CHÙM NHO PHẪN NỘ (Chương11)

John Steinbeck

Nhà cửa bị bỏ rơi trên ruộng đất và cũng vì vậy, mà ruộng đất cũng bị bỏ rơi. Duy chỉ có những căn nhà để máy cày, những căn nhà kho mái tôn lượn sóng, sáng như bạc và chói lọi là còn sống trong cảnh hoang mạc này. Và đây là cuộc sống của kim khí, của xăng nhớt trong ánh lấp lánh của các lưỡi cày thép. Các đèn pha máy cày bật sáng, bởi vì đối với máy cày thì không có ngày cũng không có đêm, các lưỡi cày lật trở đất trong buổi đêm và lấp lánh dưới ánh ban ngày. Khi một con ngựa đã làm xong công việc, vội trở về chuồng, thì vẫn còn cuộc sống, vẫn còn sức sống. Vẫn còn hơi thở và khí nóng, vẫn còn những tiếng sột soạt của các móng guốc dẫm trong rơm, vẫn còn tiếng lào xào của đôi hàm nhai nghiến cỏ khô, và tai mắt vẫn còn sống động. Trong chuồng ngựa còn có hơi nóng của sự sống, còn có cái hăng hái và mùi vị của sự sống. Nhưng khi động cơ của một máy cày thôi không quay nữa, thì lúc đó nó cũng chết luôn như thứ khoáng sản đã tạo sinh ra nó vậy. Sức nóng rời bỏ nó chẳng khác hơi nóng động vật ở một xác chết. Thế là các tấm cửa bằng tôn luôn sáng đóng lại, người lái trở về nhà y, đôi khi cách đấy hai mươi dặm đường, và y có thể ở lại đấy hàng tuần hay hàng tháng mà không quay lại, bởi một lẽ máy cày đã chết rồi. Mà điều đó là đơn giản, và đem lại năng suất tốt. Giản đơn đến nỗi lao động mất đi tất cả tính cách kỳ diệu, hữu hiệu đến nỗi cái kỳ diệu rời bỏ đấy và việc trồng trọt đất đai, và cùng với cái kỳ diệu, mất luôn sự am hiểu sâu xa và mối liên hệ mật thiết. Và ở con người lái máy cày, lớn dần mãi sự khinh miệt thường đang xâm chiếm kẻ xa lạ, vì hắn chỉ có sự hiểu biết sơ qua và không có mối liên hệ gắn bó. Bởi lẽ, chất nitrat đâu phải là đất, và độ dai của các sợi bông không phải là đất, chất than không phải là con người, chất muối hay nước cũng thế, hoặc chất vôi cũng thế. Con người là tất thảy những thứ đó, nhưng lại còn hơn thế, hơn thế nhiều, và đất đai còn hơn hẳn, hơn nhiều so với sự phân tích đất đai. Con người hơn hẳn tính chất hóa học của mình, đi trên ruộng đất của mình, quay lưỡi cày để tránh một hòn đá, hạ bắp cày xuống để lướt qua một vết lộ, quì xuống đất để ăn cơm, con người ấy hơn hẳn những yếu tố đã hình thành y, biết rõ đất, thứ đất hơn hắn sự phân tích về đất. Nhưng con người – máy đang lái một chiếc máy cày chết trên một mảnh đất hắn không quen biết, hắn không yêu mến, chỉ hiểu có hóa học, hắn khinh miệt đất ruộng và tự khinh miệt bản thân. Khi các tấm cửa tôn đã khép trở lại, hắn trở về nhà hắn, nhưng nhà hắn đâu có phải là đất ruộng.
Các cánh cửa các ngôi nhà trống trơ đập lách cách trong gió. Từng tốp trẻ con từ các làng lân cận đi tới để đập phá cửa kính, sục sạo bới móc các đống rác rưởi, sục sạo tìm kiếm của báu.
Đây có một con dao lưỡi bị sứt mẻ một nửa. Có được là tốt. Ngửi xem… thoang thoảng mùi chuột chết ở đây. Và nhìn xem thằng Winfield đã viết gì trên tường. Đúng là điều nó đã viết lên tường các buồng vệ sinh ở nhà trường và ông giáo đã bắt nó xoá.
Dân cư vừa đi ra khỏi thì buổi tối ngày đầu tiên, những con mèo đi săn trên các đồng ruộng trở về kêu meo meo dưới mái hiên. Chẳng có ai đi ra, các chú mèo lách vào qua các cánh cửa sổ bỏ ngỏ và chạy khắp các căn buồng bỏ trống, vừa chạy vừa meo meo. Rồi chúng quay trở lại đồng ruộng và từ nay sống cuộc đời mèo hoang săn bắt chuột đồng, ban ngày thì ngủ trong các rãnh hố. Ban đêm, lũ dơi, trước thường ở ngoài nhà vì sợ ánh sáng, bây giờ ùa vào bên trong, bay chấp chới ngang qua những căn buồng trống; chẳng mấy chốc, tới ban ngày chúng nấp trong các phòng tối tăm, xếp cánh lại và treo ngược ở các rầm nhà, và mùi phân dơi xông lên khắp các căn nhà hoang.
Rồi lũ chuột nhắt đổ tới, tích trữ hạt trong các xó nhà, trong hộp, trong các ngăn kéo nhà bếp. Rồi những con cầy tới săn chuột, rồi những con cú lông nâu bay vào bay ra, vừa bay vừa hú.
Tiếp đến, một cơn mưa rào đổ xuống. Cỏ mọc trên các bậc lên trước cửa – nơi mà chúng chưa từng được lan tới – và cỏ mọc giữa các kẽ tấm ván của hàng hiên. Nhà cửa bị bỏ hoàng và một ngôi nhà hoang thì chóng xiêu vẹo. Trên các lớp vách gỗ, các tấm gỗ nứt nẻ, long ra ngoài những chiếc đanh rỉ. Sàn nhà phủ một lớp bụi trên đó chỉ in lấm chấm dấu vết chân chuột, cầy và mèo.
Một đêm kia, gió giật tung một tấm ván mái nhà và ném nó xuống đất. Ngọn gió tiếp theo luồn vào lỗ trống vừa rồi và bóc thêm ba tấm. Trận gió thứ ba cuốn đi mười hai tấm, mặt trời nóng bóng ban trưa rọi qua lỗ hở in lên sàn nhà một vòng tròn chói loá mắt. Ban đêm từ ngoài cánh đồng, những con mèo hoang luồn bò vào trong nhà nhưng không đứng ở ngưỡng cửa mà kêu meo meo, chúng săn chuột trong các căn buồng. Rồi vào những đêm giông tố, các cánh cửa lớn đập sầm sầm và ở các cửa sổ mà các tấm kính đã bị vỡ, các bức rèm rách tả tơi bay phập phồng, lất phất.

hết: Chương 11, xem tiếp: Chương 12

Tìm Kiếm