Chuông Gọi Hồn Ai (42)
Chương 42
rong lúc Pablo trở lại hang và cả bọn đi xuống tới chỗ để ngựa thì Andrès đang tiến mau về bản doanh của Golz. Trên con đường cái của miền Navacerrada, nơi những chiếc cam nhông đang chạy xuống núi, họ rơi vào một trạm kiểm soát. Nhưng khi Gomez chìa cho tên lính canh giấy thông hành của trung tá Miranda, tên lính canh rọi đèn thẳng vào tờ giấy đoạn đưa qua tên bạn, trả tờ giấy lại và chào.
– Siga – Hắn nói – Tiếp tục đi đi. Nhưng đừng có bật đèn.
Chiếc mô-tô lại tiếp tục rồ máy, Andrès bám vào chỗ ngồi, và họ chạy theo đường cái, Gomez lái cẩn thận giữa những hàng xe cam nhông. Không có chiếc nào bật đèn và chúng đổ xuống con đường thành hàng dài. Cũng có những chiếc cam nhông chở nặng đi ngược lên con đường và làm tung những lớp bụi mà Andrès không thể nào nhìn thấy trong bóng tối, nhưng hắn nhận ra chúng trên mặt và trong miệng hắn.
Bây giờ họ đã đến sau một chiếc cam nhông, chiếc mô-tô chậm lại rồi Gomez gia tăng tốc lực và vượt qua chiếc cam nhông, vượt qua một chiếc, rồi một chiếc khác, trong khi đoàn xe chạy ngược chiều bên trái vẫn nổ rền. Có một chiếc xe ở sau họ đang nhận còi inh ỏi trong tiếng ầm ĩ của những chiếc cam nhông và bụi mù, rồi nó quét những tia đèn pha từng hồi, soi sáng những lớp bụi dày, sau cùng chiếc xe mở hết tốc lực qua mặt họ trong tiếng động cơ rì rầm và những tiếng kèn inh ỏi, nghe như dọa nạt, như ngạo nghễ.
Phía trước họ, tất cả xe cam nhông đều ngừng lại đã trong khi họ vẫn tiếp tục con đường, vượt qua những chiếc xe cứu thương, những chiếc xe tham mưu, một chiếc xe bọc sắt, một chiếc khác nữa và một chiếc thứ ba, tất cả đậu lại như những con rùa nặng nề bằng kim khí, với những khẩu đại bác chĩa lên trời trong đám bụi mù vẫn chưa rơi xuống. Họ đến một trạm kiểm soát khác, vào lúc một tai nạn xảy ra. Một chiếc cam nhông không ngờ chiếc cam nhông khác đằng trước ngừng lại nên ủi vào cái trục sau và làm tung tóe trên đường những thùng đạn dược cho các loại vũ khí nhẹ. Một chiếc thùng vỡ ra khi rớt xuống, và khi Gomez và Andrès ngừng lại, đẩy chiếc mô-tô về phía trước, đi giữa những chiếc xe nằm ụ để trình giấy thông hành của họ, Andrès đã dẫm lên những vỏ đạn vung vãi trong bụi. Chiếc cam nhông thứ hai bị hỏng bộ tản nhiệt. Chiếc xe sau đụng vào nó. Hàng trăm chiếc khác nằm bất động đằng sau, và một viên sĩ quan đi ủng lớn chạy lại vượt qua đoàn xe và gọi những tài xế lùi lại để có thể trục chiếc xe cam nhông bị hư nát ra khỏi con đường.
