Chuông Gọi Hồn Ai (18)
Chương 18
Có thể nói đó là một vòng quay trong kỳ hội chợ, Robert Jordan nghĩ thầm. Không phải là vòng quay thật nhanh theo tiếng đại phong cầm máy, với những đứa bé cỡi trên lưng những con bò cái có sừng sơn màu vàng chói, tay cầm gậy bắt vòng trong ánh sáng chập chờn của hai đốt trên đại lộ Maine sụp tối… một vòng quay dựng bên chiếc quán bán cá rán và bên một gian hàng xổ số với vòng bánh xe quay tròn, rà những cái dải bằng da của nó trên những cái ô đánh số, với những hộp đường phèn chất thành hình kim tự tháp dùng làm phần thưởng… Không, đây không phải là một vòng quay loại đó, mặc dù ở đây mọi người vẫn chờ đợi, như những người đàn ông đội mũ cát két, những người đàn bà mặc áo săng đai và để đầu trần ở những nơi đó đang nhìn bánh xe may rủi quay đều. Vâng, mọi người đủ mặt cả. Nhưng đây lại là một cái bánh xe khác. Một cái bánh xe vừa quay tròn vừa lên, xuống.
Bây giờ thì nó đã quay hết hai vòng. Đó là một cái bánh xe lớn quay tròn trên một mặt phẳng nghiêng. Mỗi lần như vậy, nó quay thành một vòng và trở lại khởi điểm. Một phía của nó cao hơn phía khác và trước hết nó đưa ta lên đoạn hạ ta xuống đúng vào chỗ cũ. Và rồi không có lô trúng chàng nghĩ, và không ai muốn bước lên bánh xe đó cả. Nhưng người ta lại ở trên đó từng hồi và người ta quay thành vòng một cách miễn cưỡng. Chỉ có một vòng hình bầu dục lên, xuống, và sau đó người ta lại trở về chỗ cũ. Chàng nghĩ, ta lại về chỗ cũ, và không có gì được giải quyết cả.
Không khí trong hang nóng bức và bên ngoài gió đã ngưng. Giờ đây chàng đã ngồi vào bàn với cuốn sổ tay trước mặt và chàng phác họa phần kỹ thuật của việc phá cầu. Chàng vẽ ba bản phác họa, đặt ra những công thức, ghi chú phương pháp thực hiện vụ nổ bằng hai bức vẽ giản lược như những bức vẽ trong các lớp mẫu giáo, để cho Anselmo có thể kết thúc được khi chàng gặp sự cố trong lúc phá cầu. Chàng hoàn tất mấy búc phác họa và bắt đầu nghiên cứu chúng.
Maria ngồi cạnh chàng, nhìn qua vai chàng. Chàng ý thức sự hiện diện của Pablo ở đầu bàn bên kia và của những người khác đang trò chuyện hoặc đánh bài. Chàng cảm nhận những mùi vị xông lên trong hang, không phải là mùi vị của bếp núc nữa, mà là những mùi vị làm nên từ khói lửa bếp, mùi da thịt đàn ông, mùi thuốc lá, mùi rượu chát và mùi ngai ngái của thân thể. Maria nhìn chàng kết thúc công việc, nàng đặt một bàn tay lên bàn, chàng cầm lấy bàn tay của nàng, đưa nó lên tận mặt chàng và hít lấy hương vị tươi thắm của nước mát và xà bông đen mà nàng dùng để rửa chén. Chàng trả bàn tay về chỗ cũ, không nhìn cô gái và vì chàng tiếp tục vùi đầu trong công việc của mình nên chàng không thấy nàng đỏ mặt. Nàng tiếp tục đặt bàn tay nơi đó, sát bên bàn tay chàng, nhưng chàng không nắm lấy nó nữa.
Chàng đã làm xong dự án về công tác phá hoại, trên một trang sổ mới chàng thảo những điều dặn dò của chàng. Tâm trí chàng trong sáng, thoải mái và chàng lấy làm hài lòng với công việc của mình. Chàng viết đầy hết hai trang giấy và chăm chú đọc lại.
Chàng nhủ thầm, tôi nghĩ như vậy là xong. Như vậy là rõ ràng lắm rồi và không thể nào có những sơ sót, khuyết điểm. Hai đồn canh sẽ bị tiêu diệt và cây cầu của bọn chúng sẽ bị nổ tung đúng theo lệnh của Golz. Đó là tất cả những gì tôi trách nhiệm. Có lẽ tôi không bao giờ nên nhúng tay vào câu chuyện của Pablo. Việc đó rồi cũng sẽ ổn thỏa, bằng cách này hay cách khác. Có mặt Pablo hay không có mặt Pablo trong công tác này, dù sao đi nữa, tôi cũng cóc cần. Nhưng mà tôi sẽ không leo lên cái bánh xe đó nữa đâu. Tôi đã leo lên đó hai lần rồi, và đã hai lần, nó quay tròn và trở về khởi điểm, còn tôi, tôi không quay tròn nữa.
Chàng gấp cuôn sổ tay lại, nhìn Maria nói:
– Hola, guapa, em có hiểu chút gì trong tất cả những điều này không?
– Không, Roberto. – Cô gái nói và nàng đặt bàn tay nàng lên bàn tay hãy con cầm cây viết chì. Xong chưa?
– Xong rồi, tất cả đều được ghi chép và tổ chức chu đáo.
– Đồng chí làm gì đó Inglés? – Pablo hỏi từ cạnh bàn bên kia. Đôi mắt hắn lại có vẻ bối rối.
Robert Jordan nhìn hắn chăm chú. Chàng nghĩ thầm tôi không ngồi lên bánh xe quay tròn nữa đâu. Đừng leo lên bánh xe. Có lẽ nó lại khởi sự quay tròn rồi đây.
– Tôi lo vụ cây cầu. – Robert Jordan lễ độ nói.
– Ra thế nào? – Pablo hỏi.
– Tốt đẹp lắm. Tất cả đều thật khả quan.
– Tôi thì lo vụ rút lui.
Robert Jordan nhìn vào đôi mắt đục ngầu vì rượu của hắn, đoạn nhìn hũ rượu hầu như đã cạn.
Chàng nghĩ thầm, tôi không leo lên bánh xe đâu. Chàng lại uống rượu. Đúng vậy. Đừng leo lên bánh xe. Người ta không bảo rằng tướng Grant đã say bí tỉ một phần lớn trong suốt thời kỳ nội chiến à? Đồng ý là hắn cũng say. Nhưng tướng Grant hẳn sẽ nổi trận lôi đình về sự so sánh này, nếu ông ta trông thấy Pablo, vả lại, tướng Grant thì hút xì gà. Có lẽ phải tìm một điếu xì gà cho Pablo. Đúng là phải thêm vào cái khuôn mặt kia một điếu xì gà trông mới được. Phải kiếm ở đâu ra điếu xì gà cho Pablo đây?
– Thế nào? – Robert Jordan lịch sự hỏi.
– Tốt đẹp – Pablo nói bằng một giọng rõ ràng vừa nặng nề hất đầu lên – Muy bien.
– Đồng chí có ý kiến gì không? – Angustin hỏi, hắn ngồi từ trong góc, đang đánh bài.
– Có – Pablo nói – Nhiều lắm.
– Đồng chí tìm thấy chúng ở đâu đó? Trong hũ rượu à? – Angustin hỏi.
– Có thể – Pablo nói – Biết đâu đó? Maria, đong đầy hũ rượu giùm tôi đi.
– Chính trong vò rượu mới có những ý kiến hay – Angustin nói tiếp tục đánh bạc – Tại sao đồng chí không chung vào đó.
– Không – Pablo trầm tĩnh nói – Tôi tìm chúng trong hũ được rồi.
Robert Jordan nghĩ, hắn cũng không thích leo lên bánh xe. Vậy thì bánh xe phải quay một mình. Tôi không tin người ta có thể ở mãi trên đó được. Cái bánh xe đó bắt buộc đưa tới cái chết. Tôi khoái chí thấy người ta không còn ngồi trên đó nữa. Nó đã từng làm tôi chóng mặt một hai lần gì đó. Nhưng chính bằng những trò tương tự mà những tên say và những kẻ vô lại hoặc hung ác quay cho tới khi chết thì thôi. Nó quay, nó lên cao và hoạt động của nó hẳn không bao giờ y như cũ, và sau đó, nó hạ thấp xuống vừa tiếp tục quay. Chàng nghĩ, nó có thể quay mãi mãi. Đừng ai hòng mang tôi lên đó. Không, ông tướng ạ. Tôi không còn ở trên chiếc bánh xe quay nữa, tướng Grant ạ!
Pilar ngồi cạnh bếp lửa, chiếc ghế kê đúng chỗ để bà ta có thể nhìn qua vai của hai người đang đánh bạc quay lưng về phía bà ta. Bà ta theo dõi cuộc chơi.
Robert Jordan nghĩ, điều kỳ lạ nhất ở đây là sự chuyển tiếp từ những khoảnh khắc phong ba hiểm nghèo tới trạng thái bình yên, ấm cúng của một đời sống gia đình thật sự. Lúc cái bánh xe quỷ quái kia hạ xuống chính là lúc nó móc lấy ta, chàng nghĩ. Nhưng mà không ai có thể đưa tôi lên đó được nữa.
