CHỈ SỐ GDP ĐÃ HẾT THỜI ?
GDP là chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng được sử dụng rộng rãi khi đánh giá sức mạnh của một nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số này ngày càng bộc lộ nhiều điểm hạn chế.
Giá cắt tóc ở Bắc Kinh có điểm gì chung so với giá dịch vụ tình dục ở London? Câu trả lời khá đơn giản: quy mô nền kinh tế Trung Quốc và Anh sẽ tăng lên hoặc giảm xuống phụ thuộc vào cách mà bạn đo đếm các loại giá cả này.
Hồi tháng 4, các chuyên gia thống kê làm việc dưới sự bảo trợ của Ngân hàng thế giới vừa đưa ra nhận định GDP của Trung Quốc lớn hơn nhiều so với các số liệu đã được công bố. Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trong tương lai gần hơn nhiều so với các dự đoán trước đây. Tại sao lại như vậy? Các nhà phân tích đã tính giá quá cao đối với tất cả mọi thứ, từ giá của dịch vụ cắt tóc cho đến một bát mì. Vì vậy, họ cũng đánh giá thấp sức mua của người Trung Quốc cũng như qui mô thật sự của nền kinh tế.
Đến tháng 5, các chuyên gia thống kê của Anh lại đưa ra một kết luận gây sốc. Họ tuyên bố rằng thực chất GDP của Anh cao hơn 5% so với các phép tính trước đó. Điều này giống như tự nhiên bạn phát hiện ra hàng tỷ bảng Anh được giấu sau chiếc ghế sô-pha vậy. Lý do lần này là các nhà thống kê bắt đầu tính đến cả đóng góp của ngành mại dâm và buôn ma tuy vào GDP.
GDP – tổng sản phẩm quốc nội – đã trở thành một thuật ngữ thông dụng trên toàn cầu, đươc sử dụng để đo lường sự thành công của một nền kinh tế. Các quốc gia được đánh giá dựa trên chỉ số GDP. Các chính phủ được hoan nghênh hay bị chỉ trích cũng nhờ vào hiệu quả kinh tế mà các chính sách đem lại và điều này được thể hiện qua GDP. Các chỉ số, từ mức độ nợ cho tới sự đóng góp của ngành sản xuất, cũng được tính trên % GDP.
Vậy định nghĩa chính xác của GDP là gì? Ngoại trừ một số chuyên gia, hầu hết mọi người đều khá mơ hồ về khái niệm này. Càng đi sâu vào phân tích GDP – một trong những ý tưởng quan trọng nhất của xã hội hiện đại – khái niệm này càng trở nên khó nắm bắt.
Diane Coyle – nhà kinh tế học gần đây đã xuất bản cuốn sách cùng chủ đề này – là người bảo vệ quan điểm GDP là một công cụ để tìm hiểu nền kinh tế và nắm bắt những hạn chế của nó. “Không có thực thể nào giống như GDP. Đây là một cấu trúc nhân tạo, một khái niệm trừu tượng bao gồm tất cả mọi thứ, từ dịch vụ làm móng đến bàn chải đánh răng, máy kéo, giày dép, dịch vụ cắt tóc, dịch vụ tư vấn quản lý, dọn dẹp đường phố, dạy yoga, chén đĩa, sách vở cùng hàng triệu dịch vụ và sản phẩm khác”, Coyle nói. Những người đo lường GDP không làm những công việc như đo khối lượng của một ngọn núi hay kinh độ trái đất. Thay vào đó, họ đưa ra các con số một cách trừu tượng.
Đáng ngạc nhiên, GDP là một ý tưởng khá mới mẻ. Tài khoản quốc gia đầu tiên tương tự với khái niệm dùng trong xã hội hiện nay được thành lập ở Mỹ năm 1942. Không có gì là lạ khi trước đó các chính phủ có thói quen không bận tâm đến việc đo lường quy mô của nền kinh tế. Cho đến cuộc cách mạng công nghiệp, xã hội nông nghiệp gần như không tăng trưởng. Kích thước của một nền kinh tế vì vậy hầu như phụ thuộc vào qui mô dân số của nước đó. Năm 1820, Trung Quốc và Ấn Độ đóng góp gần một nửa hoạt động kinh tế toàn cầu, nhờ có dân số đông.
