân; và cố để phòng điều này bằng cách thú nhận siêu nhân chưa ra đời; chúng ta chỉ có thể làm những kẻ dọn đường, làm đất đai thích hợp cho siêu nhân. “Đừng ham muốn gì vượt ngoài khả năng ngươi… Đừng đức hạnh quá mức ngươi có thể, đừng đòi hỏi từ chính ngươi những gì trái ngược với khả tính” (Z., 423 – 6). Không phải dành cho chúng ta cái hạnh phúc mà chỉ siêu nhân mới biết được; mục tiêu tốt nhất của chúng ta là hành động. “Từ lâu ta đã thôi không còn nỗ lực đeo đuổi hạnh phúc mình; bây giờ ta nỗ lực theo đuổi hành động” (Z. 341).
Nietzsche chưa lấy làm đủ với việc sáng tạo Thượng đế theo hình ảnh mình; chàng phải tự làm cho mình bất tử. Sau siêu nhân sẽ đến sự phục hồi vĩnh viễn. Mọi sự sẽ trở về, với chi tiết rõ ràng, và trở về vô số lấn không thể hạn định; ngay cả Nietzsche cũng sẽ trở lại, và Đức quốc này với máu, sắt và tro tàn, và tất cả khổ nhọc của tâm thức con người từ ngu si đến Zarathustra. Đấy là một ý thức ghê gớm, một hình thức ” ừ ” cuối cùng và can đảm nhất, một hình thức chấp nhận cuộc đời; và tuy nhiên làm sao nó không thể là thế ? Những phối hợp khả hữu về thực tại chỉ có hạn, mà thời gian thì vô cùng; một ngày nào đó, không thể tránh, đời sống và vật chất sẽ rơi vào một hình thức hệt như xưa kia chúng đã từng mang, và từ cuộc tái diễn định mệnh ấy, tất cả lịch sử sẽ phải diễn lại quá trình quanh co khúc khuỷu của nó. Tất mệnh thuyết đưa chúng ta đến một ngõ ỷ (ngõ hẹp) như thế. Thảo nào Zarathustra sợ phải nói lên điều này như bài học cuối cùng của chàng; run sợ và thối lui, cho đến khi một tiếng nói thốt ra từ trong chàng: “Con làm sao thế, hỡi Zarathustra ? Cứ nói ra lời của con đi rồi chết !”
V. ĐẠO ĐỨC SIÊU NHÂN
Zarathustra đã trở nên một Thánh kinh đối với Nietzsche mà những sách sau này của chàng đều chỉ là phần luận giải cho nó. Nếu Âu châu không chịu thưởng thức thơ Nietzsche , thì có lẽ sẽ hiểu tản văn của chàng. Sau bài ca của nhà tiên tri, ta thưởng thức đến luận lý của nhà triết học; và có hề gì nếu chính triết gia ấy lại không tin vào luận lý ? Vì đấy ít ra cũng là dụng cụ của sự sáng sủa, nếu không phải là con dấu của chứng cứ.
Bấy giờ chàng cô độc hơn lúc nào hết, vì Zarathustra có vẻ quái lạ ngay cả đối với bạn bè chàng. Những học giả như Overbeck và Burckhardt, những người từng cộng sự với chàng ở Basel và đã hâm mộ cuốn Khai sinh của Bi kịch, bây giờ tiếc thương một nhà ngữ học xuất sắc đã mất, và không thể vui mừng đón một nhà thơ ra đời. Em gái chàng bỗng nhiên bỏ chàng đi kết hôn với một người trong bọn chống Do Thái mà Nietzsche khinh bỉ, và bỏ đi đến tận Paraguay. Nàng mời ông anh xanh xao yếu ớt đi theo, để tốt cho sức khoẻ chàng ; nhưng Nietzsche coi trọng đời sống của tâm thức hơn sức khoẻ thể xác; chàng muốn ở lại nơi có trận chiến; Âu châu đối với chàng cần thiết “như một bảo tàng viện văn hoá” (Figgis, The Will to Freedom). Chàng sống bất thường về chỗ ở và thời gian; Chàng thử ở Thuỵ sĩ, Áo, Genoa, Nice và Turin, chàng thích viết giữa những bầy bồ câu tụ xung quanh những con sư tử ở St. Mark. “Piazza San Marco nầy là phòng làm việc tốt nhất của tôi”. Nhưng chàng đã theo lời khuyên của Hamlet ở ngoài nắng, làm hại đôi mắt đau của chàng, chàng tự giam mình trong những căn gác dơ bẩn không lò sưởi và làm việc sau những tấm màn cửa che kín. Vì mắt kém, từ đấy chàng không viết sách nữa, mà chỉ viết đoản văn.
Nietzsche thâu thập một vài đoạn trong số này với những nhan đề Bên kia Thiện Ác (BKTA – 1886 – Jenseits von Gut und Boese) và Uyên nguyên đạo đức (1887- Zur Genealogie); trong những cuốn này, Nietzsche hy vọng phá tan nền đạo đức cũ, dọn đường cho một nền đạo đức của siêu nhân. Trong một thời gian ngắn, chàng đã thành một nhà ngữ-học trở lại và cố nhấn mạnh nền đạo đức mới của mình bằng những từ ngữ không hẳn là không thể chê trách.
Chàng nhận xét rằng ngôn ngữ Đức có hai tiếng chỉ nghĩa “xấu” – schlecht và boese -. Schlecht được hạng người thượng lưu dùng để nói người dưới và có nghĩa “thường”, “thông tục”, về sau nó trở nên có nghĩa tầm thường, vô giá trị, xấu. Boese được người dưới dùng nói đến hạng người trên, có nghĩa không quen thuộc, bất thường, không tính được, nguy hiểm, tai hại, tàn bạo: Napoléon là boese. Nhiều người mộc mạc sợ cá nhân phi thường như một sức phân hoá; Trung hoa có một ngạn ngữ rằng : “Vĩ nhân là một mối hoạ công cộng. “Cũng thế, gut có 2 nghĩa, tương phản với schlecht và boese: Do quí tộc dùng, nó có nghĩa mạnh, can đảm, hùng, thiện chiến, thánh thiện (gut từ chữ Gott -thượng đế, thần thánh-); do người thường dùng, nó có nghĩa quen thuộc, thanh bình, vô hại, tử tế. Thế là ở đây có hai cách tương phản để định giá trị hành vi con người, hai lập trường và tiêu chuẩn đạo đức, một nền đạo đức của ông lớn (Herren-moral) và một nền đạo đức của bầy lũ (Herden-moral), nền đạo đức của chủ nhân và đạo đức của nô-lệ; Nền đạo đức trước là tiêu chuẩn được công nhận thời cổ điển, nhất là giữa những người La-Mã; ngay cả đối với người La Mã tầm thường, đức hạnh là virtus -hùng tính, can đảm, liều lĩnh, bạo dạn. Nhưng từ Á châu, và nhất là từ những người Do Thái vào thời họ bị lệ thuộc chính trị, nẩy sinh rằng tiêu chuẩn thứ hai; Sự lệ thuộc đẻ ra tính khiêm nhường. Sự vô vọng đẻ ra lòng vị tha – vốn là một lời kêu gọi giúp đỡ.
Dưới nền đạo đức bầy cừu này, lòng yêu chuộng hiểm nguy và quyền lực nhường chỗ cho sự yêu thích bình an, bảo đảm; sức mạnh bị thay bằng lanh khôn, sự phục thù công khai thay bằng lén lút, sự cứng rắn bằng lòng trắc ẩn, sáng tạo bằng lằn roi của lương tâm. Danh dự là vô thần, phong kiến quý tộc; lương tâm là Ki-tô, trưởng giả, dân chủ. Chính tài hùng biện của những tiên tri, từ Amos đến Jesus, đã làm cho quan niệm về một giai cấp lệ thuộc trở thành hầu như một nền đạo đức phổ quát: “thế tục” và “xác thịt” trở thành đồng nghĩa với xấu xa, và sự nghèo kém thành ra một chứng từ của đức hạnh.
Lối đánh giá này đã được Jesus đem đến tột đỉnh: với ông, mọi con người có giá trị ngang nhau, và có những quyền ngang nhau; từ lý thuyết ông, nảy sinh ra dân chủ, thực dụng lý thuyết, xã hội chủ nghĩa; tiến bộ bây giờ được định nghĩa theo những thứ triết lý của hạng bình dân, theo sự bình đẳng hoá và tầm thường hoá, theo sự suy đồi và sinh hoạt đi xuống. Giai đoạn cuối cùng trong vận suy vi là sự tán dương lòng trắc ẩn và đức hy sinh, sự an ủi những tội nhân một cách đầy tình cảm, “sự vô năng của một xã hội trong việc bài tiết”. Cảm tình chỉ chính đáng khi nó tích cực; nhưng lòng trắc ẩn là một xa xỉ phẩm tinh thần có tính cách làm tê liệt, một sự phung phí tình cảm đối với hạng người bất tài, hạng khiếm khuyết, hạng xấu xa, hạng người đau ốm một cách tội lỗi và hạng tội nhân không thể cứu vãn. Có một cái gì thiếu tế nhị và có tính cách xâm phạm trong lòng trắc ẩn; sự “đi thăm kẻ ốm” là một kích thích của lòng tự tôn trong việc thưởng ngoạn cảnh vô vọng của kẻ láng giềng mình.
Đằng sau tất cả nền “Đạo đức” ấy là một ước muốn thầm kín đối với quyền lực. Tình yêu chính nó chỉ là một ham muốn chiếm hữu. Sự tán tỉnh là trận chiến và kết đôi bạn là làm chủ: Don José giết Carmen để nàng khỏi trở thành sở hữu của một kẻ khác. “Người ta tưởng tượng rằng họ không ích kỷ trong tình yêu bởi vì họ đi tìm lợi ích cho một người khác, thường xung nghịch với lợi ích của riêng họ. Nhưng khi làm thế họ muốn chiếm hữu người kia.. Tình yêu, trong tất cả loại tình cảm là thứ tình vị kỷ nhất và bởi thế, khi tình yêu bị thương tổn, nó trở thành ít độ lượng nhất”. Ngay cả trong tình yêu chân lý cũng có cái ham muốn chiếm hữu, có lẽ ham muốn làm người sở hữu chủ đầu tiên của chân lý, người đầu tiên tìm thấy nó còn nguyên vẹn. Khiêm cung là cách tô màu để che chở cho ý chí quyền lực.
Đối với lòng ham mê quyền lực này, lý trí và đạo đức trở thành vô vọng; chúng chỉ là khí giới trong tay nó, làm mồi cho trò chơi của nó. “Các hệ thống triết học là những ảo ảnh chói loà, cái gì ta thấy được không phải là chân lý bấy lâu tìm tòi, mà chỉ là phản ảnh của những dục vọng của chính chúng ta”. Những triết gia đều làm như thể quan điểm đích thực của họ đã được tìm qua quá trình diễn tiến của một biện chứng lạnh lùng, thuần khiết khách quan một cách thánh thần; … trong khi đó kỳ thực nó là một mệnh đề thiên kiến, một ý nghĩ hay “sự gợi ý”, thường thường là dục vọng của thâm tâm họ được trừu tượng hoá và tinh xảo hoá, và được họ bảo vệ bằng những luận chứng tìm kiếm sau.