Cách đây hai ngày, tôi vẫn chưa biết rằng Pilar, Pablo và những người khác có mặt ở trên đời này, chàng nghĩ. Cũng không có Maria trên đời này nữa. Lúc đó chắc hẳn là thế giới đơn sơ hơn nhiều. Tôi đã nhận từ Golz những chỉ thị thật rõ ràng và có vẻ như để thực hiện được một cách hoàn hảo mặc dù nó bày ra một vài khó khăn và lôi cuốn theo một số hậu quả. Một khi cây cầu đã bị giựt sập, hoặc tôi sẽ lên đường trở về phòng tuyến hoặc không bao giờ. Nếu vạn bất đắc dĩ mà phải trở về, tôi đã có ý định xin được sống một thời gian ở Madrid. Không có chuyện nghỉ phép trong trận giặc này. Nhưng tôi tin chắc rằng tôi có thể được hai hoặc ba ngày phép ở Madrid.
Ở Madrid, chàng nghĩ, tôi thích đi mua sách báo, đến khách sạn Florida, thuê một phòng, tắm rửa bằng nước thật nóng. Tôi sẽ sai tên gác cửa chạy đi mua một chai rượu ngải nếu hắn có thể tìm ra thứ rượu đó ở Mantequerias Leonesas hay ở bất luận nơi nào tại Gran Via, và rồi sau khi tắm xong, tôi sẽ nằm đọc, vừa uống một hoặc hai ly rượu ngải. Sau đó tôi sẽ điện thoại đến quán Gaylord để coi có thể đến ăn tối tại đó được hay không.
Chàng không thể dùng bữa tối tại Gran Via bởi vì đầu bếp ở đó không khéo tay lắm và chàng phải đến thật sớm mới có hy vọng thưởng thức các món ăn tại đây. Lại nữa, ở đó có nhiều nhà báo quá và chàng không thích phải giữ kẽ trong lời ăn tiếng nói. Chàng thích uống rượu ngải và mặc tình đấu láo. Vậy thì chàng sẽ tới quán Gaylord dùng một bữa tối thật ngon lành với Karkov, uống rượu bia thứ thiệt và thăm dò về diễn tiến của cuộc chiến.
Lần đầu tiên chàng tới Madrid, chàng không thích quán Gaylord nơi những người Nga vừa mới đến, vì nó có vẻ xa hoa quá, ở đó thức ăn có vẻ quá sang trọng so với hoàn cảnh của một thành phố bị bao vây và những câu chuyện có vẻ quá cục súc khi đang có chiến tranh. Nhưng mà mày cũng là một tên dễ bị lôi cuốn lắm, chàng nghĩ. Tại sao người ta không được ăn ngon khi vừa mới hoàn tất một công tác như thế này? Và những câu chuyện mới nghe qua lần đầu chúng có vẻ cục súc nhưng thật ra chúng chỉ nói lên bộ mặt của sự thật. Chàng nghĩ, cái vụ này mà hoàn tất thì cũng đáng mang ra kể lại tại đó lắm. Ừ, khi nó đã hoàn tất.
Có nên dẫn Maria tới quán Gaylord không đây? Không, không thể được. Nhưng chàng có thể để nàng ở lại khách sạn để nàng tắm nước nóng và chàng có thể gặp lại nàng ở đó khi từ quán Gaylord về. Vâng, chàng có thể làm vậy được. Sau đó, khi nói về nàng cho Karkov nghe xong, chàng có thể dẫn nàng đi giới thiệu với bọn họ bởi bọn họ chắc sẽ tò mò và muốn biết nàng.
Có thể chàng cũng không tới quán Gaylord nữa. Chàng có thể đi ăn thật sớm ở Gran Via và trở về khách sại Florida. Nhưng mà mày thừa biết rằng mày sẽ tới quán Gaylord bởi vì mày muốn nhìn lại tất cả ở đó, mày muốn dùng lại một lần nữa những món ăn ở đó, muốn nhìn lại tất cả cái tiện nghi và xa xỉ ở đó sau khi hoàn thành sứ mạng này. Sau đó, mày sẽ trở lại khách sạn Florida và Maria sẽ có mặt ở đó. Chắc chắn là nàng sẽ có mặt ở đó khi sứ mạng đã xong xuôi. Nếu chàng thành công trong sứ mạng này, chàng sẽ rất xứng đáng với một bữa ăn tối tại quán Gaylord.
Quán Gaylord là nơi gặp gỡ của những lãnh tụ nông dân và thợ thuyền nổi tiếng ở Tây Ban Nha, họ đã xuất thân từ quần chúng, không cần trải qua một thời kỳ huấn luyện tại một quân trường nào để có thể cầm súng ngay từ đầu cuộc chiến, và người ta khám phá ra rằng nhiều người trong bọn họ nói tiếng Nga. Vài tháng trước đây, đó chính là nỗi thất vọng lớn lao đầu tiên của chàng, và chàng đã nảy sinh ra vài ghi nhận cay đắng. Nhưng mà sau đó chàng kịp nhận ra rằng sự việc phải như vậy. Họ đúng là nông dân và thợ thuyền. Họ đã tham dự vào cuộc cách mạng năm 1934 và sau khi cách mạng thất bại, họ đã phải trốn khỏi xứ; tại Nga, người ta gởi họ vào học tại trường quân sự và viện Lénine, đặt dưới quyền điều khiển của Cộng sản Đệ Tam, để chuẩn bị những cuộc chiến đấu sắp tới và đón nhận những chỉ thị quân sự cần thiết để trở thành người chỉ huy.
Ở đó, Cộng sản Đệ Tam đã huấn luyện cho họ. Trong một cuộc cách mạng, ta không cho phép những người ủng hộ ta hoặc bất luận ai được biết hơn điều cần biết. Họ đã dạy như vậy. Nếu một điều nào đúng ngay từ nền tảng của nó, người ta có nói dối thì cũng không quan hệ gì. Nhưng mà người ta đã nói dối nhiều quá. Lúc đầu chàng không thích nói dối. Về sau chàng bắt đầu yêu thích sự nói dối. Nó bước vào vai trò của người đảng viên nhưng nơi đó có một cái dốc thật hiểm nghèo.
Chính tại quán Gaylod người ta được biết Valentin Gonzalés mệnh danh là El Campesino hay Tên Nông Dân không hề làm nông dân bao giờ mà là một cựu trung sĩ của đạo quân Lê dương Tây Ban Nha, đã từng đào ngũ và chiến đấu với Abd-el-Krim. Chuyện đó nghe cũng thật ly kỳ. Tại sao không, cần phải có những lãnh tụ nông dân sẵn sàng trong trận giặc kiểu này, và một lãnh tụ nông dân thật sự thì dễ giống Pablo lắm. Người ta không thể đợi một lãnh tụ nông dân chính hiệu ra đời. Vả chăng có thể người đó sẽ có nhiều đặc chất nông dân quá. Vậy thì phải tạo nên một người kiểu đó. Sau những gì chàng trông thấy được ở Campesino, với bộ râu đen, cặp môi dày như người da đen và đôi mắt cuồng nhiệt của hắn, Jordan tự nhủ là hắn phải khó lòng sai khiến và sử dụng chẳng khác gì một lãnh tụ nông dân chánh hiệu. Lần sau cùng chàng gặp lại hắn, hắn có vẻ như đắc chí với điều mà hắn tự quảng cáo cho mình và tưởng hắn là một nông dân chính hiệu. Đó là một con người chắc chắn và gan dạ, gan dạ không ai bằng. Nhưng mà Trời Phật ơi! Hắn lại già chuyện quá đỗi. Và khi mà hắn đã vô cơ rồi thì hắn có thể nói bất kể chuyện gì, không màng gì tới hậu quả của những điều hắn bật mí. Hậu quả thì cũng đã không vừa gì. Nhưng hắn lại tỏ ra là một người cầm binh tuyệt diệu trong những hoàn cảnh hiểm nguy tưởng đã tuyệt vọng. Hắn không bao giờ tuyệt vọng và hắn luôn luôn thoát được.
Tại quán Gaylord, chàng cũng đã gặp tên thợ hồ quèn tên là Enrique Lister ở Galice, hiện đang chỉ huy một sư đoàn và hắn cũng nói tiếng Nga. Chàng cũng gặp ở đó anh chàng thợ mộc tên Juan Modesto ở Andalousie, người ta vừa mới giao một binh chủng cho hắn chỉ huy. Hắn không học tiếng Nga ở Puerto de Santa Maria mặc dù hắn có khả năng theo học nếu ở đó có một trường Berlitz dành riêng cho thọ mộc. Trong số tất cả những quân nhân trẻ, hắn là người mà người Nga tin cậy nhiều nhất, bởi hắn là một đảng viên thật sự, một con người “trăm phần trăm”, như bọn họ vẫn bảo, với sự hãnh diện trong lối nói kiểu Mỹ này. Hắn thông minh hơn Lister El Campesino nhiều.
Vậy quán Gaylord chính là nơi ta phải đến để bổ túc kiến thức của mình. Ở đó người ta biết được tất cả mọi việc xảy ra thế nào thay vì được giả định là sẽ xảy ra. Chàng chỉ cần bắt đầu công việc giáo dục chính mình, chàng nghĩ. Chàng tự hỏi không biết chàng có được làm công việc đó lâu bền không. Quán Gaylord ngon lành và tinh khiết. Chàng chỉ cần có vậy. Lúc đầu, khi chàng còn cả tin vào tất cả những trò ngu xuẩn, quán Gaylord làm chàng khó chịu. Bây giờ chàng có chút đỉnh hiểu biết để chấp nhận sự cần thiết của tất cả những sự dối trá, và những gì chàng thu thập ở quán Gaylorđ chỉ có thể khiến chàng vững tin thêm ở những gì chàng cho là thật. Chàng bằng lòng khi được biết sự việc thật sự xảy ra cách nào chớ không phải như chúng được giả định xảy ra. Trong một cuộc chiến tranh, luôn luôn có những sự dối trá. Nhưng sự thật về Lister, Moderto, và El Campesino có giá trị hơn tất cả mọi sự dối trá và tất cả những huyền thoại. Vâng, một ngày nào đó, người ta sẽ nói lên sự thật cho tất cả mọi người. Và trong khi chờ đợi, chàng bằng lòng có được một quán Gaylord để được tùy nghi đến đó thu thập nhưng thông tin cần thiết.