* *
*
Simon Kuznets là nhà kinh tế học người Mỹ gốc Belarut được coi là đã phát minh ra khái niệm GDP trong những năm 1930. Cựu Tổng thống Mỹ Franklin Delano Roosevelt đã yêu cầu Kuznets đưa ra một bức tranh chính xác cho nền kinh tế nước Mỹ sau giai đoạn khủng hoảng kéo dài. Roosevelt muốn thúc đẩy nền kinh tế thông qua gia tăng chi tiêu công. Phép tính toán của Kuznets cho thấy nền kinh tế đã giảm đi một nửa kích thước từ năm 1929 cho đến năm 1932.
Khi phân tích số liệu, Kuznets tỏ ra rất tỉ mỉ. Nhưng chính xác thì nên đo lường những gì? Kuznets đi theo hướng chỉ tính đến những hoạt động mang lại của cải cho xã hội. Tại sao phải quan tâm đến những thứ như chi tiêu cho vũ khí khi hoạt động này ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người? Đồng thời, ông cũng muốn loại trừ các yếu tố như quảng cáo (vô dụng), hoạt động tài chính và đầu cơ (nguy hiểm) và chi tiêu chính phủ (trùng lặp bởi đó cũng là từ thuế mà ra). Có lẽ, ông sẽ rất sửng sốt trước ý tưởng có nhiều hơn ma túy và gái mại dâm lại giúp kinh tế tăng trưởng.
Kuznets đã thua cuộc. Ngày nay, GDP bao gồm cả các giao dịch buôn bán vũ khí và lượng phí mà các ngân hàng đầu tư thu được. Họ không phân biệt giữa nhân tố “có ích” cho xã hội (như giáo dục) và nhân tố “nguy hại” hoặc không phải lúc nào cũng cần (như đánh bạc hay chi phí khắc phục hậu quả sau bão Katrina hoặc để phòng chống tội phạm).
* *
*
Điều quan trọng đầu tiên để hiểu về GDP là đây là thước đo của các dòng chảy hàng hóa liên tục chứ không phải những thứ ở trong kho. Một nước có GDP cao có thể đã tận dụng tối đa tài nguyên cơ sở hạ tầng nhằm tối đa hóa thu nhập. Nước Mỹ với hệ thống sân bay lâu đời và đường xá thiếu hụt là ví dụ tiêu biểu cho lập luận trên.
GDP cũng không tính đến những tài nguyên đã cạn kiệt. Trung Quốc liên tục đạt mức phát triển hơn 10%/năm trong 30 năm gần đây. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến dự trữ giàu mỏ và khí đốt của nước này. Điều mà các nhà kinh tế học gọi là “nhân tố ngoại lai” (như ô nhiễm môi trường) cũng không được tính đến. Mất bao nhiêu tiền để dọn sạch các con sông bị ô nhiễm và tái phủ xanh các cánh rừng bị đốn trụi dường như không liên quan đến việc tính toán GDP.
Coyle cho rằng GDP “không cung cấp được sự đánh đổi giữa hiện tại và tương lai”. Công nghệ hiện đại có thể giúp chúng ta tìm ra giải pháp thay thế các nguồn tài nguyên hữu hạn như kim loại, nhưng GDP không có vai trò gì trong việc thúc đẩy phát triển bền vững.
* *
*
Ngay cả công việc có phần dễ dàng là đo tất cả các thứ được sản xuất ra cũng không dễ dàng như người ta nghĩ. Hãy hãy nhìn vào ví dụ “ổ bánh mì” được đề xuất bởi nhà kinh tế học Ha-Joo Chang (ĐH Cambridge). Khi tính toán giá trị một ổ bánh mì, nếu tính cả thành phần men và bột, chúng ta đã phạm lỗi tính trùng lặp.