Có quá nhiều chiếc cam nhông nên tài xế khó lòng lùi xe lại khi viên sĩ quan đến đầu đoàn xe và ngăn không cho chúng tiến lên nữa, Andrès nhìn hắn chạy khập khễnh với chiếc đèn bấm vừa kêu gào, vừa chửi rủa, trong khi những chiếc cam nhông vẫn tiếp tục trờ tới. Nhân viên kiểm soát không muốn trả giấy thông hành lại. Chúng có hai tên, súng có dây đeo và chúng cũng la hét ầm ĩ. Tên cầm giấy thông hành băng qua đường, đến gần một chiếc cam nhông đang chạy xuống, ra lịnh cho nó chạy tới trạm kiểm soát kế tiếp để người ta bắt những xe cam nhông ngừng lại cho đến khi giải quyết xong vụ kẹt xe. Tên tài xế chiếc cam nhông không nghe và tiếp tục chạy thẳng. Rồi, tay vẫn giữ giấy thông hành, tên lính trở lại vừa la hét với tên tài xế chiếc cam nhông có đồ nặng rớt xuống.
– Để đó, tiến lên coi nào, để người ta còn lật cái đồ mắc dịch ra!
– Bộ phận truyền động của tôi bị hư rồi. – Tên tài xế nói, đầu quay ra sau.
– Kệ cha bộ phận truyền động của anh, tiến lên đi!
– Không thể tiến lên được với một bộ phận truyền động bị hư, tên tài xế nói, đầu vẫn quay ra sau.
– Làm sao móc lên và chạy tới trước, để người ta dẹp cái đồ mắc dịch ra khỏi con đường.
Tên tài xế ném ra một cái nhìn tức uất, trong khi tên lính rọi đèn về phía sau chiếc cam nhông bị húc nát.
– Tiến lên, tiến lên. – Hắn kêu lên, tay vẫn cầm tờ giấy thông hành.
– Còn cái giấy của tôi – Gomez nói với hắn – Giấy thông hành của tôi. Chúng tôi gấp lắm mà.
– Thì cút đi với giấy thông hành của anh. – Hắn nói, rồi hắn trả giấy lại và chạy băng qua đường để chận một chiếc cam nhông đang chạy xuống.
– Hãy đến ngã tư rồi quay lại đây để kéo cái cam nhông hư ra coi nào. – Hắn nói với tên tài xế.
– Tôi có lệnh..
– Thây kệ lệnh của anh, hãy làm điều tôi bảo.
Tên tài xế rồ ga và biến mất trong đám bụi mù.
Gomez lại tiếp tục rồ máy xe bên phía mặt con đường giờ đây đã thông, và vưọt qua trước chiếc cam nhông bị nạn, Andrès lại bám chặt vào chỗ ngồi, hắn thấy tên lính kiểm soát chận một chiếc cam nhông khác và tên tài xế thò đầu khỏi chỗ ngồi để nghe hắn.
Bây giờ thì họ phóng nhanh vào con đường, nhắm ngọn núi chạy tới. Tất cả đoàn xe chạy cùng chiều với họ đã ngừng lại ở trạm kiểm soát, chỉ còn những chiếc cam nhông đang chạy xuống, vượt qua phía trái họ, trong khi chiếc mô-tô vẫn lao nhanh đến khi bắt kịp đoàn xe đã vượt qua trạm kiểm soát trước khi có tai nạn.
Vẫn không bật đèn, họ vượt qua bốn chiếc xe bọc sắt nữa, rồi vượt qua một đoàn xe cam nhông dài chở đầy binh sĩ. Những tên lính vẫn im lặng trong bóng tối. Lúc đầu, Andrès chỉ cảm thấy sự hiện diện của họ trên những xe cam nhông, xuyên qua những lớp bụi mù. Rồi một chiếc xe tham mưu khác đuổi theo ở phía sau họ, nhận kèn inh ỏi, chiếu đèn pha từng chập và Andrès trông thấy những người lính đội nón sắt, súng dựng thẳng, những khẩu trung liên chĩa lên nền trời sẫm, in hình rõ ràng trong bóng đêm chụp xuống khi những tia đèn pha tắt. Trong chốc lát khi hắn chạy gần chiếc cam nhông chở đầy lính, hắn trông thấy những bộ mặt buồn thảm và bất động trong vệt ánh sáng bất ngờ. Dưới những chiếc nón sắt, trên đường di chuyển trong đêm tới địa điểm của một cuộc tấn công, mỗi khuôn mặt đều hiện ra vẻ lo âu mà ban ngày người ta không thấy hiện rõ, bởi vì họ cảm thấy xấu hổ với bộ mặt đó, cho đến khi phi cơ dội bom và cuộc tấn công bắt đầu, không ai nghĩ đến bộ mặt của mình nữa.