Vâng, chàng sẽ đến đó một khi có mặt tại Madrid, sau khi đi mua mấy quyển sách, tắm nước nóng, uống rượu và nằm đọc được chút ít. Nhưng mà chương trình này chỉ thực hiện khi chưa có Maria kìa. Vậy thì, họ sẽ mướn hai phòng. Nàng có thể tùy nghi muốn làm gì thì làm trong khi chàng đến đó, và trên đường về từ quán Gaylord, chàng sẽ đến gặp nàng. Nàng đã chờ đợi trong trọn thời kỳ này trên những vùng đồi núi. Nàng có chờ đợi thêm chút nữa ở khách sạn Florida cũng chẳng sao. Hẳn họ sẽ được sống ba ngày tại Madrid. Ba ngày thì quá nhiều. Chàng sẽ đưa nàng đi xem bọn Marx Brothers trong phim “Một đêm ở nhà hát nhạc kịch”. Người ta chiếu phim này đã ba tháng nay rồi và dư sức chiếu trong ba tháng nữa. Nàng sẽ thích phim “Một đêm ở nhà hát nhạc kịch”. Và chàng cũng sẽ thích.
Nhưng mà quán Gaylord thì cách xa cái hang này quá. Không, đó không phải là chuyện khó khăn bực nhứt. Có xa là từ cái hang này đi tới Gaylord. Lần đầu tiên chàng đã đến đó với Kachkine, và chàng đã không lấy gì làm thích nơi đó. Kachkine nói là chàng phải gặp Karkov bởi Karkov thích quen với những người Mỹ và bởi hắn là người khoái Lope de Vega nhất; hắn cho rằng “Fuente Ovejuna” là vở kịch vĩ đại nhất từ xưa tới giờ. Có thể đúng như vậy, nhưng đó không là ý kiến của Robert Jordan.
Chàng thích Karkov, nhưng không thích chỗ đó. Karkov là người thông minh nhứt mà chàng đã gặp. Hắn mang giày ống đen dùng cưỡi ngựa và mặc quần xám áo choàng xám. Chân tay hắn ốm yếu. Mặt mày và thân thể hắn ẻo lả, bịnh hoạn, hắn có lối nói chuyện làm văng nước bọt giữa hai hàm răng hư hỏng xệu xạo của hắn. Lần đầu tiên gặp hắn, chàng thấy hắn có vẻ khôi hài. Nhưng hắn lại là người thông minh, nhiều tư cách, có tính khí ngang tàng và óc trào phúng hơn bất cứ một người nào.
Quán Gaylord tự nó có vẻ xa hoa, trụy lạc một cách quá lộ liễu, sỗ sàng. Nhưng tại sao những sứ giả của một cường quốc cai trị trên một phần sáu quả địa cầu lại không được một chút tiện nghi chớ? Lúc đầu, Robert Jordan khó chịu về tất cả những tiện nghi thừa mứa của bọn họ nhưng rồi sau cùng chàng cũng đã chấp nhận việc đó và ngay cả chính chàng cũng thích như vậy nữa.
Kachkine đã giới thiệu hắn như một mẫu người lạ thường và Karkov lúc đầu đã biểu lộ một phép lịch sự làm cho kẻ khác phải khó chịu, sau đó vì lẽ Robert Jordan không tỏ ra anh hùng chút nào mà lại kể một câu chuyện thật kỳ dị và thật thô lỗ không tốt đẹp gì cho chàng, lúc đó Karkov mới bỏ tác phong lịch sự, ăn nói vung vít, thô lỗ và sau cùng hắn trở nên xỏ lá ba que không chịu được. Sau đó họ trở thành đôi bạn.
Kachkine chỉ được dung thứ trong khung cảnh này. Chắc chắn trong quá khứ hắn có một vết đen nào đó và hắn đã có mặt tại Tây Ban Nha là để cứu chuộc mình. Người ta không cho chàng biết câu chuyện nhưng có thể người ta sẽ cho chàng biết một ngày nào đó bởi Kachkine đã chết. Dù sao Karkov và chàng đã trở thành đôi bạn, và chàng đồng thời cũng là bạn với người đàn bà kỳ lạ, da ngăm ốm yếu, mệt mỏi, tình cảm, nóng tính, chơn thật và dửng dưng, người đàn bà có thân hình hốc hác, không trang điểm, có mái tóc ngắn, hơi điểm bạc là vợ của Karkov, làm thông ngôn trong những đội thiết kỵ. Chàng còn là bạn của tình nhân Karkov, người đàn bà có đôi mắt mèo, có mái tóc màu vàng hung (hung hơn hoặc vàng hơn tùy theo người thợ làm tóc), có thân hình uể oải và đầy nhục dục (một thân hình có lẽ chỉ dùng để dán chặt vào những thân hình khác một cách khoan khoái), một chiếc miệng lúc nào cũng như chờ đợi một nụ hôn, một tâm hồn đần độn, đầy tham vọng và một mực thắng thắn. Cô tình nhân này hay ngồi lê đôi mách và lúc nào cũng dây vào những mối tình thoáng qua, điều này dường như làm cho Karkov lấy làm thích thú. Người ta bảo rằng Karkov còn một người vợ khác nữa ngoài người đàn bà của những đội thiết kỵ, nhưng không ai chắc chắn là điều này có thật hay không. Robert Jordan rất thích cả vợ hắn lẫn cô nhân tình của hắn. Chàng nghĩ, rất có thể chàng cũng thích người vợ khác kia của hắn nếu chàng được gặp nàng ta, giả dụ rằng nàng ta có thật. Karkov là một tên sành sõi về đàn bà kia mà.
Có nhiều lính canh với lưỡi lê gắn sẵn trên nòng súng ở trước quán Gaylord và đó là nơi tràn đầy an lạc của trọn thành phố Madrid đang vị vây khổn. Đêm nay chàng thích có mặt ở đó hơn là ở nơi này mặc dù giờ đây chàng đang rất thoải mái tại đây, khi mà bọn họ đã ngừng bánh xe lại. Và tuyết cũng đã ngừng rơi.
Chàng thích giới thiệu Maria với Karkov nhưng chàng không thể đưa nàng tới quán Gaylord mà không có phép, và chàng cũng cần phải biết người ta sẽ tiếp đón chàng ra sao sau sứ mạng này. Cuộc tấn công chấm dứt, Golz sẽ có mặt đó và nếu chàng thi hành công tác xuất sắc thì hẳn mọi người đều sẽ biết qua Golz. Chắc Golz sẽ không quên chế nhạo chàng về chuyện Maria sau những gì Jordan nói với hắn về vấn đề gái.
Chàng múc một tách rượu trong hũ rượu của Pablo. “Cho tôi xin”, chàng nói.
Pablo ngẩng đầu. Chắc hẳn là hắn đã sẵn sàng trong những kế hoạch quân sự của hắn, Robert Jordan nghĩ. Hắn không tìm kiếm một chiến thắng gian trá trong họng súng cà nông, nhưng tìm kiếm lối thoát cho một vấn đề nằm trong cái chén kia. Dù sao phải nhìn nhận hắn có đầy đủ khả năng để chỉ huy đám người kia một cách thành công cho tới bây giờ. Chàng nhìn Pablo, vừa tự hỏi hắn có thể là loại thủ lãnh du kích nào trong trận nội chiến tại Mỹ. Có hàng khối người loại đó, chàng nghĩ. Nhưng ta không biết nhiều về họ. Không phải là nhóm Quantrill hoặc nhóm Mosby, cũng không phải chính người ông của chàng, nhưng mà là những con người nhỏ bé, những người buôn da thú. Còn về chuyện rượu thì Grant có thật sự là người say xỉn? Ông của chàng đã xác nhận điều đó. Grant luôn luôn say rượu vào khoảng 4 giờ chiều, người nói. Khi ở Vicksburg ông ta đã say nhừ trong hai ngày trời. Nhưng ông chàng lại quả quyết rằng ông ta hành động rất mực bình thường ngay trong lúc say rượu, trừ một đôi khi người ta phải vất vả đánh thức ông ta dậy. Và khi thức dậy rồi thì ông ta rất bình thường.
Cho tới bây giờ ở khắp mọi nơi trong trận giặc này, người ta không thấy một Grant, một Sherman, hay một Stonewal Jackson. Không. Job Stuart cũng không. Sheridan cũng không nốt. Còn cỡ Mc Clellans thì đếm không hết. Bọn phát xít có rất nhiều Mc Clellans trong khi phía chúng ta thì có ít lắm là ba người như vậy.