Chính những dục vọng hạ tầng này, những nhịp thở của ý chí quyền lực này, đã định đoạt tư tưởng chúng ta. “Phần lớn hành động tri thức của chúng ta diễn tiến một cách vô thức, chúng ta không cảm nhận được … Suy tưởng hữu thức … là phần yếu kém nhất”. Bởi vì bản năng là vận hành trực tiếp của ý chí quyền lực, không bị ý thức quấy rầy, “bản năng là trí thông minh nhất trong tất cả loại trí thông minh đã được tìm ra từ trước đến nay”. Quả vậy, vai trò của ý thức đã được đánh giá quá đáng một cách ngu ngốc. “Có thể xem ý thức là phụ thuộc, hầu như không đáng quan tâm, thừa thãi; có lẽ phải biến mất để thay thế bằng sự tự động hoàn toàn”.
Nơi người mạnh, có rất ít cố gắng để che dấu dục vọng dưới lớp áo của lý trí; luận cứ giản dị của họ là “tôi muốn”. Trong hùng tính chưa bị hư hỏng của tâm hồn chủ-nhân-ông, ước muốn biện minh cho chính nó; và lương tâm, trắc ẩn hay hối hận không thể lọt vào. Nhưng từ trước tới nay quan điểm Do-thái-Ki-tô-dân-chủ vẫn thịnh hành đến nỗi những người hùng mạnh bây giờ lại hổ thẹn vì sự hùng mạnh và sức khoẻ của mình, và bắt đầu tìm “lý do”. Những đức hạnh và giá trị quý tộc đang chết dần chết mòn. “Âu châu đang bị đe doạ bởi một nền Phật giáo mới”; ngay cả Schopenhauer và Wagner cũng trở thành những Phật tử đầy lòng trắc ẩn. “Toàn thể đạo đức của Âu châu đều dựa trên những giá trị chỉ có ích cho bầy lũ “. Những người mạnh không còn được phép thi thố sức mạnh của mình, họ sẽ trở thành càng giống với những người yếu càng tốt; “thiện là không làm cái gì mà ta không đủ mạnh để làm”. Há Kant, “chú Chệt vĩ đại của thành Koenigsberg” kia đã không chứng minh rằng không bao giờ được sử dụng con người như những phương tiện ? Kết quả là những bản năng của người mạnh: săn bắn, chiến đấu, chiếm đọat và thống trị đều bị lật lộn vào bên trong, trở thành sự tự dằn xé vì không có lối thoát; những bản năng ấy sinh ra tánh khổ hạnh và ép xác và “lương tâm cắn rứt”, “tất cả mọi bản năng không tìm được một lối thoát tràn ra ngoài thì đều quay trở vào trong – đấy là ý nghĩa tôi muốn nói về tình trạng tự xoay về bên trong của con người: ở đây chúng ta có hình thức đầu tiên của cái sẽ được gọi là linh hồn” (Bi Kịch, 128, 14, 177).
Công thức của sự đồi truỵ là: những đức hạnh thuộc riêng của bầy nhóm bị nhiễm sang người lãnh tụ, và nhào nặn họ thành ra thứ đất sét thông thường “Những hệ thống đạo đức phải bị bắt buộc trước hết là cúi mình trước những cấp bực, lòng kiêu căng của họ phải bị tội về lương tâm họ – cho đến khi cuối cùng họ hoàn toàn hiểu rằng cái quan niệm theo đó”, cái gì đúng cho một người thì cũng đúng cho một người khác “là một quan niệm vô luân”. Những vai trò khác nhau đòi hỏi những đức tính khác nhau; và những tính ” ác ” của người mạnh cũng cần thiết trong xã hội như những tính ” thiện ” của kẻ yếu. Sự khắc nghiệt, bạo động, nguy hiểm, chiến tranh, đều giá trị ngang với tử tế; hoà bình; những cá nhân vĩ đại chỉ xuất hiện vào những thời nguy hiểm bạo động và tất yếu phũ phàng. Điều tốt nhất trong con người là sức mạnh của ý chí, quyền lực và sự trường cửu của đam mê, không đam mê con người chỉ là cục bơ, không thể hành động. Thèm muốn, ganh ty., ngay cả thù ghét nữa, đều là những yếu tố cần thiết trong quá trình tranh đấu đào thải và sống còn. Ác đối với thiện cũng như sự canh tân đối với cổ tục; không có sự phát triển nếu không có một vi phạm gần như tội lỗi đối với những tiền lệ và “trật tự”. Nếu sự ác độc mà không tốt thì nó đã bị đào thải rồi. Chúng ta phải coi chừng đừng quá tốt; “con người phải trở nên tốt hơn và độc ác hơn”.
Nietzsche rất được an lòng để thấy nhiều độc ác và tàn nhẫn trên thế giới, chàng cảm thấy một khoái lạc tàn bạo khi suy nghiệm về cái mức độ mà, theo Nietzsche “sự tàn bạo đã làm nên niềm hân hoan và lạc thú lớn lao nơi người cổ đại” và chàng tin rằng lạc thú của chúng ta trong bi kịch, hay trong bất cứ gì cao cả; là một sự tàn bạo tinh vi. “Người ta là con vật tàn bạo nhất” Zarathustra nói. “Khi xem những bi kịch, cảnh đấu bò mộng và đóng đinh, nó cảm thấy hạnh phúc hơn lúc nào cả từ trước tới nay ở trần thế. Và khi nó đặt bày (bày đặt ?) ra địa-ngục …thì kia, địa ngục là thiên đàng của nó trên trần gian”; bây giờ nó có thể chịu đựng khổ đau, bằng cách thưởng ngoạn hình phạt vĩnh viễn của những kẻ đàn áp nó ở bên kia thế giới.
Nền đạo đức tối hậu là sinh vật học; chúng ta phải phân đoán sự vật tuỳ theo giá trị sống của chúng; chúng ta cần “định lại tất cả các giá trị” theo sinh lý học. Trắc nghiệm thực sự về một người, hay một nhóm, hay một loài, chính là năng lượng, khả năng, quyền lực. Chúng ta có thể dung hoà phần nào với thế kỷ XIX ở chỗ nó nhấn mạnh trên yếu tố vật lý. Linh hồn là một nhiệm vụ của cơ thể. Chỉ một gịot máu thừa hay thiếu trong não đều có thể làm cho con người đau đớn hơn cả Prométhée đau vì con kên-kên. Những thức ăn khác nhau có những tác dụng tinh thần khác nhau: gạo dành cho Phật giáo; và siêu hình học Đức là hậu quả của bia. Bởi thế một nền triết học đúng hay sai tuỳ thuộc ở chỗ nó biểu trưng, tán dương cuộc sống thăng tiến hay lụn bại. Người lụn bại nói: “Cuộc đời không có giá trị gì cả” đáng lẽ nó nên nói :”Tôi không có giá trị gì cả”. Tại sao cuộc đời lại đáng sống khi tất cả những giá trị bi hùng trong đó đã được để cho tàn lụn và thuyết dân chủ -nghĩa là không tin vào tất cả những con người vĩ đại – dần dần cứ mỗi mười năm lại phá hoại một dân tộc ?
Con người Âu châu ưa hợp quần ngày nay có thể làm bộ như y là loại người chánh đáng độc nhất : y tán dương những đức tính của mình như tinh thần công cộng, lòng tử tế, kính nhường, siêng năng cần mẫn, điều độ, khiêm tốn, khoan hồng, thiện cảm – do những đức tính ấy, y là người lịch sự, chịu đựng, và ích lợi cho bầy nhóm – xem như những đức hạnh đặc biệt người. Tuy nhiên, khi người ta tin tưởng rằng người lãnh đạo và đầu đàn không thể thiếu, người ta đã làm hết thử thách này đến thử thách khác để thay thế những người điều khiển bằng sự triệu tập những người ưa hợp quần khôn khéo: Tất cả những hiến pháp đại nghị, chẳng hạn, đều có nguồn gốc này. Dù sao, thật là một điều đại hạnh, một sự giải thoát khỏi một gánh nặng đã trở thành không thể chịu đựng, khi có một người xuất hiện để thống trị những người Âu châu hợp quần này. Tác dụng của việc Napoléon xuất hiện là bằng chứng lớn lao cuối cùng cho sự kiện này: lịch sử của ảnh hưởng Napoléon hầu như là lịch sử của niềm hạnh phúc cao vượt mà toàn thế kỷ này đã đạt được trong số những cá nhân và những giai đoạn giá trị nhất của nó.
VI. SIÊU NHÂN
Cũng như đạo đức không phải ở nơi lòng tử tế mà ở sức mạnh, mục đích của nỗ lực con người không phải là nâng cao tất cả phát triển những cá nhân mạnh và tinh tuý. “Không phải nhân loại, mà siêu nhân mới là cùng đích”. “Cải thiện nhân loại” sẽ là việc cuối cùng cho một người có lương tri làm: nhân loại không cải thiện được, lại cũng không có nhân loại nữa – đấy là một khái niệm trừu tượng; tất cả những gì tồn tại chỉ là một tổ kiến người bao la. Cảnh diện toàn thể rất giống cảnh một cơ xưởng thí nghiệm khổng lồ nơi đó một vài đồ vật thành công trong mọi thời đại, trong khi phần lớn đều thất bại: và mục đích của mọi cuộc thí nghiệm không phải là hạnh phúc của quần chúng mà sự cải thiện mẫu mực. Chẳng thà những xã hội chấm dứt đi, còn hơn là không có một mẫu người cao cả nào xuất hiện. Xã hội là một khí cụ để làm tăng giá trị cho quyền lực và nhân cách của cá nhân; bầy nhóm tự nó không phải là cứu cánh. “Thế thì những máy móc để làm gì, nếu tất cả cá nhân chỉ được dùng để duy trì chúng ? Nếu máy móc – hay tổ chức xã hội – tự chúng là cứu cánh, thì điều ấy có phải là một hài kịch hay không ?
Ban đầu Nietzsche nói như thể đặt hy vọng vào sự sản xuất một nòi giống mới; về sau chàng lại nghĩ đến siêu nhân của mình như là cá nhân siêu đẳng vươn lên -một cách tình cờ- từ đám bùn lầy của sự tầm thường quần chúng, và sự tồn tại của siêu nhân này nhờ nhiều ở việc nuôi nấng dạy dỗ cẩn thận tỉ mỉ hơn là ở những rủi may của luật đào thải tự nhiên. Bởi vì quá trình sinh vật học có khuynh hướng chống lại cá nhân phi thường; thiên nhiên tàn bạo nhất đối với những sản phẩm tinh xảo nhất của nó; nó yêu nhiều hơn, và che chở cho những kẻ trung bình và tầm thường; trong thiên nhiên có một khuynh hướng vĩnh viễn trở lại với mẫu mực, với người trung bình, đám đông luôn luôn chế ngự những phần tử anh hoa phát tiết. Siêu nhân chỉ có thể sống sót bằng sự đào thải nhân văn, bằng viễn tượng cải thiện nòi giống và bằng một nền giáo dục cao quý.