Sản phẩm đầu ra được tính toán dựa trên giá trị gia tăng: chúng ta lấy giá trị của ổ bánh mì trừ đi giá trị các yếu tố đầu và trung gian. Bánh mì là một sản phẩm khá đơn giản. Nhưng hãy thử tính toán giá trị gia tăng của một chiếc ô tô hay điện thoại iPhone – những sản phẩm dựa vào chuỗi cung ứng toàn cầu khổng lồ và phức tạp. Không có gì lạ khi Hệ thống tài khoản thống kê quốc gia của Liên hợp quốc, bản thống kê và phân tích GDP kéo dài hơn 70 trang.
GDP thống kê về số lượng tốt hơn là chất lượng – ông Chang, người vừa xuất bản quyển sách mang tên: Kinh tế học- cẩm nang cho người sử dụng”, chia sẻ. Trong cuốn sách này, ông đưa ra cái nhìn thú vị về các giả thuyết kinh tế nổi tiếng. Hãy nhìn vào bộ dao, thìa nĩa được bày trên bàn ăn. Xét về sản lượng, một bộ gồm 3 thìa cũng có giá trị ngang bằng với một bộ dao, thìa, nĩa. Nhưng rõ ràng nếu xét về mặt chất lượng thì không phải như vậy.
Một trong những thất bại lớn nhất của GDP là cách nắm bắt ngành dịch vụ. Đây là vấn đề lớn bởi tại nhiều nước phát triển là dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 2/3 GDP. Các nhà thống kê đã làm khá tốt việc tính toán các tài sản hữu hình như gạch đá, sắt thép. Tuy nhiên, họ gặp nhiều khó khăn với các tài sản vô hình như dịch vụ thiết kế, các hợp đồng mua bán máy bay hay các hợp đồng tài chính. Làm thế nào để so sánh năng suất của một bác sĩ phẫu thuật não ở Brazil với một kỹ sư ở Đức hay một nhà đầu tư tài chính ở Nigeria?
Chúng ta hãy trở lại với ví dụ dịch vụ cắt tóc ở Bắc Kinh. Chúng ta không thể biết chính xác giá tiền cho mỗi kiểu đầu khác nhau, vì vậy bạn cần tập trung vào một mẫu nhất định. Bạn kết luận rằng trung bình giá tiền cắt tóc ở Bắc Kinh rẻ bằng một nửa so với New York. Nhưng làm thế nào để biết bạn đang so sánh điều gì với điều gì? Bạn so sánh dựa trên chất lượng dịch vụ, kỹ năng của người làm hay độ sáng của màu tóc khi hoàn thành? Liệu bạn có bỏ lỡ điều gì trong quá trình cắt tóc? Khi xem xét hiệu quả làm việc của một y tá, chúng ta nên so sánh số lượng bệnh nhân họ chăm sóc trong ngày hay chất lượng dịch vụ mà họ cung cấp?
Nhiều người cho rằng lập luận này không thuyết phục. Giá của dịch vụ được quyết định dựa trên khả năng chịu đựng của thị trường. Không ai trả tiền cho dịch vụ tồi.
Tuy vậy, vẫn còn một vấn đề quan trọng cần gây tranh cãi. Dịch vụ nhiều hơn liệu có tốt hơn? Điều này ảnh hưởng lớn đến quá trình tính toán GDP. Lấy ví dụ về ngành ngân hàng. Trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, ngành tài chính Mỹ liên tục có bước phát triển ngoạc mục, đóng góp tới 8% GDP năm 2009. Tuy nhiên, cuối cùng thì ai cũng phải thừa nhận rằng khu vực ngân hàng lớn hơn không phải lúc nào cũng tốt. Đa số sự mở rộng qui mô có nguồn gốc từ việc tăng công suất để tạo ra những sản phẩm “phức tạp”, trong số đó nhiều sản phẩm mang lại ảnh hưởng tiêu cực. Khu vực ngân hàng đã làm giảm GDP thay vì tạo thêm GDP.