Quả thật chàng chưa thấy ai là thiên tài quân sự trong cuộc chiến này. Không có đến một mống để làm thuốc. Một mống tàm tạm gọi là cũng chẳng có. Kleber, Lucasz và Hanz đã tỏ ra xuất sắc trong vị trí của họ trong suốt thời gian phòng thủ Madrid với những lữ đoàn quốc tế. Còn Miaja, lão già sói đầu mang kính, tự phụ, đần độn như một con cú mèo, không hở môi, gan dạ và tối đầu như một con bò mộng, lão già mà người ta tuyên truyền là kẻ bảo vệ Madrid đã ganh tị với những tiếng tăm thêu dệt quanh cái tên Kleber đến đỗi đã phải thúc giục người Nga cất chức chỉ huy của Kleber và gởi hắn tới Valence. Kleber là một quân nhân tốt, nhưng lại thiển cận và quá bép xép trong chức vụ của hắn. Golz đúng là một tướng tài, một chiến sĩ gan dạ, nhưng người ta luôn dành cho hắn một địa vị phụ thuộc và không khi nào để hắn được toàn quyền. Cuộc tấn công này chính là một sứ mạng quan trọng vào bực nhứt của hắn cho tới bây giờ, và Robert Jordan không ưa thích gì lắm về tất cả những gì liên quan tới cuộc tấn công ngày. Ngoài ra còn có Hall, người Hung Gia Lợi mà người ta tưởng đã bị bắn chết nếu chỉ tin vào phân nửa những tin đồn ở quán Gaylord. Robert Jordan nghĩ, đúng ra chỉ cần tin vào mười phần trăm thôi.
Chàng thích xem trận đánh trong đó người ta thắng bọn Ý trên vùng cao nguyên nằm ở sau Guadalajara. Nhưng lúc đó chàng đang ở Estramadure. Mười lăm ngày trước, Hans đã nói cho chàng biết điều đó tại quán Gaylord và hắn đã giải thích cho chàng nghe mọi việc. Có một lúc tình thế thật là tuyệt vọng, khi bọn Ý chọc thủng các phòng tuyến ở Trijueque. Nếu con đường từ Torija-Brihuega bị cắt đứt thì lữ đoàn thứ 12 hẳn đã bị bao vây. “Nhưng mà để đánh với bọn Ý, – Hans nói – chúng tôi đã liều thực hiện một cuộc hành binh có thể không hợp lý nếu đụng những lực lượng khác. Và cuộc hành binh thành công”.
Hans đã chỉ cho chàng biết trên những tấm bản đồ về vùng hành quân nơi diễn ra trận đánh. Hắn luôn mang chúng theo bên mình, trong cái cặp giấy của hắn, và lúc nào cũng có vẻ kinh ngạc về chuyện lạ đó. Hans là một quân nhân cừ khôi và một đồng chí tốt bụng. Hắn đã kể lại rằng những đội quân Tây Ban Nha của Lister, Modesto và Compesino đều đã chiến đấu hữu hiệu trong trận giặc này. Đó là nhờ ở tài năng và kỷ luật của những người chỉ huy. Nhưng mà Lister, Compesino và Modesto đã thực hiện phần đông những cuộc hành quân của họ căn cứ trên những chỉ thị của đám cố vấn Nga. Họ giống như những sinh viên phi công lái máy bay với hai bộ phận điều khiển, bằng cách là người huấn luyện viên có thể can thiệp trong trường hợp người sinh viên phạm sai lầm. Rốt cuộc, năm nay ta sẽ thấy những điều họ đã học được. Tới một lúc nào đó, họ không cần lái như thế nữa, và người ta sẽ thấy bằng cách nào tự tay họ, họ điều khiển được hàng sư đoàn và hàng binh chủng.
Họ là người cộng sản và họ có tinh thần kỷ luật. Thứ kỷ luật mà họ yêu sách mang lại nhiều kết quả tốt. Lister rất hung tợn trong vấn đề kỷ luật. Đó là một người cuồng tín thật sự và hắn có tất cả sự miệt thị về đời người rất thuần Tây Ban Nha. Kể từ các cuộc xâm lăng đầu tiên của dân Tartares, không có quân đội nào mà trong đó người ta bị hành hình dễ dàng như dưới sự chỉ huy của hắn. Nhưng hắn biết biến một sư đoàn thành một đơn vị thiện chiến. Giữ một địa thế là một việc. Tấn công và chiếm giữ một địa thế là một việc khác nữa, Robert Jordan nghĩ thầm, chàng đang ngồi trước bàn. Theo những gì tôi biết được về hắn, tôi tự hỏi liệu Liester hành động cách nào nếu bỏ chuyện học lái như thế. Nhưng cũng có thể người ta không bỏ. Hay là họ lại hỗ trợ thêm? Còn quan niệm của người Nga? Phải tới quán Gaylord mà thôi.
Có lúc, chàng nghĩ quán Gaylord không hợp với chàng. Nó là cái gì rất trái ngược với chủ nghĩa cộng sản khắc khổ đạo hạnh, với số nhà 63 Velasquez, đại khách sạn Madrid đã biến thành Tổng hành dinh của Lữ đoàn Quốc tế. Ở 63 Velasquez, người ta có cảm tưởng mình là tín đồ của một hệ phái tôn giáo nào đó. Bầu không khí ở quán Gaylord cũng rất xa lạ với cảm giác của chàng khi đến Tổng hành dinh của liên đội năm trước khi liên đội này giải tán để gia nhập vào những lữ đoàn thuộc quân đội mới.
Ở đó, người ta cảm thấy mình thuộc một đội thập tự quân. Đó là danh từ thích hợp nhứt dù người ta đã sử dụng hay lạm dụng nhiều đến nỗi nó không còn ý nghĩa đích thật của nó nữa. Không kể thói quan liêu, khả năng hạn chế và những tranh luận trong nội bộ đảng, ta vẫn nhận ra một cái gì giống như tình cảm ta vẫn mong đợi, nhưng không thấy, trong buổi lễ ban thánh thể đầu tiên của mình: một tình cảm bổn phận có tính cách tự nguyện đối với tất cả những kẻ bị áp bức trên thế giới chẳng khác gì một kinh nghiệm tôn giáo. Tuy nhiên tình cảm này lại chân thật giống như tình cảm ta có được lúc nghe nhạc Bach hoặc chiêm ngưỡng trong lớp ánh sáng rọi xuống từ các khung kính nhà thờ Chartres hay nhà thờ Leon, hoặc xem tranh Mantegna, Greco và Brueghel tại Prado. Nó cho phép ta tham dự vào một cái gì ta có thể đặt trọn vẹn niềm tin và ta cảm thấy mình hòa đồng hợp nhất với tất cả những tâm hồn khác cũng dấn thân vào đó bằng một tình thân ái tuyệt đối. Cho tới bây giờ tình cảm đó hãy còn xa lạ nhưng nó lại quan trọng biết bao trong khi chính cái chết của ta lại không có vẻ gì quan trọng, một cái gì ta chỉ nên lẩn tránh vì nó ngăn trở ta hoàn tất bổn phận. Nhưng điều tốt hơn hết là ta làm sao để tuân phục vào tình cảm đó và sự cần thiết đó. Để có thể chiến đấu.
Vậy thì mày đã chiến đấu, chàng nghĩ. Trong cuộc tranh đấu, tính cách thuần khiết của tình cảm sớm biến mất nơi những con người còn sống sót, những kẻ thắng trận. Trong sáu tháng, không còn lại gì. Tử thủ một địa điểm hay một thành phố là một hình thức chiến tranh trong đó người ta cảm nghiệm như vậy. Trận Sierra là trường hợp đó. Ở đó, họ đã chiến đấu trong thứ tình đồng chí thật sự của người cách mạng. Ở đó, khi phải tăng cường kỷ luật, chàng lĩnh hội và cảm nhận ngay vấn đề. Dưới áp lực của những quả đại pháo, nhiều người đã vội hoảng sợ và tìm đường lẩn trốn. Chàng đã trông thấy người ta nổ súng vào họ. Người ta đã để mặc cho xác họ sình lên bên vệ đường, không ai màng tới họ nếu không phải là để lột đạn được, giày ống, áo da của họ. Đó là công việc bình thường hợp lý. Đó là một công việc rất thực tế. Để khỏi phải nhường lại cho bọn vô chính phủ.
Bắn vào những kẻ bỏ chạy là đúng đắn và cần thiết. Không có gì sai trái trong những vụ đó cả. Họ bỏ chạy vì ích kỷ. Bọn phát xít đã tấn công và người ta đã chận bước tiến của chúng trên dốc núi thuộc vùng Guadarrama, nơi có toàn những núi đá xám với những cây thông nhỏ và bụi rậm. Quân ta đã kháng cự mãnh liệt trên con lộ dưới những trận mưa bom và sau đó dưới những quả đại pháo khi chúng kịp mang pháo binh tới. Buổi chiều, những người còn sống sót đã phản công và đẩy lui được bọn phát xít. Sau đó, khi chúng cố gắng rút xuống dưới về phía trái, vừa luồn lách giữa những đám núi đá và cây cối, chúng tôi đang chiếm đóng viện điều dưỡng, đã nã súng bắn ra từ các khung cửa sổ và từ trên mái, mặc dầu chúng đã tiến đến hai mặt, và lúc đó chúng tôi mới biết thế nào là bị bao vây, mãi cho tới khi cuộc phản công một lần nữa đẩy lui chúng ra sau con đường.