Dù thế nào đi nữa, thật phi lý vô cùng, nếu để cho những cá nhân cao vượt kết hôn vì tình -những anh hùng mà cưới tôi tớ, những thiên tài kết hôn với những chị ba thợ may. Schopenhauer đã sai lầm, tình yêu không có tính cách cải thiện giống nòi; khi một người đàn ông đang yêu, không nên để cho y được làm những quyết định có ảnh hưởng đến cả đời y; không có chuyện một người vừa yêu mà vừa minh mẫn khôn ngoan được. Chúng ta cần phải tuyên bố vô giá trị những lời ước nguyện của những cặp tình nhân, và phải làm tình yêu trở thành một trở ngại hợp pháp cho hôn phối. Những người tốt nhất phải chỉ cưới những người tốt nhất; tình yêu nên để dành cho bọn tầm thường. Mục đích của hôn nhân không phải chỉ là tái sản xuất, nó còn phải là sự phát triển .
“Ngươi còn trẻ, và mong có con và kết hôn. Nhưng ta hỏi người, ngươi có phải là một người dám mong mỏi một đứa con chăng ? Ngươi có phải người quang vinh, người tự-hàng-phục, người điều khiển được những giác quan mình, chủ nhân của những đức hạnh mình ? Hay là trong ước muốn của ngươi, chính con vật đang nói, nhu cầu xác thịt đang nói ? Hay cảnh cô đơn ? Hay nỗi bất hoà với chính ngươi ? Ta mong rằng chính sự quang vinh và tự do của người đang mong mỏi một đứa con. Ngươi sẽ xây dựng những đài kỷ niệm sống cho sự quang vinh và giải phóng của ngươi. Ngươi sẽ xây dựng ở bên ngoài ngươi. Nhưng trước hết ngươi phải tự xây dựng chính ngươi cho được quân bình chính trực, về thể xác lẫn linh hồn. Ngươi sẽ không những tái tạo chính ngươi mà còn phải tái tạo những đứa con vượt trên ngươi ! Hôn phối: ta gọi đó là ý chí của hai người để sáng tạo một người thứ ba còn tốt đẹp hơn những kẻ đã tạo nên nó. Ta gọi hôn phối là sự kính trọng lẫn nhau cũng như kính trọng đối với những người có một ý chí như thế” (Zarathustra đã nói thế).
Không có dòng dõi tốt thì không thể có sự cao cả. “Chỉ tri thức mà thôi không làm nên sự cao quý; trái lại, luôn luôn cần có một yếu tố để làm cho tri thức cao quý. Yếu tố ấy là gì ? Dòng máu …” Nhưng đã có dòng giống tốt và sự nuôi dưỡng cải thiện, yếu tố tiếp theo trong công thức của siêu nhân là một trường học nghiêm khắc; ở đấy đòi hỏi sự hoàn thiện như một lẽ tự nhiên, không đáng khen ngợi nữa; ở đấy sẽ có ít tiện nghi và nhiều trách nhiệm; ở đấy thể xác sẽ được dạy cho chịu đựng đau đớn trong im lặng, và ý chí có thể tập vâng lời và điều khiển. Không có sự phóng túng vô nghĩa ! Không có sự làm suy nhược thể chất và tâm hồn bằng khoan hồng và “tự do” ! Tuy nhiên đấy là một ngôi trường ở đó người ta học cười một cách hăng hái; triết gia sẽ được đánh giá tuỳ theo khả năng cười; “kẻ nào đã sải bước băng qua những ngọn núi cao nhất sẽ cười trước tất cả mọi bi kịch”. Và sẽ không có chất a-xít trong nền giáo dục siêu nhân này; một trường khổ hạnh của ý chí, nhưng không lên án xác thịt. “Chớ dừng vũ điệu, hỡi những cô gái dịu dàng ! Không có kẻ phá đám nào đến với các cô bằng một con mắt độc ác …, không có kẻ thù cho những cô gái có đôi gót đẹp”. Ngay cả một siêu nhân cũng được quyền thưởng thức những cặp gót đẹp.
Một con người được sinh ra và nuôi dạy như thế sẽ đứng ngoài thiện ác; chàng sẽ không ngần ngại “Ác” (boese) nếu mục đích của chàng đòi hỏi; chàng sẽ can đảm hơn là thiện, “Thiện là gì ? … Can đảm chính là thiện”. “Thiện là gì? Tất cả những gì tăng trưởng cảm thức quyền lực, ý chí quyền lực, chính quyền lực, ở trong người. Ác là gì ? Là tất cả những gì sinh ra từ sự yếu hèn”. Có lẽ đặc điểm trỗi bật của siêu nhân là lòng yêu thích nguy hiểm và tranh đấu, miễn là có một mục đích: siêu nhân sẽ không tìm kiếm an ninh trước hết; chàng sẽ để dành hạnh phúc lại cho số đông. “Zarathustra ưa thích tất cả những gì làm nên những cuộc viễn du, và không thích sống thiếu hiểm nghèo”. Do đó mọi chiến tranh đều tốt, bất chấp cái ti tiện tầm thường của những nguyên nhân gây ra nó vào thời đại này; “một cuộc chiến tranh tốt đẹp sẽ thần thánh hoá mọi nguyên nhân”. Ngay cả cách mạng cũng tốt: không phải tốt trong tự nó, vì không gì có thể bất hạnh hơn ưu thế của đám đông; nhưng bởi vì những giai đoạn đấu tranh sản ra tính cách vĩ đại tiềm tàng của những cá nhân mà trước đấy đã không có đủ cơ hội hay động cơ thúc đẩy; từ những chuyến hỗn loạn như thế nổi bật lên ngôi sao sáng; từ cảnh náo động và vô nghĩa của Cách mạng Pháp, có Napoléon; từ cảnh bạo động, vô trật tự của thời Phục hưng, nổi lên những cá nhân hùng mạnh, nhiều như Âu châu chưa từng thấy, và đến độ không thể chịu đựng.
Nghị lực, tri thức và lòng kiêu hãnh, -những yếu tố ấy làm nên siêu nhân . Nhưng chúng phải được điều hoà, những đam mê chỉ sẽ trở thành quyền lực khi chúng được đào thải và thống nhất bằng một mục đích lớn lao đúc kết một đám dục vọng hỗn độn thành ra quyền lực của một nhân cách. “Thảm thương thay cho nhà tư tưởng không phải là người làm vườn mà chỉ là đất cho cây của ông !”. Ai là người tuân theo những bản năng của mình ? Chính kẻ yếu đuối: y thiếu năng lực cấm đoán, y không đủ mạnh để nói không, y là một kẻ lỗi điệu, một kẻ suy vi. Tự khép mình vào kỷ luật – đấy là điều cao cả nhất. “Nếu người không muốn mình chỉ là một phần tử của đám đông, thì chỉ cần đừng dễ dãi với chính mình”. Có một mục đích vì đó ta có thể cứng rắn với người khác, nhưng trên tất cả, cứng rắn với chính mình; có một mục đích vì đó ta sẽ làm hầu hết bất cứ gì trừ ra phản bội một người bạn – đấy là bảo chứng cuối cùng của sự tôn quý, công thức cuối cùng của siêu nhân.
Chỉ bằng cách hướng về một con người như thế xem như mục đích và phần thưởng cho khổ nhọc, ta mới có thể yêu thương cuộc đời và sống hướng thượng. “Chúng ta phải có một mục đích mà vì đó tất cả chúng ta đều quý mến nhau”. Chúng ta hãy cao cả, hãy làm kẻ tôi tớ, khí cụ cho những vĩ nhân. Thật là một cảnh tượng tốt khi hàng nghìn người Âu châu tự biến mình như phương tiện cho những mục đích của Bonaparte, và vui vẻ chết cho người, vừa hát tên người khi gục ngã! Có lẽ những người hiểu biết ở trong chúng ta có thể trở nên những kẻ phát ngôn cho người, mà chúng ta không thể làm, và có thể dọn đường cho người đến; chúng ta, bất kể ở miền đất nào, bất kể thời gian, có thể cùng làm việc cho mục đích ấy, dù có cách xa nhau bao nhiêu, Zarathustra sẽ hát, ngay cả trong cơn đau đớn, nếu người có thể nghe chỉ tiếng nói của những người hỗ trợ thầm kín kia, những người yêu Siêu nhân. “Hỡi các người cô đơn hôm nay, những người đứng riêng rẽ, các người một ngày kia sẽ là một dân tộc; từ các người những người đã tự chọn mình, một dân tộc chọn lọc sẽ khởi sinh; và từ dân tộc ấy sẽ sinh khởi siêu nhân.
VII. SUY TÀN
Kết quả là con đường đưa đến siêu nhân phải băng qua quý tộc. Dân chủ – “chứng tật ưa đếm đầu người” – cần phải bị nhổ tận gốc trước khi quá muộn. Bước đầu tiên ở đây là sự phá huỷ Ki-tô giáo về phương diện liên can đến mọi người cao cả. Chiến thắng của Ki-tô giáo là khởi đầu của dân chủ; “người Ki-tô giáo đầu tiên là một kẻ phản loạn – trong bản năng sâu thẳm nhất của y đối với mọi sự được ưu thế đặc quyền; y sống và tranh đấu không ngừng cho “bình quyền”; vào thời tân tiến đáng lẽ phải gửi y đến Tây-bá-lợi-á (Sibirie). “Kẻ nào vĩ đại nhất trong các ngươi, hãy để kẻ ấy phụng sự ngươi” – đây là đảo ngược của tất cả trí khôn chính trị, của mọi sự lành mạnh; quả thế, khi đọc thánh kinh tân ước ta cảm thấy bầu không khí của một tiểu thuyết Nga, một thứ đạo văn của Dostoievski. Những quan niệm như thế chỉ phát xuất giữa những bọn thấp hèn và chỉ vào một thời đại mà những người thống trị đã suy đồi không còn thống trị được nữa. “Khi Neron và Caralla ngự trên ngai, điều mâu thuẫn phát sinh là: người thấp hèn nhất có giá trị hơn người ở trên tột đỉnh”.
Cũng như sự việc Ki-tô giáo xâm chiếm Âu châu chấm dứt nền quý tộc cổ đại, những bá tước thiện chiến Teutonic (Nhật nhĩ man) thống trị Âu châu đã phục hồi những đức hạnh hùng tính của thời xưa, và trồng gốc rễ cho nền quý tộc tân tiến. Những người nầy không nặng lòng với “đạo đức”, họ “giải thoát khỏi mọi kiềm thúc xã hội; trong tính chất phác của lương tâm dã thú họ trở về như những quỷ dữ hân hoan từ một cuộc chém giết ghê gớm, đốt nhà, hãm hiếp, tra tấn, với một lòng kiêu ngạo và an ổn như thể họ vừa thi hành chỉ một vụ phá phách kiểu học trò”. Chính những người như thế đã cung cấp tầng lớp thống trị cho Đức, Na Uy, Pháp, Anh, Ý và Nga.
“Một bầy những con mãnh thú có tóc hung, một giòng dõi thống trị và chủ nhân, với tổ chức quân sự, với năng lực tổ chức, không ngần ngại đặt những móng vuốt dễ sợ lên trên một quần chúng có lẽ vô cùng cao hơn về số lượng,… đám đông ấy lập nên quốc gia. Giấc mộng được xua đuổi, làm cho quốc gia khởi sự bằng một khế ước. Con người ấy cần gì đến khế ước khi nó có thể lãnh đạo, khi tự bản chất đã là chủ, người xuất hiện bằng sức mạnh trong hành vi và cốt cách ?”