Andrès vượt qua trước họ, từng xe này qua xe khác. Gomez luôn luôn ở phía trước xe tham mưu, hắn không có những cảm giác như họ. Hắn chỉ nghĩ: Quân đội thật ngon lành! Trang bị thật ngon lành! Cơ giới thật ngon lành! Vaya gente! Hãy nhìn họ. Quân đội Cộng Hòa đó. Hãy nhìn kìa. Hết xe này tới xe khác. Tất cả mọi người đều mặc quân phục. Tất cả với những chiếc nón sắt trên đầu. Hãy nhìn những khẩu maquina chĩa ra từ những chiếc xe cam nhông để chống lại máy bay. Hãy nhìn quân đội mà phe ta đã tạo ra!
Chiếc mô-tô vượt qua những chiếc cam nhông cao lớn màu xám chở đầy lính, những chiếc cam nhông xám với thùng vuông, đầu xe vuông thô kệch, đang đều đều leo lên con đường dốc trong đám bụi mù và ánh sáng từng chập tủa chiếc xe tham mưu chạy phía sau; ngôi sao đỏ của quân đội hiện ra khi ánh sáng rọi chiếu những trục sau, hiện ra khi ánh sáng quét lên những hông xe đầy bụi trong khi chúng đều đều lên dốc trong bầu không khí đã trở nên lạnh lẽo hơn trên con đường đã bắt đầu ngoặt ngoẹo quanh co, những chiếc cam nhông di động một cách khó nhọc và nghiến bánh ken két, một vài chiếc phun khói trong ánh sáng đèn pha. Chiếc mô-tô bây giờ cũng trở nên khó nhọc; Andrès bám lấy yên đằng trước trong khi xe lên dốc, và hắn nghĩ chuyến đi bằng mô-tô này thiệt là mucho, mucho [1]. Trước đây hắn chưa bao giờ đi mô-tô và bây giờ họ leo lên một ngọn núi, giữa cuộc chuyển vận rầm rộ để đi đến cuộc tấn công, và trong khi leo dốc, hắn biết bây giờ không còn trở về kịp để đánh vào đồn, trạm nữa. Trong sự vận chuyển và sự hỗn độn này, may mắn mà hắn trở về kịp chiều hôm sau. Hắn không bao giờ thấy cuộc tấn công, hay chứng kiến những cuộc sửa soạn tấn công, và khi leo lên trên con đường hắn ngây ngất về tầm vóc và sức mạnh của quân đội Cộng Hòa.
Bây giờ họ tiến trên con đường dài, phóng nhanh trên sườn núi và khi họ đến gần đỉnh, sườn núi khá dốc đến nơi Gomez phải bảo hắn bước xuống, rồi họ cùng đẩy chiếc mô-tô đến đỉnh. Phía trái, trên đỉnh, con đường tạo thành một khúc quanh nơi những đoàn xe có thể rẽ được và có những ánh sáng làm hiệu trước một tòa nhà đá lớn vươn lên trên nền trời đêm, bóng nó dài và đen.
– Mình đi hỏi Bộ Tư Lệnh ở đâu đi. – Gomez nói với Andrès. Họ đẩy chiếc mô-tô về phía hai người lính gác trước cánh cửa đóng của tòa nhà đá lớn. Gomez dựng xe vào tường, trong khi một người cưỡi mô-tô mặc đồ da đi về phía khung cửa mở ra vùng ánh sáng bên trong của tòa nhà. Hắn đi ra, chiếc túi da đeo trên vai, một khẩu súng sáu Mauser dắt bên hông. Khi cánh cửa đã đóng lại che khuất vùng ánh sáng, hắn tìm chiếc mô-tô trong bóng tối, bên cạnh lối ra vào, đẩy nó chạy cho đến khi nổ máy, rồi lao vào con đường dốc.