Trong suốt thời gian đó, trong cơn sợ làm khô cả mồm mép và cuống họng, trong những vụn thạch cao mịt mù và nỗi hãi hùng trước một bức tường đổ sập, cuốn theo ngọn lửa đỏ rực và tiếng gào thét của những quả đại pháo, chúng tôi lấy khẩu súng máy ra, chúng tôi kéo thây các xạ thủ bị đè bẹp đang nằm dưới những mảnh vụn, chúng tôi tháo máy nạp đạn đã hư, kéo thẳng dây đạn, nằm dài sau miếng chắn, và khẩu súng máy lại bắt đầu ria xuống con lộ; chúng tôi đã làm tất cả những gì phải làm và chúng tôi biết rằng chúng tôi có lý. Mày đã biết cảnh mồm mép khô ran, mày đã biết tới niềm phấn khích càng thuần khiết trong sự sợ hãi, tất cả do cuộc chiến đấu đem lại, và trong suốt mùa hè và mùa thu này, mày đã chiến đấu cho tất cả những con người khốn khổ trên thế giới này, chống lại tất cả những bạo quyền, mày đã chiến đấu cho tất cả những điều mày tin tưởng, cho một thế giới mới mà nền giáo dục của mày đã chuẩn bị cho mày. Chàng nghĩ, mùa thu này, mày đã biết người ta phải đau khổ và miệt thị sự đau khổ cách nào, với những ngày dài sống trong cảnh đói lạnh, ẩm ướt và lầy lội khi phải đào đất, đắp mô để chiến đấu. Và cái cảm giác của suốt một mùa hè và mùa thu đã bị vùi dập dưới những cơn mệt mỏi, buồn ngủ, nôn nóng và trong cảnh sống tù túng thiếu tiện nghi. Tuy nhiên tình cảm đó vẫn còn và tất cả những gì chúng tôi chịu đựng đã chỉ xác nhận nó mà thôi. Chàng nghĩ chính trong những ngày tháng đó, mày mới biết được niềm tự phụ sâu xa, tinh khiết và đầy lòng vị tha… niềm tự phụ chỉ có thể biến mày thành một thằng người nhảm nhí, đột nhiên chàng nghĩ như vậy, nếu mày ở quán Gaylord.
Không, ở quán Gaylord, lúc đó, mày sẽ không thoải mái đâu. Mày quá ngây thơ đó thôi. Mày đã sống trong một trạng thái ân sủng. Nhưng có thể quán Gaylord dạo đó không giống như bây giờ. Không, thật ra không phải vậy, chàng tự nhủ. Không phải vậy chút nào. Trong lúc này không có chuyện quán Gaylord.
Karkov đã từng nói với chàng về thời kỳ những người Nga đến Madrid ở tại khách sạn thành phố. Lúc bấy giờ Robert Jordan không biết chuyện. Đó là lúc trước khi thành lập những toán quân du kích đầu tiên, trước khi chàng gặp Kachkine và những người khác. Kachkine ở miền Bắc, tại Irun, thuộc Saint-Sébastien và đã từng tham dự vào những trận đánh non yểu tại Victoria. Hắn chỉ đặt chân tới Madrid vào tháng Giêng trong khi Robert Jordan chiến đấu ở Carabanchel và ở Usera trong suốt ba ngày trời khi mọi người đã chận đứng cánh phải của cuộc tấn công của bọn phát xít vào thành phố Madrid, đẩy lui bọn Maures và bọn Tercio [1] từ nhà này sang nhà khác để giải phóng vùng ngoại ô đang bị bắn phá tơi bời bên rìa vùng cao nguyên xám trải rộng dưới ánh mặt trời gay gắt, sau đó lập một tuyến phòng thủ trên cao để bảo vệ góc thành phố đó, trong khi đó Karkov đang ở Madrid.
Chính Karkov cũng không thể nói về thời kỳ này bằng một giọng trơ trẽn. Đó là thời kỳ mà mọi người ai cũng đã trải qua, thời kỳ mà tất cả dường như đã mất hết, và giờ đây mỗi người còn giữ được kỷ niệm về thái độ cùng tâm trạng của mình khi tất cả đã tiêu ma, kỷ niệm đó còn quý báu hơn cả một chiếc huy chương hay một cuộc tuyên dương công trạng. Chính phủ đã rời khỏi thành phố, mang theo tất cả những chiếc xe thuộc Bộ Chiến tranh và lão già Miaja đã phải thị sát mặt trận phòng thủ của lão bằng xe đạp.
Robert Jordan chỉ tin một cách mờ ở vào câu chuyện đó. Ngay cả với sức tưởng tượng của một người yêu nước nhứt, chàng cũng không thể nghĩ tới việc Miaja có thể đi xe đạp; tuy vậy, Karkov đã nói là chuyện đó có thật. Nhưng bởi vì hắn đã viết điều đó trên những tờ báo Nga, có thể chàng cố tin vào những bài báo của hắn.
Karkov đã kể cho chàng nghe một câu chuyện khác mà hắn không viết ra. Tại đại khách sạn có ba người Nga bị thương mà hắn có trách nhiệm săn sóc: hai người lái thiết kỵ và một phi công, cả ba đều không thể di chuyển được vì tính cách trầm trọng của vết thương. Bởi điều quan trọng nhất là đừng để lộ bằng cớ về sự ủng hộ của Nga, điều sẽ biện minh cho sự can thiệp công khai của quân phát xít, Karkov có bổn phận làm thế nào để ba người bị thương không rơi vào tay bọn phát xít trong trường hợp thành phố phải sơ tán.
Trong trường hợp sơ tán, Karkov bắt buộc phải đầu độc họ để tiêu diệt mọi bằng cớ về lai lịch của họ trước khi rồi khỏi khách sạn. Không ai nhận ra một đặc tính Nga nào trên thi thể của ba người bị thương: một người với một viên đạn ở bụng, một người mất quai hàm với những dây thanh lòi ra, người thứ ba với xương bánh chè dập nát, tay và mặt bị phỏng nặng đến nỗi khuôn mặt hắn chỉ còn là một vết thương không có lông mi, lông mày lẫn tóc. Trên những cái xác hắn bỏ lại sau hắn, trên những chiếc giường khách sạn, không ai còn nhận ra họ là người Nga nữa. Không có gì phát giác được quốc tịch hoặc đảng phái của một người chết.
Robert Jordan đã hỏi Karkov về những tình cảm của hắn trước sự cần thiết phải làm như vậy, và Karkov đã cho biết là điều đó chẳng thích thú tí nào. “Bằng cách nào đồng chí làm được?” Robert Jordan hỏi, và tiếp lời: “Đồng chí thừa biết là đầu độc liên tiếp bao nhiêu người như vậy không phải là một việc đơn giản chút nào”. Và Karkov đã nói: “Ô! Đơn giản chớ, khi người ta luôn luôn cần phải sẵn sàng thích nghi với hoàn cảnh”. Đoạn hắn mở hộp thuốc lá và chỉ cho Robert Jordan thấy vật dựng trong đó.
– Nhưng mà điều đầu tiên đồng chí phải làm khi bị bắt làm tù binh là lấy hộp thuốc lá ra – Robert Jordan nhận xét – Người ta sẽ bắt đồng chí giơ tay lên.
– Tôi cũng có chút ít ở đây – Karkov nói và vừa mỉm cười vừa lật bề trái chiếc áo choàng của hắn – Chỉ cần giữ trong miệng như vậy, cắn một cái và nuốt trọng.
– Như vậy tiện hơn nhiều – Robert Jordan nói – Này, nó có giống trái hạnh nhân đắng trong những tiểu thuyết trinh thám không?
– Tôi không biết nữa – Karkov nói thật vui vẻ – Tôi không nghe gì hết. Đồng chí có muốn mình bẻ một ống để xem chơi không.
– Tốt hơn hết đồng chí nên giữ lấy.
– Ừ. – Karkov nói vừa bỏ hộp thuốc vào túi – Đồng chí thừa hiểu rồi, nhưng luôn luôn rất có thể là ta lại gặp những trường hợp nghiêm trọng như thế và không phải ở đâu cũng tìm được món này. Đồng chí đã đọc thông cáo của mặt trận Cordoue rồi chớ? Hay lắm. Đó là bản thông cáo mà tôi thích nhất bấy giờ đó.
– Nó nói gì? – Robert Jordan đã từ mặt trận Cordue đến Madrid và chàng chợt thấy ái ngại khi nghe đùa về một đề tài mà lẽ ra chỉ có chàng là được quyền đùa – Đồng chí nói tôi nghe coi.
– Nuestra gloriosa tropa sigue avanzando sin perder ni una sola palona de terreno. – Karkov nói bằng thứ tiếng Tây Ban Nha kỳ dị của hắn.
– Không thể được. – Robert Jordan nói, chàng có vẻ nghi ngờ.
– Các toán quân anh dũng của ta tiếp tục tiến bước không bỏ lỡ một tấc đất nào – Karkov lặp lại bằng tiếng Anh. Trong thông cáo đó – Tôi sẽ tìm lại cho đồng chí xem.
Riêng mày, mày vẫn nhớ những người mà mày từng quen biết đã ngã gục trong trận đánh diễn ra quanh Pozoblanco, nhưng ở Gaylord thì đó là một đề tài đùa cợt.
Đó là không khí của quán Gaylord bây giờ. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có được một quán Gaylord, và nếu hoàn cảnh hiện tại cũng giống với hoàn cảnh đã làm nảy sinh những hiện tượng như quán Gaylord trong số những gì còn sống sót trong những ngày đầu thì nhứt định là chàng lấy làm hài lòng đã nhìn thấy quán Gaylord và được dịp biết đến nó. Mày không còn sống trong những tình cảm khi còn ở Sierra, Carabanchel và Usera, chàng nghĩ. Mày dễ bị hư hỏng thật. Nhưng đó có phải là hư hỏng hay ít ra đó có nghĩa là mày đã đánh mất đi tâm hồn ngây thơ trong sáng của những ngày đầu? Có phải tâm hồn đó vẫn như cũ trong mọi hoàn cảnh không? Vậy thì ai con giữ được sự trong sáng ban đầu mà những y sĩ trẻ, những thầy tu và những người lính trẻ thường có đủ trên bước đường khởi nghiệp của họ? Những thầy tu trẻ còn giữ nó, hoặc họ không ngần ngại từ bỏ. Chàng nghĩ, tôi tin rằng bọn phát xít cũng còn giữ nó, và cả người cộng sản nữa, với kỷ luật nội tâm nghiêm khắc của họ. Nhưng mà hãy nghĩ về Karkov.