Dòng dõi ngự trị huy hoàng này đã bị làm hỏng trước hết bởi sự tán dương của Công giáo về những đức hạnh đàn bà, thứ đến bởi những lý tưởng của Thanh giáo và của hạng tiện dân trong thời cải cách, thứ ba là bởi sự hôn phối với dòng giống hạ lưu. Hệt như Công giáo chín mùi thành nền văn hoá phi luân, quý tộc của thời Phục hưng. Thời cải cách đã chà đạp nó với việc làm sống lại sự nghiêm trọng khắt khe của Do thái. “Cuối cùng có ai hiểu không, có ai muốn hiểu Phục hưng là gì không ?(*) [(*) Rốt cục có ai hiểu, dù muốn hiểu, Phục hưng là cái gì ? -dịch theo bản tiếng Đức – chú thích của người đánh máy-]. Sự đánh giá lại những giá trị Ki-tô giáo, sự cố gắng bằng mọi phương thế, mọi bản năng và mọi thiên tài để tạo nên những giá-trị-đối-lập, những giá trị cao quý chiến thắng … Tôi thấy trước mắt một trường hợp khả hữu hoàn toàn ảo thuật với màu sắc chói sáng và vẻ mê hồn của nó …Ceare Borgia làm giáo hoàng … Các người có hiểu tôi không ?”
Thệ phản giáo và rượu bia đã làm cùn lụt trí thông minh của Đức; bây giờ hãy thêm nhạc kịch Wagner. Kết quả là “Người Phổ ngày nay… một trong những thế lực nguy hiểm nhất của văn hoá “. “Hiện diện của nước Đức làm cho tôi ăn khó tiêu”. “Nếu, như lời Gibbon nói, không có gì ngoại trừ thời gian – dù một thời gian lâu dài – là cần thiết để cho một thế giới tiêu diệt, thì cũng không có gì ngoại trừ thời gian -mặc dù còn lâu dài hơn- là cần thiết để phá huỷ một ý tưởng sai lầm ở Đức quốc”. Khi Đức quốc đánh bại Napoléon, việc ấy tai hại cho văn hoá cũng như khi Luther đánh bại giáo hội, từ đấy Đức quốc dẹp sang bên nhũng Goethe, Schopenhauer và Beethoven của mình để bắt đầu thờ phụng “những kẻ ái quốc”, “Đức quốc trên hết – tôi sợ rằng đấy là chấm dứt của triết học Đức”. Tuy nhiên có một vẻ nghiêm trọng và sâu sắc tự nhiên nơi những người Đức cho chúng ta lý do để hy vọng rằng họ còn có thể cứu chuộc được Âu châu; họ có nhiều hùng tính hơn người Pháp hoặc Anh; họ kiên nhẫn, trì chí, siêng năng – từ đó sinh ra sự uyên bác, khoa học và quân kỷ của người Đức; thật thích thú khi nhìn thấy cả Âu châu lo lắng về quân đội Đức. Nếu năng lực tổ chức của Đức có thể phối hợp với tài nguyên tiềm tàng của Nga, về vật liệu và người, khi ấy sẽ đến thời kỳ chính trị vĩ đại. “Chúng ta cần nuôi dưỡng hai giòng giống Đức và Nga, chúng ta cần những nhà kinh tài khôn khéo nhất – những người Do thái- để có thể trở thành bá chủ thế giới … Chúng ta cần một sự hợp nhất vô điều kiện với Nga sô”. Đằng khác là tình trạng bao vây và bóp chẹt.
Điều đáng ngại với Đức quốc là tính ươn gàn của tâm trí, một cái giá trả cho sự cương nghị trong tính tình. Đức quốc thiếu truyền thống văn hoá lâu dài, cái truyền thống đã làm cho dân tộc Pháp thành dân tộc tinh tế xảo diệu nhất trong tất cả các dân tộc ở Âu châu. “Tôi chỉ tin vào văn hoá Pháp, và tôi xem mọi cái khác ở Âu châu tự cho mình là văn hoá đều là một lầm lẫn”. “Khi đọc Montaigne và Chamfort, ta gần cổ đại hơn với bất cứ nhóm tác giả nào khác ở một quốc gia nào khác”. Voltaire là “một vị chúa tể lớn của tâm trí”; và Taine là “người số một trong số những sử gia đang sống”. Ngay cả những văn sĩ về sau như Flaubert, Bourget, Anatole France, v.v. – đều vượt xa vô tận những người Âu châu khác về tư tưởng và ngôn ngữ sáng sủa – “thật sáng sủa, rõ ràng tinh vi làm sao, những người Pháp ấy !” Tính cách cao quý của mỹ cảm, của cảm thức và phong độ Âu châu đều là công trình của Pháp. Nhưng là của nước Pháp cố cựu, của nước Pháp vào thế kỷ 16 và 17; cuộc cách mạng, với sự phá huỷ nền quý tộc, đã phá huỷ luôn cả bánh xe và trường nuôi dưỡng văn hoá, và bây giờ linh hồn Pháp ốm yếu xanh xao so với những thời xưa cũ. Dù sao, Pháp vẫn còn có vài đức tính tốt đẹp; “ở Pháp hầu hết mọi vấn đề tâm lý và nghệ thuật đều được cứu xét một cách tinh tế và rốt ráo hơn ở Đức vô vàn… Vào chính lúc Đức quốc trổi dậy như một cường quốc trong thế giới chính trị, thì Pháp đã chiếm được địa vị quan trọng mới trong thế giới văn hoá”.
Nga là con vật tóc hung của Âu châu. Dân tộc Nga có một “chủ nghĩa định mệnh ương ngạnh và cam chịu đã đem cho họ ngay cả ngày nay, cái lợi thế hơn những người Tây phương chúng ta”. Nước Nga có một chính phủ hùng hậu, không có “cái ngu xuẩn của nghị viện”. Sức mạnh ý chí đã được tụ tập ở đấy từ lâu đời, và ngày nay đang lăm le tìm chỗ thoát; ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nga trở thành chúa tể Âu châu. “Một nhà tư tưởng cưu mang trong lòng tương lai của Âu châu, sẽ kể đến dân tộc Do thái và Nga – trong tất cả những viễn tượng của ông về tương lai – như những yếu tố có lẽ nhất và bảo đảm nhất trong ván cờ vĩ đại và trong trận tuyến của các lực lượng”. Nhưng nói chung, chính những người Ý là những người sành điệu nhất, hùng mạnh nhất trong các dân tộc hiện hữu; cây-người tăng trưởng mạnh mẽ nhất ở Ý, như Alfieri đã tự hào. Có một cốt cách hùng tính, một niềm kiêu hãnh quý tộc ngay cả người Ý thấp kém nhất; “một anh chèo thuyền Gondola ở Venice luôn luôn là một bóng dáng tốt đẹp hơn một nghị viên cơ mật ở Berlin, và nói cho cùng, là một con người khá hơn”.
Tệ hơn tất cả là những người Anh; chính dân tộc này đã làm hỏng tâm hồn Pháp với ảo tưởng dân chủ; “Bọn coi cửa hàng, tín đồn Ki-tô giáo, bò cái, đàn bà, người Anh, và bọn dân chủ khác thuộc vào một bè với nhau”. Chủ nghĩa thực dụng và tính chất hẹp hòi thiếu văn hoá là đáy thấp nhất của văn hoá Âu châu. Chỉ trong một xứ cạnh tranh bóp hầu cắt cổ nguyên tắc mới có thể quan niệm đời là một cuộc tranh đấu chỉ để sống còn. Chỉ trong một nước mà bọn coi cửa hàng và giữ tàu đã tăng bội đến một số lượng lấn át giới quý tộc, nguyên tắc mới có thể nặn ra thuyết dân chủ; đây là tặng phẩm, tặng phẩm Hy Lạp, mà Anh quốc đã đem lại cho thế giới tân tiến. Ai sẽ cứu Âu châu thoát khỏi Anh quốc và cứu Anh quốc thoát khỏi dân chủ ?
VIII QUÝ TỘC
Dân chủ có nghĩa là lang thang trôi giạt; có nghĩa là cho phép mỗi phần tử của một cơ thể làm bất cứ gì nó thích; có nghĩa là sự đứt mạch lạc và hỗ tương, sự lên ngôi của phóng túng và hỗn loạn. Dân chủ có nghĩa là sự thờ phụng cái tầm thường, và sự thù ghét những gì trác tuyệt. Nó có nghĩa là không thể có những vĩ nhân. Làm sao những con người vĩ đại có thể phục tùng sự thiếu phẩm cách và trơ tráo của một cuộc bầu cử ? Họ sẽ có cơ hội nào đâu ? “Cái mà người ta thù ghét như những con chó thù ghét chó sói, chính là một tâm hồn phóng khoáng, kẻ thù của mọi xiềng xích, con người không thờ phụng”. Làm sao siêu nhân có thể xuất phát từ một đám đất như thế ? Và làm sao một quốc gia có thể trở thành vĩ đại được, khi những người vĩ đại nhất của quốc gia ấy nằm trong trạng huống thất dụng, chán nản, có lẽ không ai biết đến ? Một xã hội như thế sẽ mất cả tư cách; sự mô phỏng nằm theo chiều ngang thay vì theo chiều dọc; không phải siêu nhân, mà con người của đa số trở thành lý tưởng mẫu mực; mọi người thành ra giống hệt mọi người khác; ngay hai giống Nam – Nữ cũng tiệm cận nhau. Đàn ông trở thành đàn bà và đàn bà thành đàn ông (Ý chí quyền lực, i, 382-4).
Nữ tính, như vậy, thành hệ luận tự nhiên của dân chủ và Ki-tô giáo. “Ở đây ít có Nam tính; do đó đàn bà cố tự tạo cho mình nam tính. Vì chỉ có người đàn ông đầy đủ nam tính mới duy trì được nữ tính nơi đàn bà”. Ibsen, “kẻ tớ gái già điển hình ấy” đã tạo nên “người đàn bà giải phóng”. “Đàn bà được tạo thành do xương sườn của tôi nghèo nàn một cách kỳ lạ ! – người đàn ông nói “. Đàn bà đã mất hết quyền năng và thế lực vì sự giải phóng của họ; đàn bà ngày nay có đâu địa vị họ đã được hưởng dưới thời Bourbons ? Bình đẳng nam nữ là điều bất khả, vì cuộc chiến tranh giữa họ bất tuyệt; ở đây không có hoà bình nếu không có chiến thắng – hoà bình chỉ đến khi bên này hay bên kia được công nhận là chủ tể. Cố bình đẳng với người đàn bà là chuyện nguy hiểm; họ sẽ không bằng lòng với chừng ấy; họ chẳng thà chịu phục tùng nếu người đàn ông đúng là đàn ông. Trên tất cả, sự toàn hảo và hạnh phúc của họ nằm ở mẫu tính. “Mọi sự nơi đàn bà là một bí hiểm và mọi sự nơi đàn bà chỉ có một giải đáp: ấy là sinh con”. “Đàn ông đối với đàn bà chỉ là một phương tiện, cứu cánh luôn luôn là đứa con. Còn đàn bà đối với đàn ông là gì ? … Một đồ chơi nguy hiểm”. “Đàn ông phải được huấn luyện sẵn sàng cho chiến tranh; và đàn bà cho việc tái tạo chiến sĩ ! Mọi việc khác đều là điên rồ”. Tuy nhiên, “người đàn bà toàn hảo là một mẫu nhân loại cao hơn đàn ông toàn hảo, và bởi thế, một cái gì hiếm hoi hơn nhiều… Người ta có lịch sự với đàn bà bao nhiêu cũng không đủ “.