Ở cửa, Gomez gặp một người lính canh. “Đại úy Gomez, lữ đoàn sáu mươi lăm – Hắn bảo – Anh có thể cho tôi biết Bộ Tư Lệnh của tướng Golz, tư lệnh Sư đoàn 35 ở đâu không?”.
– Không phải ở đây. – Người lính trả lời.
– Đây là gì?
– Commandancia.
– Commandancia nào?
– Hừ. Commandancia.
– Commandancia cái gì?
– Anh là ai mà đặt nhiều câu hỏi vậy? – Tên lính canh nói với Gomez trong bóng tối. Nơi đây, trên đỉnh đồi, bầu trời rất sáng và đầy sao, Andrès bây giờ đã ra khỏi vùng bụi mù, hắn nhìn thấy rõ ràng trong bóng tối. Ở phía dưới, con đường quẹo về phía mặt, hắn phân biệt rõ ràng bóng những chiếc cam nhông và những xe cộ chạy trước đường chân trời.
– Tôi là đại úy Rogelio Gomez thuộc đại đội thứ nhứt, lữ đoàn 65 và tôi muốn biết Bộ Tư Lệnh của tướng Golz ở đâu. – Gomez nói.
Tên lính mở cửa: “Gọi xếp gác”, hắn kêu vọng vào bên trong. Lúc đó, một chiếc xe tham mưu lớn đi tới khúc quanh và hướng về phía tòa nhà đá lớn, nơi Andrès và Gomez đợi tên xếp gác. Chiếc xe lại gần và dừng lại trước cửa.
Một người cao, lớn tuổi, đứng nặng nề, đội chiếc mũ nồi ka ki lớn giống như những chiếc nón của bọn khinh bộ binh trong quân đội Pháp, mặc một cái áo choàng nhà binh, đeo một khẩu súng lục, tay cầm một tấm bản đồ, hắn bước xuống xe với hai người khác mặc đồng phục của Lữ Đoàn Quốc Tế.
Hắn nói một vài tiếng Pháp với tên tài xế, ra lệnh đậu xe vào chỗ kín đáo. Andrès không hiểu tiếng Pháp, Gomez trước là thợ hớt tóc nên hiểu được vài tiếng.
Một người đàn ông đi ngang qua cửa với hai sĩ quan khác, Gomez trông thấy khuôn mặt ông ta sáng rỡ và nhận ra ông ta. Hắn đã thấy ông ta ở những hội nghị chính trị và thường đọc những bài báo của ông ta, dịch từ tiếng Pháp trong tờ Mundo Obrero. Hắn nhận ra bộ lông mày rậm, đôi mắt xám ướt át, cằm đôi, đó là một nhà cách mạng lớn người Pháp đã chỉ huy cuộc nổi dậy của chiến đoàn Pháp. Gomez biết uy thế chính trị của người này trong các Lữ Đoàn Quốc Tế, và hắn biết người này biết Tổng Hành Dinh của tướng Golz ở đâu và có thể chỉ cho hắn. Hắn không biết người này bây giờ trở thành cái gì rồi, theo thời gian với những ảo tưởng, những nỗi đắng cay trong đời sống gia đình và trong chính trị, những tham vọng bị tan vỡ và tiếp xúc với ông ta là một việc nguy hiểm nhất mà một người có thể làm. Không biết rõ điều đó, Gomez tiến về phía ông ta, chào và nói: “Đồng chí Massart, chúng tôi mang một bức thơ cho tướng Golz. Đồng chí có thể chỉ cho chúng tôi Tổng Hành Dinh của ổng ở đâu không? Khẩn lắm”.