Chàng vẫn không ngừng tra xét trường hợp Karkov. Lần sau cùng ở quán Gaylord, Karkov có vẻ hớn hở về vụ một nhà kinh tế người Anh nào đó sống nhiều năm tại Tây Ban Nha. Robert Jordan đã từng đọc qua những bài viết của người này từ lâu và chàng luôn dành cho hắn nhiều cảm tình mặc dù chưa biết mặt hắn bao giờ. Chàng không thích lắm những điều hắn viết về Tây Ban Nha. Vì chúng có vẻ sáng sủa và đơn giản quá, chúng phân minh quá, nhiều bản thống kê sai lạc vì ảo tưởng lạc quan, chàng thừa biết điều đó. Chàng nghĩ, quả thật là người ta ít để ý tới những tác phẩm viết về một xứ sở mà mình biết rõ, và chàng có thiện cảm với hắn vì những thiện ý của hắn.
Sau đó, chàng gặp hắn vào một buổi chiều trong khi xảy ra cuộc tấn công Carabanchel. Robert Jordan và các đồng chí của chàng đang ngồi trong sân đấu trường, có tiếng súng nổ vang trên hai con đường và mọi người có vẻ nóng lòng đợi cuộc tấn công. Người ta hứa với bọn chàng một chiếc xe tăng mà vẫn chưa thấy. Montero đang ngồi, hai tay ôm đầu, lặp đi lặp lại câu nói: “Chiến xa chưa tới. Chiến xa chưa tới”.
Đó là một ngày trời lạnh, một lớp bụi vàng cuốn xoáy trên mặt đường. Montero bị thương ở cánh tay trái và cánh tay phải thì trở nên cứng đơ. “Chúng ta cần một chiến xa – Hắn nói – Phải đợi chiến xa nhưng mà ta không thể đợi được nữa”. Vết thương hắn trở nên nhức nhối, khó chịu.
Robert Jordan đi tìm chiếc chiến xa. Montero nói rằng chàng có thể bị bắt sau tòa nhà lớn bên đường xe điện. Nó nằm ra đấy. Nhưng không phải là chiến xa. Vào thời đó, gặp cái gì bọn Tây Ban Nha cũng gọi là chiến xa hết. Đó là một chiếc xe bọc sắt cũ. Người lái xe không muốn rời bỏ góc tòa nhà lớn để đến sân đấu trường. Hắn đứng sau chiếc xe, hai tay khoanh trên thành kim khí, đầu đội mũ da kê lên hai tay. Khi Robert Jordan nói chuyện với hắn, hắn chỉ lắc đầu trong hai cánh tay. Sau cùng hắn quay đầu đi, không nhìn Robert Jordan.
– Tôi không có lịnh. – Hắn nói bằng một giọng cáu kỉnh.
Robert Jordan rút khẩu súng lục ra khỏi bao và kề mũi súng vào chiếc áo da của người lái xe bọc sắt.
– Đây là lịnh. – Chàng bảo hắn. Người đàn ông lắc đầu, hắn đội một chiếc nón da nặng nề bên trong có nhồi bông như nón cầu thủ bóng đá, và hắn nói: “Không có đạn cho súng máy”.
– Có đạn trong sân đấu trường – Robert Jordan bảo hắn – Nào, đi đi. Mình sẽ lắp đạn ở đó. Đi.
– Không có ai sử dụng cả.
– Hắn đâu rồi? Đồng đội của đồng chí đâu?
– Chết rồi. Hắn chết ở trong kia kìa.
– Kéo hắn ra đi – Robert Jordan bảo hắn – Kéo hắn ra khỏi chỗ đó đi.
– Tôi không muốn đụng vào đó – Người lái xe nói – Hơn nữa, hắn bị gập làm đôi, bị kẹt vào giữa khẩu súng máy và tay lái, và tôi không thể nào bước qua được.
– Đến đây, ta cùng kéo hắn ra.
Chàng bị va vào đầu trong khi leo lên chiếc xe bọc sắt và bị sướt ở trên mí mắt, máu chảy dài xuống mặt chàng. Xác chết thì nặng nề và cứng đơ đến nỗi người ta không gấp lại được, chàng đã phải vỗ mạnh vào đầu để kéo nó ra khỏi cái góc nó bị kẹt, giữa ghế ngồi và vô lăng, mặt úp xuống. Sau cùng chàng cho được đầu gối vào dưới đầu xác chết, đoạn nắm chặt chiếc áo ngắn, kéo xác chết ra khỏi cửa xe với cái đầu ra trước.
– Phụ tôi với coi nào. – Chàng bảo người lái xe.
– Tôi không thể đụng vào hắn. – Người lái xe nói và Robert Jordan trông thấy hắn khóc. Nước mắt theo hai bên mũi, chạy dài trên khuôn mặt dính đầy bụi, nước mũi hắn cũng chảy ra.
Đứng bên cửa xe, Robert Jordan kéo xác chết lúc bây giờ đã rơi xuống vệ đường, bên đường xe điện, nó vẫn cong queo, cứng đờ. Nó nằm đó, khuôn mặt xám ngắt úp xuống vỉa hè xi-măng, hai tay chấp dưới thân thể, như đang trên một chiếc xe.
– Lên đi chớ, trời ơi – Robert Jordan nói, dùng khẩu súng lục ra dấu cho người lái xe – Lên lập tức coi nào.
Chính trong lúc đó, chàng trông thấy người đàn ông bước ra từ phía sau tòa nhà. Hắn mặc một chiếc áo khoác dài, đầu trần, tóc hoa râm, lưỡng quyền rộng, hai mắt lõm sâu và gần sát với nhau. Hắn cầm trong tay một gói thuốc Chesterfield, hắn rút ra một điếu mời Robert Jordan đang dùng khẩu súng lục thúc vào hông người lái xe trên chiếc xe bọc sắt.
– Chờ chút, đồng chí – Hắn nói với Robert Jordan bằng tiếng Tây Ban Nha – Đồng chí có thể giải thích cho tôi biết chút gì về trận đánh được không?
Chàng nhận ra hắn nhờ những tấm hình chàng đã xem được. Đó là nhà kinh tế học người Anh.
– Thôi dẹp mẹ nó đi – Chàng bảo hắn bằng tiếng Anh đoạn nói với người lái xe bằng tiếng Tây Ban nha: “Đến đó. Đấu trường. Biết chưa?”. Chàng đóng sầm cửa xe lại và chiếc xe chở họ chạy dọc theo con đường dốc trong khi súng bắt đầu nã đạn tới tấp vào xe nghe như sỏi đá ném vào chiếc nồi sắt. Sau đó, khi khẩu súng máy bắt đầu khạc vào họ, họ tưởng chừng như đó là tiếng búa đập liên hồi. Đến sau đấu trường, nơi những tấm áp phích tháng Tám vẫn còn dán la liệt cạnh nơi bán vé, họ ngừng lại bên những thùng quân nhu mở toang. Những đồng chí võ trang bằng súng, với lựu đạn giắt nơi dây lưng và bỏ trong túi, đang chờ đợi họ.
Montero nói: “Tốt lắm. Thiết giáp đây rồi. Bây giờ thì ta có thể tấn công được rồi”.
Sau đó, trong đêm, khi họ đã chiếm được những ngôi nhà sau cùng trên đồi, Jordan nằm dài sảng khoái sau bức tường gạch có khoét lỗ để bắn ra, và chàng nhìn trường bắn lý tưởng trải dài từ chỗ tập họp của họ tới đường viền nơi bọn phát xít đã rút lui.
Với một niềm khoan khoái đê mê, chàng nghĩ tới ngọn đồi với những biệt thự đổ nát dùng che chở cho cánh trái của họ. Chàng nằm dài trên một đống rơm, trong bộ quần áo ướt đẫm mồ hôi, và chàng quấn mình trong một chiếc mền để lau cho khô. Nằm đó, nghĩ tới nhà kinh tế học, chàng thốt cười một mình và tiếc rẻ về sự khiếm nhã của mình. Nhưng mà trong lúc người đàn ông đưa thuốc lá cho chàng như một món buộc boa dùng đền đáp những tin tức của chàng, lúc đó niềm oán hận của kẻ chiến đấu đối với kẻ không chiến đấu có lý do nổi dậy trong lòng chàng.
Bấy giờ thì chàng nhớ quán Gaylord và Karkov khi hắn nói về người đàn ông đó với chàng: “Như vậy thì đồng chí đã gặp hắn ở đó. Tôi thì ngày hôm đó, tôi chưa đi xa khỏi Puente de Toledo. Hắn ở sát mặt trận. Đó là ngày dũng cảm sau cùng của hắn. Ngày hôm sau hắn rời Madrid. Chính tại Toledo, hắn tỏ ra là một người gan dạ nhứt, theo chỗ tôi nghĩ. Ở Toledo, hắn thật tuyệt vời. Hắn là một trong những người có công đầu trong việc chiếm Aleazar. Phải trông thấy hắn ở Toledo kìa! Tôi tin rằng nếu cuộc bao vây của chúng ta thành công, đó là nhờ những nỗ lực và chỉ dẫn của hắn. Đó là giai đoạn ngu xuẩn nhất của cuộc chiến tranh. Nó đạt tới cao độ của sự ngu xuẩn. Nhưng mà hãy nói cho tôi biết ở bên Mỹ, người ta nghĩ gì về hắn?”
– Ở bên Mỹ, – Robert Jordan nói – người ta xem hắn như là người rất mật thiết với Moscou.