Một phần của sự căng thẳng trong hôn nhân nằm ở chỗ hôn nhân làm trọn vẹn người đàn bà mà lại thu hẹp, làm trống rỗng người đàn ông, khi một người đàn ông tán tỉnh một người đàn bà, chàng tình nguyện hiến cả thế giới cho nàng, và khi nàng kết hôn cùng chàng, chàng đã làm thế thật, chàng phải quên cả thế giới khi đứa con ra đời; vị tha tính trong tình yêu trở thành tính vị kỷ của gia đình. Sự thẳng thắn lương thiện và óc canh tân là những xa xỉ phẩm của hoàn cảnh độc thân. “Ở phạm vi liên can đến tư tưởng triết học cao cả, mọi người đàn ông có vợ đều khả nghi… Đối với tôi, dường như là điều phi lý khi một kẻ đã chọn lãnh vực mình là sự đánh giá toàn thể cuộc sự tồn sinh, lại tự rước vào mình gánh nặng gia đình, kiếm gạo bảo đảm an ninh và địa vị xã hội cho vợ con”. Nhiều triết gia đã chết khi đứa con của họ ra đời. “Gió luồn qua lỗ khoá bảo tôi: “Lại đây !”. Cánh cửa buồng tôi khôn lanh tự mở ra, bảo : “đi đi !”. Nhưng tôi cứ nằm vì bị xiềng xích bởi lòng yêu con cái. (Con người cô đơn ! Nietzsche, 77, 393).
Cùng với nữ tính, sinh ra xã hội chủ nghĩa và tình trạng hỗn độn; tất cả bấy nhiêu đều là bè lứa của dân chủ; nếu bình quyền chính trị là chánh đáng, thì sao lại không bình quyền luôn cả kinh tế ? Tại sao phải có những lãnh tụ ? Có những nhà xã hội chủ nghĩa thán phục tác phẩm Zarathustra; nhưng không cần sự thán phục của họ. “Có một vài người giảng thuyết chủ nghĩa của ta về nhân sinh nhưng đồng thời lại là người thuyết giáo về bình đẳng … Ta không muốn lầm lẫn với những kẻ thuyết về bình đẳng ấy. Vì trong ta chân lý bảo rằng : con người không bình đẳng “. “Chúng ta muốn đừng có một điểm chung nào cả”. “Hỡi những người thuyết về bình đẳng, tính điên loạn chuyên chế của sự bất tài từ trong các người đã kêu gào đòi bình đẳng”. Thiên nhiên ghét bình đẳng mà yêu sự phân biệt những cá nhân, giai cấp và chủng loại. Xã hội chủ nghĩa là phản sinh vật học, trong quá trình tiến hoá, những chủng loại, giống nòi, giai cấp hay cá nhân thấp kém bị sử dụng bởi hạng cao cấp hơn, mọi cuộc sống là sự khai thác, và chỉ tồn tại trên sự sống khác, cá lớn nuốt cá bé, đấy là tất cả câu chuyện. Xã hội chủ nghĩa là sự ganh tị: “Chúng muốn chiếm hữu cái gì chúng ta có” (Zarathustra, 137). Tuy nhiên, đấy là một quá trình để điều khiển; tất cả điều cần thiết để điều khiển nó là thỉnh thoảng mở ra cánh cửa giả giữa chủ và nô lệ, để cho những lãnh tụ của sự bất mãn lên thiên đàng hết. Không phải những lãnh tụ là đáng sợ, mà những kẻ dưới thấp, những kẻ nghĩ rằng bằng một cuộc cách mạng họ có thể thoát khỏi sự lệ thuộc vốn là kết quả tự nhiên của sự bất lực và biếng nhác của họ. Tuy nhiên, người nô lệ chỉ cao quý khi họ phản kháng.
Dù sao nô lệ cũng cao quý hơn những người chủ của họ ngày nay – giới trưởng giả. Dấu hiệu của sự hèn kém trong văn hoá thế kỷ 19 là con người có tiền của đã là đối tượng cho quá nhiều tôn sùng và thèm khát. Nhưng cả những thương gia này cũng là nô lệ nữa, những con hình nhân của tập tục, nạn nhân của sự bận rộn; họ không có thì giờ để có những tư tưởng mới. Đối với bọn họ, sự suy nghĩ là điều tốt kiến thức và những niềm vui của tri thức đều vượt ngoài tầm họ. Do đó mà họ không ngừng lăng xăng đi tìm “Hạnh phúc”, với những ngôi nhà to lớn không bao giờ là tổ ấm, cảnh xa xỉ hạ thấp khiếu thẩm mỹ, những phòng tranh treo “nguyên bản” có đính kèm giá tiền, những lạc thú nhục dục làm chậm lụt tâm hồn hơn là giải lao, thêm đà cho tâm trí. “Hãy nhìn những kẻ nông cạn kia ! Họ dồn chứa tài sản và bởi đó, cứ mỗi ngày một nghèo nàn thêm”, họ chấp nhận tất cả những kiềm thúc của chủ nghĩa quý tộc nhưng không đạt đến được vương quốc của tâm trí để bù lại. “Hãy trông họ leo trèo, những con khỉ nhanh nhẹn kia ! Họ leo lên nhau và cứ thế tự kéo nhau vào trong bùn lầy sâu thẳm … Mùi tanh hôi của bọn con buôn, sự xoay sở của tham vọng: hơi thở độc địa xấu xa”. Những người như thế có tài sản cũng vô ích vì họ không thể đem lại phẩm cách cho tài sản bằng lối sử dụng cao quý, bằng sự bảo trợ phải cách cho văn học hay nghệ thuật. “Chỉ có con người của tri thức nên nắm giữ tài sản”; Những người khác thường xem tài sản như tự nó đã là cứu cánh và theo đuổi nó một cách càng ngày càng liều lĩnh. Hãy nhìn “sự điên cuồng hiện tại của các quốc gia chỉ muốn một điều là sản xuất thật nhiều, càng nhiều càng tốt, và càng giàu càng hay”. Cuối cùng con người trở thành một con chim mồi. “Họ rình nhau, họ cướp của nhau bằng cách nằm phục kích. Điều ấy được gọi là láng giềng tốt… Họ tìm những lợi lộc nhỏ nhoi nhất từ mọi thứ rác rưới”. “Ngày nay, nền đạo đức con buôn thật chỉ là một lối khéo hơn của nền đạo đức cướp biển – mua ở thị trường rẻ nhất, bán ở thị trường đắt đỏ nhất”. Tất cả những người nầy đều kêu gào chính sách tự do mậu dịch, kêu gào được để yên, trong khi đấy chính là những kẻ cần nhất sự giám thị và kiểm soát. Có lẽ ngay cả một mức độ nào đó của xã hội chủ nghĩa, mặc dù nó nguy hiểm, sẽ được bênh vực ở đây; “chúng ta phải thu hồi các ngành vận tải và mậu dịch thuận lợi cho sự dồn chứa những tài sản kếch xù. Do đó, đặc biệt là thị trường tiền tệ – khỏi bàn tay của những tư nhân hay công ty tư nhân” và hãy coi chừng những người sở hữu quá nhiều, hệt như coi chừng những kẻ không có ích gì cả, xem như là những mẫu người đầy nguy hiểm cho đoàn thể” (YTLM, i, 142).
Cao hơn giới trưởng giả, và thấp hơn giới quý tộc, là quân nhân. Một vị tướng sử dụng hết những người lính trên chiến trường ở đấy họ có cái khoái được chết dưới liều thuốc mê của sự vinh quang là một người cao quý gấp bội người chủ xưởng sử dụng hết những công nhân trong chiếc máy lợi tức của y; hãy quan sát sự nhẹ nhõm ngần nào nơi những người rời xưởng để ra trận chiến. Napoléon không phải là một đồ tể chém giết mà là một ân nhân; ông đem lại cho người cái chết với danh dự quân nhân thay vì cái chết mòn dưới ách kinh tế, người ta lũ lượt kéo đến dưới lá tử-kỳ bởi vì họ thích những hiểm nguy của chiến trận hơn cảnh đều đều tẻ nhạt không thể chịu đựng trong việc chế tạo thêm một triệu cúc áo khác. “Một ngày kia danh dự sẽ dành cho Napoléon vì đã trong một thời tạo được một thế giới trong đó người đàn ông, chiến sĩ, có giá trị cao vượt hơn kẻ thương gia và bọn người thủ cựu hẹp hòi”.
Chiến tranh là một liều thuốc tuyệt diệu cho những dân tộc đang trở nên suy nhược ưa tiện nghi đáng khinh bỉ, chiến tranh kích động những thiên tính bị thối mục dần trong thời bình. Chiến tranh và sự tổng động viên vào quân đội là những liều thuốc giải độc cấp thiết đối với bịnh nhu nhược nữ hoá của dân chủ. “Khi những bản năng của một xã hội cuối cùng đưa đến sự bỏ bê chiến tranh và chinh phục, thì xã hội ấy đang suy tàn; nó đã chín mùi cho nền dân chủ và cho sự thống trị của bọn con buôn”. Tuy nhiên, những nguyên nhân của chiến tranh ngày nay không có gì cao thượng cả; những cuộc chiến của các triều đại và cuộc chiến vì tôn giáo có đôi chút thanh tao hơn sự dàn xếp bằng súng những tranh giành về thương mãi (Tri thức hân hoan).
“Trong vòng 50 năm những chính phủ Babel ấy (những nền dân chủ Âu châu) “sẽ nổ tung trong một cuộc chiến khổng lồ để tranh giành thị trường trên thế giới”. Nhưng có lẽ từ cơn điên cuồng ấy sẽ mọc lên nền thống nhất Âu châu; một mục tiêu mà cho dù phải trả giá bằng một cuộc chiến thương mãi cũng không lấy gì làm quá đắt. Vì chỉ từ một Âu châu thống nhất mới có thể sinh khởi nền quý tộc cao cả hơn nhờ đó Âu châu có thể được cứu chuộc.
Vấn đề của chính trị là ngăn ngừa đừng cho thương gia thống trị vì một con người như thế có tầm nhãn quan rất ngắn ngủi và tầm tay hẹp hòi của một chính khách, không phải nhãn quan nhìn xa thấy rộng của người quý tộc được huấn luyện để trị quốc. Con người thanh tao hơn có một quyền hành thiêng liêng để cai trị – nghĩa là, quyền hành của khả năng cao vượt hơn. Người thường cũng có chỗ của họ, nhưng không phải ở trên ngai. Ở đúng chỗ mình, người thường sẽ được hạnh phúc và những đức hạnh của nó cũng cần thiết cho xã hội như những đức hạnh của nhà lãnh đạo; “Một tâm trí sâu sắc sẽ không xem sự tầm thường tự nó là một điều bậy”. Tính siêng năng, dè xẻn, đều đặn, điều độ, lòng tin vững mạnh, với những đức hạnh ấy, con người tầm thường có thể trở nên hoàn hảo, nhưng chỉ hoàn hảo trong vai trò dụng cụ. “Một nền văn minh cao là một hình tháp; nó chỉ có thể đứng trên một nền tảng rộng; điều kiện tiên quyết của nó là sự tầm thường được củng cố vững vàng mạnh mẽ”. Luôn luôn và ở khắp nơi, một số người sẽ làm lãnh tụ và một số làm tuỳ tòng; đại đa số sẽ bị bắt buộc và sung sướng được làm việc dưới sự điều khiển của người cao hơn (Kẻ chống Thiên chúa, 219 – 220).