Ngành dược phẩm y tế cung cấp một ví dụ khác. Nước Mỹ chi khoảng 18% GDP cho việc chăm sóc sức khỏe, hầu hết trong số đó là tiền bảo hiểm, chi phí thuốc men ngày càng tăng cao và các thủ tục không cần thiết. Tuy vậy, kết quả đạt được là tuổi thọ và chất lượng cuộc sống cũng không vượt trội hơn so với nhiều nước chỉ dành một nửa số tiền trên.
Trong khi một vài dịch vụ được chú trọng quá mức, các dịch vụ khác lại bị bỏ qua. GDP chủ yếu tính đến những thứ được mua và bán. Những hoạt động phi thị trường hoàn toàn “vô hình”. Ví dụ tiêu biểu nhất là làm việc nhà. Không có ai trả tiền cho những công việc như nấu ăn, dọn nhà, chăm sóc con cái hay người lớn tuổi trong gia đình. Lý do được đưa ra là phần lớn những công việc trên được thực hiện bởi phụ nữ và thường bị đánh giá thấp. Thêm nữa, rất khó để đo lường và tính toán những công việc này.
Tuy vậy, thật vô lý nếu hoàn toàn bỏ qua nó. Ở Nhật Bản, chính phủ đang tổ chức một chiến dịch vận động nhằm kêu gọi thêm nhiều phụ nữ đi làm để góp phần tăng trưởng GDP. Đây có thể là một ý kiến hữu ích. Tuy nhiên, chúng ta nên có những bước đi thận trọng và thử nghiệm trước. Hãy tưởng tưởng nhiều phụ nữ được cho là thất nghiệp, nhưng họ phải chăm sóc con cái và người già trong gia đình mỗi ngày. Giả sử mỗi người phụ nữ như vậy sẽ làm công việc tương tự nhưng được trả lương theo giờ tại nhà hàng xóm. Điều này có thể giúp Nhật Bản tăng cường GDP. Nhưng xét về lượng công việc được thực hiện, hầu như không có gì thay đổi. Điều khác biệt duy nhất là người già sẽ được chăm sóc bởi một người lạ thay vì người thân – chính phủ cũng tạo thêm nguồn thuế thu nhập mới.
Chênh lệch giàu nghèo, một chủ đề đang rất được quan tâm tại nhiều nền kinh tế phát triển, cũng là nguyên nhân khiến GDP không còn là chỉ số chính xác. Sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ được đánh giá là thần kỳ trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, theo Robert Reich – cựu Bộ trưởng Bộ lao động và hiện nay là giáo sư tại trường đại học California, tiền lương trung bình sau khi đã điều chỉnh lạm phát hầu như không có sự cải thiện kể từ những năm 1970. Chỉ nhóm 1% được hưởng lợi từ tăng trưởng.
Mặt khác, Coyle cho rằng, GDP không có khả năng biểu đạt một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nền kinh tế hiện đại: sự đổi mới. Các thiết bị như máy tính luôn được đổi mới và phát triển liên tục. Nếu hôm nay bạn mua máy tính mới có chức năng tốt hơn bốn lần chiếc máy bạn mua năm ngoái nhưng giá cả lại như nhau, điều này có nghĩa giá thật sự của chiếc máy tính đó đã bị giảm xuống. Nói cách khác, bạn đang giàu lên.
Giống như tác giả Jeremy Rifkin đã chỉ ra trong quyển sách mới xuất bản mang tên The Zero Marginal Cost Society (tạm dịch: Chi phí cận biên xã hội bằng 0), giá cả của nhiều sản phâm – như nhạc điện tử, các dịch vụ chia sẻ xe hơi trên mạng Internet, Wikipedia, năng lượng mặt trời, Skype – đang có xu hướng gần bằng 0. Làm sao để chúng ta đánh giá các hoạt động của nền kinh tế nếu như những sản phẩm đó đều miễn phí? Cách đây không lâu, hàng triệu người chết vì không có thuốc kháng sinh trong khi ngày nay nó chỉ đáng giá vài xu. “Nếu mọi người đều có cuộc sống tốt hơn, ăn uống đầy đủ và có nhiều thời gian nghỉ ngơi, có thể nói rằng xã hội đã giàu lên.”