– Không đúng vậy đâu – Karkov nói – Nhưng hắn có một khuôn mặt kỳ lạ, một khuôn mặt với những dáng vẻ dễ đem lại thành công cho hắn. Còn tôi thì với cái mặt chả làm nên trò trống gì. Mặt mày tôi không giúp ích gì cho tôi trong một số công việc tôi hoàn tất được, nó không biết phải làm gì để kích thích kẻ khác hoặc khiến cho họ yêu thích hay tin cậy vào tôi. Còn hắn, Mitchell, hắn có một khuôn mặt đáng đồng tiền bát gạo. Đó là khuôn mặt của tên mưu sĩ. Tất cả những ai đã đọc qua lịch sử của những tên mưu sĩ đều tin cậy vào hắn tức thì. Và rồi mưu sĩ cũng có nhiều thứ. Không bao giờ người ta thấy hắn bước vào một gian phòng mà không biết ngay rằng đó là một tên mưu sĩ hảo hạng. Tất cả những người đồng hương giàu sụ của đồng chí đã vì tình cảm, muốn giúp đỡ Liên Bang Xô Viết (mà họ tin tưởng) hoặc đón chút gió trước sự thành công có thể xảy ra của đảng, những người đó trông thấy ngay khi nhìn thấy khuôn mặt và dáng vẻ của hắn, rằng hắn chắc mẻm là một nhân viên trung thành của Cộng sản Đệ Tam.
– Hắn không có liên lạc gì với Moscou sao?
– Không, nghe đây đồng chí Jordan. Đồng chí có nghe chuyện tếu về hai hạng ngu đần chớ?
– Kẻ ngu thường tình và kẻ ngu hạnh phúc hả?
– Không. Hai hạng người ngu ở xứ Nga chúng tôi – Karkov mỉm cười và bắt đầu kể – Trước hết có hạng người ngu mùa đông. Tên ngu mùa đông thường đến trước nhà thiên hạ và đạp cửa inh ỏi. Đồng chí chỉ cần mở cửa và trông thấy hắn đứng đó, đồng chí chưa hề gặp hắn bao giờ, hắn cao lớn, mặc áo lông cừu và đội nón lông cừu, người phủ đầy tuyết. Trông hắn ngoạn mục lắm. Hắn bắt đầu dậm đôi giày ống của hắn cho tuyết rơi ra. Đoạn hắn cởi áo ra giũ và tuyết lại rơi ra. Đoạn hắn giở nón và đập vào cửa. Tuyết lại rơi ra từ chiếc nón lông cừu của hắn. Hắn lại dậm chân một lần nữa và bước vào nhà. Lúc đó đồng chí nhìn hắn và nhận ra đó là một thằng ngu. Một thằng ngu mùa đông. Nhưng vào mùa hè, đồng chí lại có một hạng người ngu khác bước ra đường vừa khoa tay múa chân vừa quay đầu sang hết phía này tới phía kia. Đứng cách xa hai trăm thước, ai ai cũng nhận ra đó là một thằng ngu. Một thằng ngu mùa hè. Nhà kinh tế học đó là một thằng ngu mùa đông.
– Nhưng tại sao ở đây lại kính nể hắn? – Robert Jordan hỏi.
– Nhờ mặt mày và mồm mép mưu sĩ của hắn cùng cái vẻ tuyệt khéo lúc nào cũng làm ra vẻ như vừa tới từ một nơi hắn được kính nể và được xem là quan trọng. Đúng vậy, – Karkov mỉm cười – hắn buộc lòng phải đi đây đi đó nhiều để tiếp tục biểu diễn cái trò đó. Đồng chí biết chớ, dân Tây Ban Nha thật là kỳ lạ. Cái chính phủ này là một chính phủ giàu. Với rất nhiều vàng. Nhưng họ lại không cho bạn hữu của họ được gì. Đồng chí là một người bạn? Tốt lắm. Đồng chí cứ hành động một cách vô vị lợi và đừng mong một sự đền đáp nào. Nhưng mà với những người đại diện cho một công ty quan trọng hay một nước không lấy gì làm thân thiện mà họ cần gây ảnh hưởng, thì họ lại ban bố rất nhiều. Nếu ta chịu quan sát kỹ thì thấy được nhiều điều hay lắm.
– Tôi không thích điều đó. Vả lại tiền bạc đó là của thợ thuyền Tây Ban Nha.
– Tôi không đòi đồng chí ưa thích mà phải hiểu vấn đề – Karkov nói – Tôi sẽ giải thích cho đồng chí về tất cả chuyện đó trong mỗi lần gặp nhau, sau cùng đồng chí sẽ nắm vững mọi sự. Đối với một giáo sư như đồng chí thì cũng nên học hỏi lắm.
– Không biết khi trở về nước tôi còn là giáo sư hay không nữa. Rất có thể người ta sẽ trục xuất tôi vì lý do thân cộng.
– Kìa, đồng chí có thể tới Liên Bang Xô Viết và tiếp tục việc dạy học ở đó. Có thể đó là giải pháp tốt nhất cho đồng chí đó.
– Nhưng phạm vi của tôi là tiếng Tây Ban Nha.
– Có nhiều nước nói tiếng Tây Ban Nha – Karkov bảo – Tất cả các nước đó không thể vất vả, khó khăn như nước Tây Ban Nha này. Và rồi đồng chí nên nhớ rằng đồng chí không còn là giáo sư từ chín tháng nay. Trong chín tháng trời, có thể đồng chí đã học được một nghề mới. Đồng chí có nghiên cứu biện chứng pháp không?
– Tôi có đọc một quyển viết về chủ nghĩa Mác của Emil Burns. Chỉ có vậy.
– Nếu đọc kỹ thì quyển đó đã là một bước đầu nho nhỏ rồi đó. Có cả thảy 1.500 trang và đồng chí có thể dừng lại một chút trên mỗi trang. Nhưng mà còn nhiều điều mà đồng chí phải đọc.
– Bây giờ tôi không có thì giờ.
– Tôi biết – Karkov nói – Tôi nói sau này kìa. Có nhiều điều phải đọc nếu người ta muốn tìm hiểu một phần nào những sự việc xảy ra. Một ngày nào đó một cuốn sách sẽ được ra đời từ những kinh nghiệm ta đang sống bây giờ. Một cuốn sách rất bổ ích sẽ giải thích tường tận những điều ta phải biết qua. Có thể tôi sẽ viết cuốn sách đó. Hy vọng rằng tôi là người viết nên cuốn sách đó.
– Tôi cũng không thấy ai hơn đồng chí.
– Đừng bốc thơm – Karkov nói – Tôi là nhà báo. Nhưng mà cũng như tất cả những người làm báo, tôi mơ làm văn chương. Hiện tôi đang bỏ hết thì giờ nghiên cứu Calvo Sotelo. Đó là một tên phát xít hảo hạng, một tên phát xít chính hiệu của Tây Ban Nha. Franco và những tên khác thì không thế. Tôi đã nghiên cứu tất cả những bài viết và những bài diễn văn của Sotelo. Hắn rất thông minh và chính vì vậy phải giết hắn.
– Tôi không tin đồng chí là người chủ trương những vụ ám sát chính trị.
– Đó là một biện pháp thông dụng, rất thông dụng là đằng khác.
– Nhưng mà…
– Chúng tôi không chủ trương những hành vi khủng bố có tính cách cá nhân – Karkov vừa nói vừa mỉm cười – Nhất là khi những hành vi đó lại được thực hiện bởi bọn sát nhân hoặc những tổ chức phản cách mạng. Chúng tôi kinh tởm sự gian xảo và dã tâm của bọn ác ôn côn đồ Bukharinít, cả bọn ăn hại của nhân loại như Zinoviev, Kamenev, Rykov và những tên dao phủ của chúng. Chúng tôi căm thù bọn người bỉ ổi đó (hắn lại mỉm cười). Nhưng mà dù sao tôi cũng có thể nói rằng ám sát chính trị là một phương sách rất thông dụng.
– Đồng chí muốn nói….
– Tôi không muốn nói gì hết. Nhưng nhứt định chúng tôi phải xử tử và thủ tiêu những nhân vật khả ố đó, những tên ăn hại, những tướng lĩnh phản bội và những tên thủy sư đề đốc khả ố mất lòng tin. Những bọn người đó, chúng tôi thủ tiêu họ. Chúng tôi đâu có ám sát họ. Đồng chí có thấy sự khác biệt không?
– Thấy. – Robert Jordan nói.
– Thỉnh thoảng tôi cũng thích đùa, và đồng chí biết đùa cợt như vậy nguy hiểm tới ngần nào chớ, dầu chỉ để cười mà thôi. Tôi đùa cợt, nhưng đừng tưởng rằng một ngày nào đó dân tộc Tây Ban Nha sẽ không bùi ngùi tiếc rẻ đã tha tội chết cho một vài tướng lãnh hiện đang giữ quyền chỉ huy. Tôi không ưa thích gì những sự trừng phạt đó cả, đồng chí hiểu bụng tôi chớ?
– Tôi không thắc mắc chuyện đó – Robert Jordan nói – Tôi không thích chuyện đó nhưng tôi không thắc mắc gì nữa.
– Tôi biết. Người ta đã nói với tôi.
– Có quan trọng lắm không? – Robert Jordan hỏi – Tôi chỉ muốn thành thật.
– Đáng tiếc – Karkov nói – Nhưng đó là một trong những lý do cho phép người ta thấy những ai đáng tin cậy nếu không thì họ phải mất nhiều thì giờ để được liệt vào hạng người đó.
– Người ta có tin cậy nơi tôi không?