Bất cứ nơi đâu gặp sinh vật, ta cũng nghe tiếng nói của phục tùng. Mọi sinh vật là những con vật phục tùng. Và điều thứ hai, kẻ nào không thể vâng lời chính mình kẻ ấy phải bị sai khiến. Đấy là tập tục của những sinh vật. Nhưng đây là điều thứ ba ta nghe: điều khiển khó khăn hơn phục tùng. Vì không những người điều khiển mang gánh nặng của tất cả những người phục tùng, và gánh nặng ấy dễ đè bẹp người, mà còn một nỗ lực và một hiểm nguy, ta thấy dường như được chứa đựng trong mọi sự điều khiển; và khi nào sinh vật điều khiển cũng tự liều mình” (Zarathustra, 159).
“Xã hội lý tưởng , như vậy, sẽ được chia làm ba hạng: những người sản xuất (tá điền, kẻ vô sản và thương gia), công chức (quân nhân và viên chức) và những người cai trị. Những người sau cùng này sẽ cai trị, nhưng không làm chức vụ trong chánh phủ; công việc cai trị là một việc hèn hạ. Những người thống trị sẽ là những chính khách triết gia hơn là những người giữ chức vụ trong bàn giấy. Quyền uy của họ sẽ nằm trong sự kiểm soát tài chánh và quân đội, nhưng chính họ sẽ sống như những quân nhân hơn là như nhà tài chánh. Họ là những người của sự thanh nhã cũng như của sự can đảm và hùng mạnh; vị học giả và viên tướng soái trong cùng một con người. Họ sẽ được phối hợp bởi lịch sự và corps d’ esprit, những con người này được giữ gìn nghiêm nhặt rằng những giới hạn của đạo đức: sự kính trọng cổ tục, lòng biết ơn sự giám thị lẫn nhau, lòng ganh đua; và mặt khác khi cư xử với nhau họ sẽ có nhiều sáng kiến trong sự suy xét, tự điều khiển, lòng kiêu hãnh và tình bằng hữu”.
Lớp quý tộc này sẽ là một giai cấp chăng ? và quyền lực của họ có tính cách tập truyền ? Phải, phần đông là thế, nhưng thỉnh thoảng cũng có mở cửa cho những dòng máu mới vào. Nhưng không có gì có thể làm hỏng và yếu mòn một lớp quý tộc cho bằng việc cưới những người tầm thường giàu có, theo thói tục của quý tộc Anh; chính sự hôn phối lẫn lộn ấy đã làm hỏng tập đoàn thống trị vĩ đại nhất thế giới chưa từng thấy – Thượng viện quý tộc La-Mã. Không có trường hợp “Ngẫu sinh”; mỗi sự sinh ra là bản cáo trạng của thiên nhiên về một cuộc hôn phối; và con người toàn hảo chỉ xuất hiện sau nhiều thế hệ đào thải và chuẩn bị; “những tiền nhân của một người đã trả giá cho hiện thể của nó”.
Có phải điều này tổn thương quá nhiều đến hai lỗ tai dân chủ từ khuya của chúng ta chăng ? Nhưng “Những nòi giống không chịu nổi nền triết học này là lúa đời rồi; và những nòi giống xem triết học như hồng phúc lớn lao nhất chính là những nòi giống có phần số làm bá chủ hoàn cầu”. Chỉ một nền quý tộc như thế mới có thể có thị kiến và can đảm để làm cho Âu châu thành một quốc gia, để chấm dứt cái quốc gia chủ nghĩa kiểu trâu bò này, cái “đất mẹ” ba xu này. Chúng ta hãy là “những người Âu châu tốt”, như Napoléon, như Goethe, như Beethoven, như Schopenhauer, như Stendhal, như Heine. Đã quá lâu chúng ta là những mảnh vụn, mảnh rời rạc của cái đáng lẽ phải là một đoàn thể. Làm sao một nền văn hoá lớn có thể sinh trưởng trong bầu không khí của thiên vị quốc gia và của lãnh thổ tính làm cho ta hẹp hòi ? Thời đại của chính trị vụn đã qua. Khi nào thì nòi giống mới xuất hiện, và những lãnh tụ mới ? Khi nào Âu châu sẽ được sinh ra đời ?
Há ngươi chưa nghe gì về những đứa con của ta chăng ? Hãy nói ta nghe về khu vườn của ta, những hòn đảo Hy vọng của ta, nòi giống mới tốt đẹp của ta. Vì chúng, ta giàu có, vì chúng, ta trở nên nghèo nàn … Có cái gì ta đã không từ nhượng ? Có cái gì ta sẽ không bỏ để được có một điều: những đứa con kia, đồn điền sống động kia, những cây nhân sinh của ý chí và hy vọng tột vời của ta ? (Ý chí quyền lực, ii, 353, 362-4, 371, 422).
IX PHÊ BÌNH
Đấy là một bài thơ đẹp; và có lẽ đấy là một bài thơ hơn là một nền triết học. Chúng ta biết ở đây có nhiều mâu thuẫn phi lý, và biết anh chàng đã đi quá xa trong một cố gắng tự thuyết phục và tự sửa sai; nhưng chúng ta có thể thấy chàng khổ đau ở từng giòng chữ, và phải yêu mến chàng dù ngay ở điểm chúng ta chất vấn chàng. Có một lúc nào đó ta mệt mỏi vì cảm tình và ảo tưởng, ta nếm mùi châm chích của hoài nghi và phủ nhận; khi ấy Nietzsche sẽ đến với ta như một liều thuốc bổ, như không gian khoáng đạt và gió mát sau một buổi lễ dài trong một Giáo đường đông nghẹt. “Ai biết được cách thở trong bầu không khí của tác phẩm tôi, người ấy ý thức rằng đấy là không khí thượng tầng bồi dưỡng sức khoẻ. Một người phải khoẻ mạnh để đón nhận nó; nếu không rất có thể nó giết y” (Đây, con người ). Đừng ai lầm lẫn chất axit này với sữa mẹ.
Rồi thì chao ơi là lời lẽ văn chương ! “Một ngày kia, người ta sẽ nói rằng Heine và tôi là những nghệ sĩ vĩ đại nhất, vượt rất xa, đã từng viết bằng Đức ngữ, rằng chúng tôi đã để lại sau mình cách xa muôn vạn dặm những gì tốt đẹp nhất mà bất cứ một người Đức nào có thể làm”. Và thật cũng gần đúng như vậy. Văn của tôi nhảy múa” chàng nói; mỗi câu là một chiếc lao; ngôn ngữ uyển chuyển, hùng tráng, mạnh mẽ, văn lời của một người đánh kiếm, nhanh nhẹn quá, chói loà quá cho một con mắt thường. Nhưng khi đọc lại Nietzsche ta nhận thấy vẻ sáng chói phần nào do sự nói quá đáng, do ở lòng tự tôn thú vị nhưng chung quy, có tính cách thần kinh loạn, ở một lối đảo nghịch – quá dễ dàng – mọi quan niệm được mọi người công nhận, ở sự nhạo báng tất cả mọi đức hạnh, tán dương mọi thói xấu; chúng ta khám phá rằng Nietzsche có niềm khoái trá kiểu học trò trung học trong việc gây xúc động mạnh, chúng ta kết luận rằng; cũng dễ thấy thú vị khi ta không có thiên kiến bênh vực đạo đức. Những quyết đoán giáo điều này, những lối quy nạp không châm chước ấy, những sự lập lại kiểu tiên tri ấy, những lối nghịch ngôn ấy – với người khác cũng như với chính chàng – biểu lộ một tâm trí đã mất quân bình, đang chờn vờn trên bờ vực của điên loạn. Cuối cùng sự sáng chói này làm chúng ta mỏi mệt và làm kiệt quệ những sợi thần kinh ta, như những ngọn roi quất lên thịt, hay như giọng nhấn mạnh quá lớn trong một cuộc đàm thoại. Có cái gì om sòm của người Teutonic trong lối phát ngôn hùng hổ này: không có chút gì chừng mực vốn là nguyên tắc số một của nghệ thuật; không có chút gì của thế quân bình, hoà điệu và sự tao nhã trong tranh biện, những điều mà Nietzsche rất thán phục nơi người Pháp. Dù sao, đấy là một lời văn hùng tráng đầy uy lực; chúng ta bị áp đảo bởi sự đam mê và lối lặp đi lặp lại trong đó; Nietzsche không chứng minh, chàng thông báo và khải thị; chàng chiếm được lòng chúng ta bằng tưởng tượng hơn là bằng luận lý của chàng; chàng hiến cho chúng ta không phải chỉ một nền triết học, cũng không phải chỉ một bài thơ, mà một niềm tin mới, một hy vọng mới, một tôn giáo mới.
Tư tưởng chàng, cũng như lời văn chàng, biểu lộ rõ rệt chàng là một người con của phong trào lãng mạn. “Cái gì, chàng hỏi, – một triết gia đòi hỏi đầu tiên và cuối cùng nơi chính mình ? Chính là vượt khỏi thời đại của họ, trở thành phi thời gian”. Nhưng đấy là một lời khuyên toàn hảo mà chàng đã vi phạm hơn là tuân giữ; chàng được rửa tội bằng tinh thần của thời đại. Chàng không nhận ra làm sao chủ quan luận của Kant : “Thế giới là ý tưởng tôi” – như Schopenhauer đã thật thà nói – đã đưa đến “ngã tuyệt đối” của Fichte, và thuyết này đưa đến cá nhân chủ nghĩa mất quân bình nơi Stirner, và đến lượt chủ nghĩa này lại đưa đến thuyết phi đạo đức của siêu nhân. Siêu nhân không chỉ là “thiên tài” của Schopenhauer, và “người hùng” của Carlyle, Siegfried của Wagner; anh chàng siêu nhân này giống một cách khả nghi với Karl Moor của Schiller và Goetz của Goethe; Nietzsche đã rút từ Goethe nhiều hơn là chỉ có danh từ Uebermensch (Siêu nhân), Goethe, người mà vẻ bình lặng olympian (thượng giới ?) sau này đã làm chàng khinh bỉ vì ganh tị. Những bức thư chàng đầy dẫy tình cảm lãng mạn và sự âu yếm; “tôi khổ đau” trở đi trở lại nhiều lần trong những bức thư ấy cũng gần như “tôi chết” trong Heine, chàng tự gọi mình là “một linh hồn huyền bí và gần như của tửu thần” và nói về cuốn Khai sinh của Bi kịch là lời thú của một nhà lãng mạn”. Chàng viết cho Brandes “Tôi sợ rằng tôi có quá nhiều chất nhạc sĩ để trở thành một nhà lãng mạn”. “Một tác giả phải im lặng khi tác phẩm bắt đầu nói”; nhưng Nietzsche không bao giờ ẩn mình, và nhào vào ngôi thứ nhất trên từng trang giấy một; sự tán dương của chàng về bản năng đối lại tư tưởng , về cá nhân đối lại xã hội, về yếu tố Dionysus đối lại Apollon (nghĩa là lãng mạn chống lại cổ điển), nói lên thời đại chàng sống một cách rõ ràng như ngày sinh ngày tử của chàng. Nietzsche đối với triết học của thời đại chàng cũng như Wagner đối với âm nhạc của thời đại ông, – tột đỉnh của phong trào lãng mạn, ngọn triều cao nhất của dòng lãng mạn; Nietzsche giải phóng ca tụng “ý chí” và “thiên tài” của Schopenhauer khỏi mọi kiềm chế xã hội, cũng như Wagner đã giải phóng và ca tụng nguồn đam mê trong bản Sonata Pathetique và các khúc hoà âm thứ 5 và 9. Nietzsche là kẻ hậu duệ vĩ đại cuối cùng của dòng họ Rousseau.