Người đàn ông to lớn và nặng nề vươn cổ nhìn Gomez, chăm chú nghe với đôi mắt ươn ướt. Ngay ở đây, ngoài mặt trận, dưới ánh sáng của một ngọn đèn điện trần, và sau chuyến đi đầy giá lạnh, khuôn mặt hắn có vẻ già khọm, được nặn trong những mảnh vụn người ta tìm thấy dưới móng vuốt của những con sư tử rất già.
– Cái gì đó, đồng chí? – Ông ta hỏi Gomez bằng tiếng Tây Ban Nha với một giọng nặng nề của miền tự trị Catalogne. Đôi mắt ông ta liếc về phía Andrès, cái nhìn lướt qua hắn và trở lại với Gomez.
– Một bức thư cho tướng Golz, phải mang tới Tổng Hành Dinh của ổng.
– Thơ đến từ đâu đó đồng chí?
– Ở sau phòng tuyến bọn phát xít. – Gomez trả lời.
Andrès Massart chìa bàn tay để lấy bức thư và các thứ giấy tờ khác. Ông ta nhìn qua và bỏ vào túi.
– Giữ cả hai lại. – Ông ta nói với tên xếp gác – Hãy lục soát chúng và đưa chúng đến tôi khi tôi hỏi.
Với bức thư trong túi, ông ta đi vào tòa nhà đá lớn.
Trong phòng gác người ta lục soát Gomez và Andrès.
– Cái gì vậy? – Gomez hỏi một người lính gác.
– Está loco – Người lính gác nói – Ông ta điên mà.
– Không. Đó là một nhân vật chính trị rất quan trọng – Gomez nói – Ông ta là ủy viên của Lữ Đoàn Quốc Tế.
– A mesar de eso, está loco – Tên xếp gác nói – Tuy nhiên ông ta điên. Các anh đã làm gì sau phòng tuyến phát xít?
– Đồng chí này đến từ một chiến khu dưới kia – Gomez nói khi người ta lục soát hắn – Đồng chí mang một bức thư cho tướng Golz. Hãy giữ cẩn thận giấy tờ của chúng tôi. Coi chừng tiền bạc và viên đạn cột vào một sợi dây kìa. Cái này là do vết thương đầu tiên của tôi ở Guadarrama đây.
– Đừng lo ngại – Tên xếp nói – Tất cả sẽ để ở ngăn kéo. Tại sao đồng chí không hỏi tôi Golz ở đâu?
– Tôi đã thử hỏi. Tôi đã hỏi tên lính canh và hắn gọi đồng chí.
– Nhưng ông già điên đã đến và đồng chí đã hỏi ông chớ gì? Người ta không được hỏi ông ta điều gì. Ông ta điên mà. Còn tướng Golz của đồng chí ở cách đây ba cây số, phía trên con đường kia, ở tay mặt, trong những vùng núi đá của khu rừng…
– Đồng chí không thể để chúng tôi đến đó bây giờ sao?
– Không. Cái đó có liên quan đến mạng tôi. Tôi phải dẫn đồng chí đến ông già điên, vả lại, ông ta giữ lá thư của đồng chí mà.
– Đồng chí không thể nói điều này cho ai hết sao?
– Có chớ – Tên cai nói – Tôi sẽ nói cho nhân vật quan trọng đầu tiên mà tôi gặp. Tất cả đều biết là ông ta điên mà.
– Tôi vẫn coi ông ta là một nhân vật quan trọng – Gomez nói – Một trong những vinh dự của nước Pháp.
– Có lẽ đó là một vinh dự. – Tên cai nói. Và hắn đặt bàn tay lên vai Andrès. Nhưng mà ông ta quá điên. Ông ta có húng khùng là hay cho bắn bỏ nhiều người.
– Bắn bỏ thật à?