Điều này dẫn đến một câu hỏi mang tính triết học: liệu chúng ta có cần tăng trưởng? Nhận thức về việc GDP đang mất dần khả năng nắm bắt thực tế xã hội và nền kinh tế đã khiến nhiều nhà khoa học tìm cách đổi sang phương pháp đo lường khác. Cựu thủ tướng Pháp Nicolas Sarkozy lập ủy ban kêu gọi các nhà kinh tế hàng đầu như Joseph Stiglitz và Amartya Sen thảo luận để tóm ra biện pháp tốt hơn. Họ đi đến kết luận rằng tiêu chuẩn của chúng ta về việc đánh giá một nền kinh tế là chưa hợp lý. Tồi tệ hơn, họ nghĩ rằng tập trung quá nhiều vào phát triển GDP dễ dàng khiến các nhà chính trị đi sai hướng – ví dụ như việc mở rộng ngành ngân hàng quá đà, và bỏ quyên những nhu cầu thiết yếu hơn về giáo dục, y tế.
* *
*
Một số người cho rằng nên thay GDP bằng chỉ số hạnh phúc – chỉ số đo lường sự phát triển của con người trong một môi trường toàn diện. Theo đó Bhutan xếp số 1 thế giới. Tuy nhiên, chỉ số này nhận được khá nhiều nghi vấn.
Một giải pháp khác là chỉ số phát triển con người – đo lường tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục cũng như chất lượng cuộc sống. Theo đó, Bhutan lại đứng hạng 140 thế giới, cao hơn hai bậc so với Cộng Hòa Congo (Na uy đứng hạng nhất và Nigeria đứng hạng chót 187).
Nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế học Robert Skidelsky đã đưa ra một nghiên cứu sâu hơn về tăng trưởng và đưa ra kết luận rằng theo đuổi sự tăng trưởng GDP là một việc hết sức vô ích. Với sự giúp đỡ của con trai là nhà tâm lý học Edward Skidelsky, ông đã xuất bản cuốn sách: “How Much is Enough? Money and the Good Life “ (tạm dịch: Bao nhiêu là đủ? Tiền bạc cho một cuộc sống tốt?). Câu hỏi được đưa ra dựa trên thực tế phổ biến: con người trong xã hội hiện đại luôn theo đuổi các giá trị vật chất, nhưng liệu nó có đem lại cho họ hạnh phúc thật sự?
Hai cha con nhà Skidelsky chấp nhận rằng các nước nghèo cần cải thiện tốc độ phát triển để theo kịp với mức sống ở các nước phương Tây. Tuy nhiên, họ cũng tự hỏi tại sao xã hội giàu có cũng bị ám ảnh về tốc độ phát triển. Luận điểm đầu tiên đến từ một bài viết từ năm 1930 của John Maynard Keynes. Ông đưa ra giả thuyết khi tiêu dùng đạt một mức nhất định, động lực làm việc sẽ giảm xuống. (Một nhược điểm khác của GDP là nó không thể hiện số giờ làm việc cần thiết). Trong thời kỳ phát triển, Keynes cho rằng con người sẽ từ bỏ cơ hội để tiêu dùng nhiều hơn, đánh đổi để thỏa mãn các nhu cầu giải trí. Ông giả định rằng đến lúc đó con người phải làm việc chưa đến 15 giờ 1 tuần.
Vài tháng trước, tác giả bài viết này có buổi nói chuyện với Skidelsky (cha) ở Hong Kong. Tôi hỏi ông rằng lý thuyết của Keynes đã sai ở đâu. Chúng tôi ngồi trò chuyện ở sảnh một khách sạn 5 sao. Trong cuộc nói chuyện, nhiều máy bay trực thăng cất cánh tới Macau, mang theo những con bạc đến vùng đất hứa nơi họ có thể thỏa mãn giấc mơ kiếm tiền. Tại sao con người lại có lòng tham vô đáy như vậy? Một trong những lý do là nhu cầu chỉ mang tính chất tương đối – ông nói. Nếu tất cả mọi người đều giàu có, chúng ta sẽ thi nhau bay tới những bãi biển Caribbean, cố gắng hưởng thụ với những người cùng tầng lớp, được phục vụ Martinis và canapés đến tận bàn.