Bây giờ hãy trở lại trên đường ta đã du lịch với Nietzsche và nói với chàng – dù vô hiệu – một vài điểm chống đối mà chúng ta rất thường muốn đưa ra để ngắt lời chàng. Chàng cũng khá minh triết để tự thấy, vào những năm về sau của đời chàng, biết bao phi lý đã đóng góp cho vẻ độc đáo của cuốn Khai sinh của Bi kịch. Những học giả như Wilamowitz-Moellendorff cười nhạo tác phẩm ấy, bài nó ra khỏi lãnh vực ngữ học. Sự cố suy ra Wagner từ Achille là sự tự thiêu của một tín đồ trẻ trước một vị thần chuyên chế. Ai sẽ nghĩ rằng thời canh tân là Dionysian, hoang dã, vô luân, rượu chè, đầy Bacchus-tính, và thời Phục Hưng là hoàn toàn ngược lại những điều này – bình lặng, kiềm thúc, điều độ, đầy Apollon-tính ? – Ai sẽ nghi ngờ rằng “Chủ nghĩa Socrate là nỗi miệt thị của một người mê say Wagner đối với nền tư tưởng hợp luận lý, lòng ái mộ Dionysus là sự tôn thờ hoạt động nơi con người thường ngồi một chỗ, và sự thèm muốn thầm kín của một kẻ độc thân hay thẹn đối với tửu lượng và dục tính đầy khí chất nam nhi.
Có lẽ Nietzsche có lý khi cho rằng thời tiền-Socrate là những ngày tốt đẹp của Hy Lạp; dĩ nhiên chiến tranh đã phá tung nền tảng kinh tế và chính trị của văn hoá Périclès. Nhưng cũng hơi phi lý khi chỉ thấy ở Socrate một nền phê phán gây phân hoá (làm như thể công việc của chính Nietzsche không phải là điểm này) chứ không thấy cả một công trình cứu rỗi một xã hội bị tàn phá không phải vì triết học mà vì chiến tranh , mục nát và vô luân. Chỉ có một giáo sư chuyên về nghịch lý mới có thể xếp hạng những đoạn văn tối nghĩa và độc đoán của Héraclites trên sự minh triết của chín chắn và nghệ thuật đã phát triển của Platon. Nietzsche tố cáo Platon như đã tố cáo tất cả những người chàng vay mượn – không ai là một anh hùng đối với chủ nợ của mình; nhưng triết học của Nietzsche là gì nếu không là nền đạo đức của Thrasymachus và Callicles, và nền chính trị của Socrate – Platon ? Với tất cả môn ngữ học của mình, Nietzsche cũng chưa bao giờ hoàn toàn lọt vào được trong tinh thần Hy Lạp, chàng chưa bao giờ học được bài học theo đó sự điều độ và tự tri (như lời dạy của những bia đền Delphes và những triết gia vĩ đại) có tác dụng ngăn chận – chứ không dập tắt – ngọn lửa của đam mê và dục vọng; rằng Apollon phải hạn chế bớt Dionysus. Một số người đã mô tả Nietzsche là một người vô thần, song không hẳn thế, không phải chàng vô thần kiểu Hy Lạp như Périclès, hay kiểu Đức như Goethe, chàng thiếu chính cái thế quân bình và tiết độ đã làm cho những người này mạnh. “Tôi sẽ đem lại cho người niềm bình an trong sáng vốn là điều kiện cho mọi nền văn hoá”, chàng đã viết. Nhưng than ôi, làm sao một người có thể cho cái mà y không có ?
Trong tất cả những tác phẩm của Nietzsche, Zarathustra được yên ổn nhất không bị phê bình, một phần vì nó tối nghĩa, một phần nhờ những giá trị không thể chối cãi của nó đã làm lu mờ mọi sự chỉ trích những sai lầm. Ý tưởng về sự tái hồi vĩnh viễn, mặc dù chung cho Spencer “Apollon” cũng như cho Nietzsche “Dionysus”, đã đập vào trí ta như một tưởng tượng thiếu lành mạnh, một nỗ lực kỳ dị cuối cùng để phục hồi niềm tin vào bất tử. Mọi nhà phê bình đều thấy rõ mâu thuẫn giữa lối thuyết giáo táo bạo về duy ngã (Zarathustra tuyên bố Ngã là toàn vẹn và linh thiêng, sự vị ngã được ban phước) và sự kêu gọi vị tha, quên mình đã chuẩn bị phụng sự siêu nhân. Nhưng đọc triết lý này, ai sẽ tự xếp hạng mình là kẻ nô lệ chứ không phải là siêu nhân ?
Còn về hệ thống đạo đức của Bên kia thiện và ác và Nguồn đạo đức, thì quả là một cuộc nói quá trớn rất gây kích động. Chúng ta công nhận rằng cần phải đòi hỏi con người dũng cảm hơn, cứng rắn hơn đối với mình – hầu hết mọi nền đạo đức đều đã đòi hỏi chuyện ấy; song thật không có gì cần thiết khẩn cấp trong việc kêu gọi con người phải tàn bạo hơn và “xấu xa” hơn. Dĩ nhiên đấy là một công việc dư thừa. Và cũng không quá khẩn thiết để phàn nàn rằng đạo đức là một khí giới mà kẻ yếu sử dụng để hạn chế kẻ mạnh: kẻ mạnh không bị ấn tượng quá sâu xa của đạo đức, trái lại đúng hơn họ đã rất khéo sử dụng nó: mọi quy lực đạo đức đều bị bắt buộc từ bên trên, chứ không phải từ bên dưới; đám đông thường ca tụng và chê trách rập theo uy lực. Cũng thế, thỉnh thoảng nên tàn nhẫn với tính khiêm cung là điều tốt; “chúng ta đã cầu xin quỵ luỵ khá lâu rồi”, như nhà thi sĩ râu xám (bạc) của chúng ta nói, song ngày nay ta không thấy ai có quá nhiều tính ấy. Ở đây Nietzsche đã thiếu mất ý thức lịch sử mà chàng vẫn ca tụng là rất cần thiết đối với triết học; nếu không chàng sẽ thấy rằng lý thuyết về tính hoà nhã và khiêm cung của tâm hồn chính là một liều thuốc giải cần thiết cho những đức hạnh bạo động hiếu chiến của những người dã man đã – vào nghìn năm đầu của kỷ nguyên Ki-tô – suýt phá hoại chính nền văn hoá trong đó Nietzsche luôn luôn trở về để trú ẩn và bồi dưỡng. Có lẽ sự nhấn mạnh điên rồ man dại này trên quyền lực và động chuyển chính là dư vang của một thời đại lên cơn sốt hỗn loạn ? Cái ý chí quyền lực mà Nietzsche cho là phổ quát không thể chứng minh được sự trầm lặng của người Ấn, bình tĩnh của người Trung Hoa, hay tập tục được tuân giữ nơi người dân quê thời trung cổ. Quyền lực là thần tượng của một vài người, nhưng phần đông chúng ta đều mong được yên ổn, hoà bình.
Nói chung, như có lẽ mọi độc giả đã thấy rõ, Nietzsche không nhận chân được địa vị và giá trị của những bản năng xã hội; chàng cho rằng những kích động của lòng tự cao và cá nhân chủ nghĩa cần được triết học tăng cường ! Người ta phải ngạc nhiên tự hỏi con mắt chàng để ở đâu khi tất cả Âu châu đang quên bẵng những tập tục trong một vũng lầy chiến tranh vị kỷ, đang hấp thụ chính nền văn hoá mà Nietzsche vô cùng tán dương, và đang cần một sự hợp tác, tiện nghi xã hội và sự tự chế. Vai trò cốt yếu của Ki-tô giáo là phải tiết chế điều hoà bản tính dã man tự nhiên của con người bằng cách ghi tạc vào trong y một lý tưởng cực đoan về sự từ hoà, và một nhà tư tưởng nào lo sợ con người đã đồi truỵ không còn đủ vị ngã, và lại bước vào sự thực hành quá độ đức hạnh Ki-tô giáo, nhà tư tưởng ấy chỉ cần nhìn quanh mình một cái để được an tâm.
Bị cô độc vì bịnh hoạn và thần kinh dễ kích động, bị bắt buộc tuyên chiến với sự biếng nhác uể oải tầm thường của con người, Nietzsche đi đến chỗ cho rằng mọi đức hạnh lớn là đức hạnh của những con người biệt lập. Chàng phản kháng lại thuyết Schopenhauer cho rằng cá nhân phải chìm trong nòi giống bằng một sự giải phóng thiếu quân bình của cá nhân ra khỏi kiểm soát của xã hội. Bị thất bại trong cuộc săn tìm tình yêu, chàng đã xoay ra đả kích phụ nữ bằng giọng điệu chua chát không xứng với một triết gia, và không tự nhiên nơi một người đàn ông; thiếu giây liên hệ thân thuộc và mất tình bạn, chàng không bao giờ biết được rằng những giai đoạn tốt đẹp nhất trong đời chỉ xuất hiện qua sự hỗ tương bè bạn hơn là từ sự thống trị và chiến tranh. Chàng đã không sống đủ lâu và đủ rộng để làm chín mùi những chân lý nửa chừng của mình thành ra minh triết. Có lẽ nếu Nietzsche sống lâu hơn, chàng đã biết đổi đám lý thuyết hỗn độn chát chúa của mình thành nền triết học nhịp nhàng hoà điệu. Những lời sau đây của Nietzsche nói về Chúa Giê-su thật đúng cho chàng hơn: “Ngài chết quá sớm; chính Ngài sẽ rút lui lý thuyết của mình nếu Ngài đạt đến tuổi chín chắn hơn, vì Ngài khá cao thượng để rút lui như thế !”. Nhưng thần chết có những chương trình khác.