– Como lo oyes [2] – Tên cai nói – Chúng tôi luôn luôn có một tiểu đội hành quyết túc trực. Lính Lữ Đoàn không muốn thi hành nhiệm vụ đó. Nhất là tụi Pháp. Để tránh những khó khăn, thường chúng tôi làm việc ấy. Chúng tôi đã xử bắn nhiều người Pháp. Chúng tôi đã xử bắn nhiều người Bỉ. Chúng tôi cũng đã xử bắn nhiều người thuộc các quốc tịch khác nữa. Mọi hạng người. Lão có tật thích bắn người. Luôn luôn vì những chuyện chính trị. Lão điên mà. Purifica mas que el Salvarsan. Lão tẩy uế hơn cả Salvarsan.
– Nhưng đồng chí sẽ cho một người nào biết về lá thư này chớ?
– Sao không, ông bạn, chắc chắn rồi. Tôi biết hết thảy mọi người trong hai Lữ Đoàn này. Họ thường đi qua đây. Tôi biết cả những người Nga, mặc dầu họ không nói được nhiều tiếng Tây Ban Nha. Bọn tôi sẽ ngăn lão điên này xử bắn những người Tây Ban Nha.
– Nhưng còn lá thư thì sao?
– Lá thơ cũng vậy. Đùng lo, đồng chí ạ. Tôi biết cách đối phó với ông già điên này. Ông ta chỉ nguy hiểm với những đồng bào của ông ta thôi. Bây giờ người ta biết ông ta quá rồi.
– Dẫn hai tù binh đến đây coi. – Tiếng Massart nói.
– Quieres eshar un trago? Uống một ly nghe.
– Sao?
Tên cai lấy một chai rượu hồi từ trong tủ, Gomez và Andrès đều uống. Tên cai cũng vậy. Hắn chùi miệng bằng tay.
– Vámonos. – Hắn nói.
Họ đi ra khỏi phòng gác, ngụm rượu hồi vẫn còn làm miệng, bụng và tim họ nóng ran, họ băng qua tiền đình và đi vào phòng trong. Massart đang ngồi sau một cái bàn dài, tấm bản đồ trải trước mặt, bàn tay ông ta cầm một cây viết chì xanh đỏ, trông dáng điệu ông ta như một vị tướng lãnh. Đối với Andrès, đây lại là một biến cố mới nữa. Có nhiều biến cố xảy ra chiều nay. Luôn luôn như vậy. Nếu ta có những giấy tờ hợp lệ và một trái tim trong sạch, ta không bị nguy hiểm. Sau cùng họ cũng trả tự do cho ta và ta lại tiếp tục lên đường. Nhưng Inglés đã nói là phải gấp rút. Bây giờ thì hắn biết là không thể trở về cây cầu đúng giờ, nhưng họ có một bức thơ phải trao, và ông già ngồi sau chiếc bàn kia đã bỏ trong túi mất rồi.
– Vào đi. – Massart nói, mắt vẫn không ngước lên.
– Đồng chí Massart, nghe tôi nói đây. – Gomez lên tiếng, rượu hồi làm tăng sự giận dữ của hắn – Đã một lần, chiều hôm nay, chúng tôi bị chậm trễ vì sự ngu dốt của những tên vô chính phủ. Rồi, vì sự lười biếng của tên thơ lại phát xít. Bây giờ, vì sự đa nghi của một tên cộng sản.
– Câm họng đi – Massart vẫn không ngước mắt – Đây không phải là một cuộc biểu tình.
– Đồng chí Massart, đây là một công việc tối khẩn – Gomez nói – Quan trọng vào bực nhứt.
Tên cai và tên lính đi kèm theo họ lấy làm thích thú được chứng kiến cảnh này, có thể nói đó là một vở kịch mà họ đã coi nhiều lần, nhưng họ vẫn cảm thấy khoái trá vì những đoạn hay của tấn kịch này.