Một lý do khác là sự bất bình đẳng. Một phần năm dân số Anh sống dưới mức nghèo, ông chia sẻ. Thay vì phân phối sự giàu có một các công bằng, thực tế lại đi theo hướng ngược lại. Điều này khiến chúng ta rơi vào tình cảnh luẩn quẩn không bao giờ kết thúc. “Chúng ta cần phát triển, tiếp tục phát triển mà không có mục đích cụ thể,” ông nói.
Cuốn sách của Skidelsky bị chỉ trích là ngộ nhận về điều gì là tốt nhất cho con người, và đâu là giới hạn họ nên có. Coyle hoàn toàn phản đối công trình nghiên cứu này. Bà cho rằng khái niệm về cuộc sống tốt đẹp mà hai cha con nhà Skidelsky đưa ra đến từ một tầng lớp đặc biệt của xã hội Anh. Vấn đề là các tác giả này không tính đến việc nhu cầu thay đổi, và họ cũng không chú ý quá nhiều đến cải tiến công nghệ trong khi yếu tố này đóng vai trò then chốt.
Nằm ở trung tâm của cuộc tranh luận về GDP là người ta lo ngại xã hội hiện đại bằng cách nào đó đang bị “tấn công” bởi một chỉ số đơn nhất. Không ai có thể tưởng tượng rằng chỉ một con số trừu tượng có thể trở thành một mục tiêu xứng đáng với ý nghĩa của nó. GDP đã trở thành biểu tượng đầy quyền lực cho những gì chúng ta cần đạt được. Rất ít nhà kinh tế học nhận ra những hạn chế của nó. Đa số luôn cố tìm cách để tối đa hóa con số này bằng mọi giá.
Coyle cho rằng thế giới nên tìm ra những phương pháp khác nhau để phản ánh tình hình kinh tế. Bà ủng hộ quan điểm được gọi là “phương pháp bảng biểu”. Chỉ số cuộc sống tốt đẹp hơn (The Better Life Index) được đưa ra bởi Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cho phép người sử dụng so sánh hiệu suất vận hành của các nước dựa trên 11 tiêu chí từ mức thu nhập, nhà ở, sự cân bằng giữa làm việc và giải trí… Bằng cách sử dụng những tiêu chí phản ánh rõ nhất những điều cơ bản trong cuộc sống, chúng ta có thể đánh giá độ hiệu quả của một nền kinh tế. Nếu xét về tiêu chí việc làm, Thụy Sĩ và Na Uy là nơi có điều kiện lý tưởng nhất. Mặt khác, nếu bạn muốn so sánh về mức thu nhập và chất lượng giáo dục, Mỹ là nơi tốt nhất.
Về mặt lý thuyết, phương pháp này cho phép mọi người quyết định điều gì là quan trọng nhất và khuyến khích các nhà chính trị đưa ra những giải pháp thích hợp để thỏa mãn những nhu cầu này. Trong thực tế, sự kết hợp của nhiều tiêu chí được qui định theo các góc độ và trường hợp khác nhau khiến vấn đề trở nên rắc rối và mang tính chủ quan hơn. GDP có thể trở nên lỗi thời và gây ra nhầm lẫn. Nó không thể tiếp tục biểu hiện sự đánh đổi giữa hiện tại và tương lai, giữa làm việc và giải trí, giữa sự phát triển “tốt” và “xấu”. Tuy nhiên, ưu điểm của nó vẫn thể hiện ở dạng một con số đơn giản và mang ý nghĩa cô đọng. Trong thời điểm hiện tại, đây vẫn là một giải pháp được ưu chuộng.
Theo TRÍ THỨC TRẺ