Có lẽ về chính trị, thị kiến của Nietzsche xem ra lành mạnh vững vàng hơn về đạo đức. Nền quý tộc là nền cai trị lý tưởng, ai chối cãi được ? “Ôi hỡi trời cao ! Trong mọi quốc gia …có một con người xứng đáng nhất, minh triết nhất, dũng cảm nhất, tốt nhất, con người chúng ta có thể tìm ra và tôn làm chúa tể ngự trị chúng ta, tất cả quả thật, đều tốt đẹp… khám phá người bằng phương thế nào ? Trời cao không vì trắc ẩn mà dạy phương thế nào hay sao ? Vì nhu cầu của chúng ta đối với người ấy thật quá lớn lao !*)” [*) Carlyle, Past and Present , NY 1901). Nhưng ai là người tốt nhất ? Người ấy có phải chỉ xuất hiện trong một vài gia đình, và bởi thế phải chăng chúng ta cần có nền quý tộc tập truyền ? Nhưng chúng ta đã có nền quý tộc ấy; và đã dẫn đến sự theo đuổi phe đảng, sự vô trách nhiệm của giai cấp, sự cô đọng. Có lẽ những nền quý tộc đã được cứu rỗi cũng nhiều lần như bị phá hoại – nhờ sự kết hôn với lớp trung lưu; giới quý tộc Anh đã tự duy trì bằng cách nào khác đâu ? Và có lẽ nhờ nuôi dưỡng bên trong những kẻ suy đồi ? Hiển nhiên có rất nhiều khía cạnh trong vấn đề phức tạp này mà Nietzsche đã mạnh mẽ tung vào những tiếng ” ừ ” và ” không “. Những nền quý tộc tập truyền không thích thống nhất thế giới; họ thường thiên về một chính sách quốc gia hẹp hòi, dù những người quý tộc ấy tỏ ra có thế giới chủ nghĩa mấy đi nữa trong cách cư xử của họ; nếu họ bỏ quốc gia chủ nghĩa, họ sẽ mất một nguồn chính yếu của quyền lực họ – sự điều khiển những giao tế ngoại bang. Và có lẽ một quốc gia cỡ thế giới sẽ không lợi cho văn hoá nhiều như Nietzsche tưởng; những khối lớn thường di chuyển rất chậm chạp; và có lẽ Đức quốc đóng góp được nhiều cho văn hoá khi chỉ là một “biểu hiện địa lý” với những triều đình độc lập cạnh tranh nhau trong việc bảo trợ văn hoá – hơn là vào thời đại của nước Đức thống nhất; cũng không phải vị hoàng đế đã yêu quý Goethe và cứu vãn Wagner .
Một ảo tưởng thông thường là những giai đoạn lớn lao của văn hoá đã là những thời đại của quý tộc tập truyền, trái lại, những thời kỳ thịnh vượng của Périclès, Medici, Elizabeth và thời lãng mạn đều được nuôi dưỡng bằng tài sản của giới trưởng giả giàu có, và công trình sáng tạo văn chương nghệ thuật thường hoàn tất không phải do những gia đình quý tộc mà do con cháu của giới trung lưu: – Do những người như Socrate, con của một bà đỡ; Voltaire, con một viên đại tụng (luật sư); Shakespeare, con một người hàng thịt. Chính những thời đại của biến động đổi thay đã kích động sức sáng tạo văn hoá; những thời đại trong đó một giai cấp mới hùng mạnh vươn lên quyền lực. Trong chính trị cũng thế; sẽ là một việc tự sát nếu gạt ra khỏi những thiên tài thiếu dòng máu quý tộc; chắc chắn công thức tốt hơn là một “nghề mở rộng cửa cho tài năng” dù sinh ở đâu đi nữa; và thiên tài thường có thói ra đời ở những chỗ lạ lùng nhất. Chúng ta hãy để cho tất cả những người tốt nhất cai trị. Một nền quý tộc chỉ tốt đẹp nếu nó là một tập đoàn linh động gồm những người mà bảo-chứng để nắm quyền hành không phải là dòng dõi mà là tài năng, một nền quý tộc không ngừng được đào thải, chọn lọc và nuôi dưỡng từ sự mở rộng cơ hội cho tất cả mọi người.
Sau những suy luận ấy (nếu cần ta phải suy luận) cái gì còn lại. Đã đủ để làm cho người phê bình khó chịu. Nietzsche đã bị bài bác bởi những người ưa sự khả kính : tuy nhiên chàng vẫn đứng vững như trụ đá trong tư tưởng hiện đại, là một đỉnh núi trong tản văn Đức. Chắc hẳn chàng có lỗi nói hơi quá đáng khi tiên đoán rằng tương lai sẽ chia quá khứ thành những giai đoạn “trước Nietzsche” và “sau Nietzsche”; nhưng quả là chàng đã thành công trong việc thi hành một cuộc soát lại, có tính cách phê phán những định chế và quan niệm đã được xem như tất nhiên qua nhiều thế kỷ. Chàng lại còn mở rộng một tầm nhãn quan mới rọi vào kịch nghệ và triết học Hy Lạp; chàng đã chỉ rõ ngay từ đầu, những hạt mầm sự suy tàn lãng mạn trong âm nhạc Wagner; chàng đã phân tích bản tính người của chúng ta một cách tinh vi sắc bén như mũi dao của nhà giải phẫu, và có lẽ cũng có tính cách cứu chữa như mũi dao ấy; chàng đã vạch trần một số cội rễ thầm kín của đạo đức như chưa một nhà tư tưởng hiện đại nào đã làm; chàng “du nhập một giá trị bấy lâu nay hầu như không được biết tới, vào trong những lãnh vực của đạo đức : ấy là quý tộc”; chàng buộc chúng ta phải suy nghĩ một cách đứng đắn về những hàm ẩn đạo đức trong thuyết Darwin; chàng đã viết bài thơ tản văn vĩ đại nhất trong văn chương thế kỷ chàng; và (điều này trên hết) chàng đã quan niệm về con người như một cái gì phải vượt qua. Chàng ăn nói chua chát, nhưng với một sự chân thành vô giá; và tư tưởng chàng đi qua những đám mây mờ và tơ nhện của tâm thức hiện đại như một làn chớp quét sạch một cơn gió tạt mạnh. Không khí của triết học Âu châu bây giờ trong sáng hơn, tươi mát hơn, nhờ Nietzsche đã tung ngọn bút.
X KẾT CUỘC
Ta yêu con người muốn tạo một cái gì cao hơn chính mình, và chết vì thế”, Zarathustra đã nói.
Chắc hẳn nồng độ mãnh liệt của tư tưởng Nietzsche đã sớm tiêu diệt chàng. Cuộc chiến chống lại thời gian làm tâm trí chàng mất quân bình; “người ta đã luôn luôn nhân thấy rằng thật là một điều ghê gớm khi tuyên chiến với hệ thống đạo đức của thời đại mình; việc ấy sẽ gây cuộc phục thù từ bên trong và từ bên ngoài” (Ellis, 39). Càng về cuối đời, tác phẩm Nietzsche càng chua chát; chàng đả kích nhân vật cũng như tư tưởng Wagner, đấng Ki-tô v.v. “Sự tăng trưởng trí tuệ – chàng viết – có thể được đo chính xác bằng sự giảm thiểu tính cách cay chua” nhưng chàng không thể thuyết phục được ngọn bút của chàng. Ngay giọng cười của Nietzsche cũng trở thành bệnh hoạn khi tâm trí chàng suy sụp; không có gì có thể chỉ bày chất độc đang làm tiêu mòn Nietzsche rõ hơn ý tưởng này: “Có lẽ tôi biết rõ vì sao con người là con vật duy nhất có nụ cười: vì chỉ mình nó là đau đớn dữ dội đến nỗi buộc lòng phải phát minh tiếng cười” (Ý chí quyền lực, 1, 24). Bệnh hoạn và sự mù loà càng ngày càng tăng là khía cạnh sinh lý trong cơn suy sụp của chàng. Nietzsche bắt đầu tuôn ra những cơn ám ảnh của bệnh vọng tưởng, như cảm thấy mình vĩ đại, cảm thấy bị hành hạ; chàng gởi một trong những cuốn sách của chàng cho Taine với một lời ghi cả quyết với nhà phê bình lỗi lạc ấy rằng đấy là tác phẩm tuyệt diệu nhất từ xưa tới nay, và trong tác phẩm cuối cùng của Nietzsche, Ecce Homo (Đây, con người), chàng trút đầy những lời tự tán dương điên loạn như ta đã thấy Ecce homo – than ôi, chúng ta đã thấy con người ấy ở đây quá rõ !
Có lẽ nếu được những người khác tán thưởng thì chàng đã bớt được kiểu tự tôn tự đại, và có chỗ bám víu vững hơn vào tương lai và vào sự sáng suốt bình thường. Nhưng sự khen ngợi đến quá muộn. Taine gởi cho chàng một lời khen nồng hậu trong khi hầu hết mọi người khác đều xem chàng như không có, hoặc chửi rủa chàng ; Brandes viết cho chàng hay, ông đang giảng một khoá về “chủ nghĩa cấp tiến quý tộc” của Nietzsche ở đại học Copenhagen; Strindberg viết rằng ông đang đưa những tư tưởng của Nietzsche vào kịch nghệ; và có lẽ điều hay hơn cả là một người hâm mộ vô danh đã gửi một chi phiếu 4000 Mỹ kim. Nhưng khi những mảnh tia sáng như thế đến, thì Nietzsche đã gần như mù loà về thị giác lẫn tâm hồn, chàng đã bỏ hy vọng, “Thời tôi chưa đến”, -chàng viết – “chỉ có cái ngày sau ngày mai mới thuộc về tôi” (Đây, con người, 55).
Tai hoạ cuối cùng xảy đến ở Turin vào tháng giêng năm 1889, dưới hình thức một cơn trúng gió, chàng lảo đảo quờ quạng đi trở về gian phòng sát mái của chàng, và tung ra những bức thư điên: gởi cho Cosima Wagner bốn chữ – “Ariadne, anh yêu em”; gởi cho Brandes một thư dài hơn, ký tên “Đấng Bị Đóng Đinh” (trên thập giá -chú thích của người đánh máy-) và gởi cho Burckhardt và Overbeck những bức thư quái dị đến nỗi Overbeck vội vàng đến thăm chàng. Ông bắt gặp Nietzsche đang nện chiếc dương cầm bằng hai khuỷu tay, vừa hát vừa gào lên cơn mê cuồng kiểu Dionysus.
Ban đầu họ đưa chàng đến một viện dưỡng trí, nhưng mẹ già chàng liền đến xin đem chàng về dưới sự săn sóc đầy bao dung của bà. Cảm động làm sao ! Người đàn bà ngoan đạo ấy đã chịu đựng một cách đau đớn nhưng kiên nhẫn cơn kinh hoàng trước sự bội giáo của con bà, đối với tất cả những gì bà yêu quý, song không vì thế mà bớt yêu thương chàng, bây giờ bà đang đón nhận chàng trong đôi tay, như hình ảnh một Pieta. Bà chết năm 1897, và Nietzsche được em chàng đem đến sống ở Weimar. Ở đây Kramer đã nặn một bức tượng của chàng – một cảnh đau lòng, cho ta thấy bộ óc một thời oanh liệt bây giờ đã tan rã, vô vọng. Tuy nhiên chàng không phải hoàn toàn bất hạnh; niềm bình an mà chàng chưa bao giờ hưởng được lúc lành mạnh bấy giờ đã đến với chàng. Trời đã thương khi làm cho chàng điên loạn. Một lần bắt gặp em chàng khóc khi nhìn chàng, Nietzsche không thể hiểu được, chàng hỏi: “Này Lisbeth, tại sao em khóc ? Chúng ta không hạnh phúc đấy hay sao ?”. Vào một dịp khác, khi nghe nói đến sách vở, gương mặt xanh xao của Nietzsche vụt ngời sáng: “A, tôi cũng thế, tôi cũng đã từng viết vài cuốn sách hay !”. Rồi giây phút minh mẫn ấy vụt tắt.
Chàng mất năm 1900. Chưa ai từng phải trả một giá lớn lao đến thế cho thiên tài./.
HẾT
Will Durant