– Trong công việc, đồng chí được tin cậy là người đáng tin cậy. Một ngày nào đó, tôi phải nói chuyện nhiều với đồng chí để tìm hiểu những ý nghĩ thầm kín của đồng chí. Rất tiếc là chúng ta chưa hề nói chuyện nghiêm chỉnh với nhau.
– Tư duy tôi sẽ còn bỏ lửng cho tới khi nào ta thắng trận. – Robert Jordan nói.
– Vậy thì có thể nó còn thất nghiệp lâu lắm. Nhưng tốt hơn là cho nó hoạt động một chút.
– Tôi đang đọc tờ Mundo Obrero.
– Tốt lắm. Tôi cũng là người thích đùa. Nhưng có nhiều điều thật thông minh trong Mundo Obrero. Những điều thông minh độc nhứt mà người ta đã viết được về trận giặc này.
– Vâng – Robert Jordan nói – Đồng ý. Nhưng để có được một hình ảnh đẩy đủ về tình thế, người ta không thể chỉ đọc những gì do đảng đưa ra.
– Không phải vậy. Đồng chí có đọc hai chục tờ nhật báo thì cũng vậy thôi. Vả lại, không biết đồng chí sẽ làm gì với cái hình ảnh đó. Tôi thì gần như luôn luôn có một cái nhìn cố định về loại này. Nhưng tất cả những điều tôi làm là để quên nó.
– Bộ đồng chí thấy tình hình tệ lắm sao?
– Bây giờ thì đỡ rồi. Chúng ta đã vượt qua những tình cảnh tệ hại nhứt. Nhưng sự thối nát vẫn đầy dẫy khắp mọi nơi. Vài phần tử thuộc đám người của Modesto, El Campesino Lister và Duran rất chắc chắn. Họ còn hơn cả sự chắc chắn nữa, họ tuyệt diệu. Rồi đồng chí sẽ thấy điều đó. Và rồi chúng ta luôn có binh đoàn mặc dù vai trò của chúng đã thay đổi. Nhưng một quân đội gồm những phần tử tốt và những phần tử xấu thì không thể thắng trận được. Tất cả phải đạt tới một trình độ trưởng thành nào đó về chính trị. Họ phải biết lý do và tầm quan trọng của cuộc chiến đấu của họ. Tất cả mọi người phải tin vào cuộc chiến đấu của họ và tất cả phải chấp nhận kỷ luật. Chúng tôi đã thành lạp một quân lực thật hùng hậu bằng chính sách quân dịch mà không có thì giờ đề đặt vào đó một kỷ luật cần thiết cho một quân đội loại đó để nó có thể chiến đấu thích đáng. Chúng tôi gọi đó là một quân đội nhân dân nhưng nó sẽ không có được những căn bản của một quân đội nhân dân thật sự và nó sẽ không có được một kỷ luật sắt cần thiết. Rồi đồng chí sẽ thấy. Phương sách thật là nguy hiểm.
– Hôm nay trông đồng chí không được vui lắm.
– Không – Karkov nói – Tôi vừa từ Valence về, nơi đó tôi đã gặp nhiều người. Đi Valence về thì không khi nào vui được. Tại Madrid, người ta cảm thấy mình được thoải mái, tinh khiết, và người ta không thể tưởng tượng được là mình thất bại. Valence thì khác. Những tên hèn nhát đã trốn khỏi Madrid vẫn còn đang tiếp tục cai trị dưới kia. Chúng mang nặng óc lười biếng và tinh thần quan liêu. Chúng chỉ khiến cho những người ở thành phố Madrid khinh bỉ mà thôi. Mối ám ảnh của chúng bây giờ chính là sự suy yếu của Bộ Chiến tranh. Còn Barcelone nữa. Phải trông thấy thành phố Barcelone.
– Nó ra làm sao?
– Lúc nào cũng như một vở nhạc kịch hài hước. Lúc đầu, đó là thiên đường của bọn tốc kê và bọn lãng tử làm cách mạng. Bây giờ là thiên đường của bọn lính kiểng. Những tên lính thích nghinh ngang với bộ quân phục của chúng, thích ăn tục nói phét, thích quấn khăn đen đỏ. Chúng thích tất cả mọi thứ, trừ việc chiến đấu. Valence thì đáng buồn nôn, còn Barcelone thì buồn cười chết được.
– Thế còn cuộc nổi dậy của tổ chức P.O.U.M. thì sao?
– Tổ chức P.O.U.M. thì không đứng đắn bao giờ. Đó là một thứ tà thuyết của bọn tốc kê và bọn đấu bò, thật ra đó chỉ là một trò con nít. Ở đó có những người gan dạ không được chỉ huy đúng mức. Có một bộ óc hảo hạng và một ít tiền bạc của bọn phát xít. Không nhiều. Tội nghiệp cho bọn chúng thì thôi. Nói chung thì đó là những tên thật ngu đần.
– Nhưng trong cuộc nổi loạn rất có nhiều người chết.
– Ít hơn những người bị bắn sau đó và sẽ còn bị bắn nữa. P.O.U.M. vẫn còn giữ nguyên tên hiệu của nó. Nghe không đứng đắn chút nào. Lẽ ra nên gọi nó là G.H.E.L.O. hoặc Đ.Â.U.M.U.A. Nhưng mà không. Bịnh đậu mùa nguy hiểm hơn nhiều. Nó có thể ảnh hưởng tới thị giác và thính giác. Nhưng mà đồng chí có biết bọn chúng đã âm mưu giết tôi, Walter Modesto và Prieto không? Đồng chí thấy đó, bọn chúng lầm lẫn mọi sự. Tất cả đều không có chung lập trường. Tội nghiệp cho tổ chúc P.O.U.M. Bọn chúng chưa hề giết chóc ai. Ở ngoài mặt trận cũng như ở một nơi nào khác. Tại Barcelone thì có, một vài người.
– Đồng chí đã từng ở đó rồi à?
– Đã. Tôi đã đánh về một bài báo về sự thối nát của cái tổ chúc sát nhân nổi tiếng kia, giống bọn Trốt-kít và những âm mưu đê tiện rập theo phát xít của chúng, nhưng mà giữa chúng ta với nhau thì tổ chúc P.O.U.M. không có đàng hoàng lắm đâu. Nin là người duy nhứt đáng kể của bọn chúng. Ta đã bắt được hắn nhưng hắn đã tẩu thoát.
– Bây giờ hắn ở đâu?
– Paris. Đó là một con người đầy thiện cảm, nhưng hắn lại có nhiều sai lầm về chính tri.
– Nhưng bọn chúng có tiếp xúc nhiều với bọn phát xít, có phải vậy không?
– Ai lại tránh khỏi việc đó?
– Chúng ta.
– Biết đâu. Tôi hy vọng là không. Chính đồng chí thường đi tới sau phòng tuyến của chúng – Hắn vừa nói vừa mỉm cười – Nhưng tuần rồi, anh của một viên thư ký thuộc Sứ quán Cộng Hòa tại Paris có đi Saint de Lug để gặp bọn người từ Burgos tới.
– Tôi thích mặt trận hơn. Càng gần mặt trận, người ta càng khá hơn.
– Sau các phòng tuyến của bọn phát xít, đồng chí có được toại nguyện không?
– Nhiều. Ta có nhiều người khá ở nơi đó.
– Ồ! Đồng chí cũng thừa biết là bọn chúng cũng có nhiều người khá sau các phòng tuyến của ta chớ? Nếu ta bắt được chúng và mang chúng ra bắn thì bọn chúng cũng bắt người của ta và mang ra bắn. Khi các đồng chí có mặt tại vùng của chúng, luôn luôn các đồng chí nên nghĩ tới số người mà chúng đã gởi tới vùng ta.
– Tôi có nghĩ tới điều đó.
– Tốt lắm – Karkov nói – Hôm nay chắc đồng chí đã có nhiều đề tài để nghĩ ngợi. Vậy mình uống ly bia này đi và lo chuồn bởi tôi còn phải gặp nhiều người thuộc cỡ nặng kí. Hãy trở lại ngay nhé!
Vâng, Robert Jordan nghĩ. Ở quán Gaylord người ta biết được nhiều chuyện. Karkov đã đọc mỗi một quyển sách duy nhứt mà Jordan đã xuất bản. Cuốn sách chưa phải là một thành công. Nó vỏn vẹn có 200 trang và có thể không được hai ngàn độc giả. Jordan đã đem vào cuốn sách đó tất cả những gì chàng khám phá được tại Tây Ban Nha trong mười năm đi khắp đó đây bằng chân, bằng toa xe lửa hạng ba, bằng xe buýt, bằng ngựa, bằng la, bằng xe bò. Chàng biết rõ xứ Basque, cả miền Navarra, Aragon, Galice, Castilles và Estramadure. Borrow, Ford và nhiều người khác đã viết nên hàng khối sách hay mà chàng không cần phải thêm vào điều gì hơn nữa. Nhưng mà Karkov đã bảo là cuốn sách của chàng tốt.
– Chính vì vậy mà tôi quan tâm tới đồng chí – Hắn nói thêm – Tôi thấy đồng chí viết bằng một cách tuyệt đối chính xác và đó là điều hiếm có. Vì vậy mà tôi muốn đồng chí biết qua một vài điều.
Vậy thì chàng sẽ viết một cuốn sách khác nữa khi cuốn này xong, vẫn chỉ với những điều mà chàng đã mắt thấy tai nghe. Chàng nghĩ, nhưng để có thể diễn tả đầy đủ tất cả, có lẽ tôi phải là một nhà văn lớn. Bởi những điều chàng thu thập học hỏi được trong cuộc chiến này không đơn giản chút nào.
————————————
[1] Binh đoàn ba.