– Tất cả đều khẩn cấp – Massart nói – Tất cả đều quan trọng. Ông ta ngước mắt về phía họ, tay cầm viết chì. Làm sao các anh biết Golz ở đây? Các anh có hiểu là trầm trọng biết bao khi đến đòi gặp đích danh một ông tướng, trước khi xảy ra một cuộc tấn công không? Làm thế nào các anh có thể biết ông tướng đang ở đây?
– Nói cho ông ta biết đi. – Gomez bảo Andrès.
– Thưa đồng chí đại tướng – Andrès bắt đầu – André Massart không chỉnh sự sai lầm về cấp bực – Người ta trao bức thơ này cho tôi ở phía bên kia phòng tuyến…..
– Phía bên kia phòng tuyến? – Massart hỏi – Phải, tôi có nghe hắn nói là anh đến từ phòng tuyến phát xít.
– Tôi phải trao bức thơ của một người Inglés tên là Roberto, người đã đến với chúng tôi với tư cách một chuyên viên chất nổ lo vụ cây cầu. Đồng chí hiểu không?
– Hãy tiếp tục câu chuyện của anh đi. – Massart nói với Andrès, ông ta dùng tiếng câu chuyện theo nghĩa của một trò nói dối hay bịa đặt.
– Thưa đồng chí đại tướng, người Inglés bảo tôi mang thơ trao cho tướng Golz thật mau lẹ. Ông ta sắp sửa mở cuộc tấn công ngay bây giờ và điều cần thiết là phải trao ngay bức thơ này cho ông ta, nếu Đại tướng đồng chí vui lòng.
Massart lại gục gặt đầu, ông ta nhìn Andrès, nhưng không trông hắn.
Golz! Ông ta nghĩ trong sự kinh hoàng lẫn với đố kỵ của một người có thể cảm nghĩ như vậy khi biết là địch thủ tệ hại của mình đã bị giết trong một tai nạn xe hơi cực kỳ thảm khốc, hay một người mà mình ghét bỏ, nhưng không bao giờ nghi ngờ sự thẳng thắn, lại vừa nhận biết ra là mình sai lầm. Golz cũng vậy. Golz có những liên lạc cũng hiển nhiên với tụi phát xít! Golz mà ông ta biết từ gần hai mươi năm. Golz đã đánh chiếc xe lửa chở vàng vào mùa đông nọ với Lucacz ở Sibérie. Golz đã đánh nhau với Koltchak, và ở Ba Lan, ở Causase, ở Trung Hoa. Và ở đây từ ngày tháng Mười. Nhưng hắn lại mật thiết với Toukachevskỵ. Với cả Vorochilov, chắc chắn rồi. Nhưng với Toukachevskỵ nữa. Và còn ai nữa? Ở đây, dĩ nhiên với Karkov. Và với Lucacz. Nhưng mọi người Hung đều là những kẻ lắm mưu đồ. Lão ghét Gall. Golz ghét Gall. Lão ta không quên điều đó. Golz luôn luôn thù ghét Gall. Nhưng hắn ủng hộ Purz. Nhớ điều đó. Và Duval là tham mưu trưởng của hắn. Bên trong chắc phải có gì. Nhưng nghe nói Capic là một tên vô lại. Đó là điều chắc chắn. Đó mới là điều đáng kể. Và bây giờ, bức thơ này đến từ phòng tuyến phát xít. Chỉ việc cắt những cành cây hư là người ta giữ được cái cây an toàn và vững chắc. Sự ung thối phải được phát giác để người ta loại trừ đi. Nhưng chính Golz! Golz là một tên phản bội! Ông ta biết là không thể tin vào ai. Không một ai. Không bao giờ. Không cả với vợ con. Với anh em. Với một đồng chí già nua nhất. Với bất luận ai. Không bao giờ.
– Hãy dẫn họ đi – Ông ta nói với những tên lính gác – Giữ họ cẩn thận. – Tên cai nhìn tên lính. Lần này sự việc xảy ra thật lặng lẽ.
– Này, đồng chí Massart – Gomez nói – Đừng có điên quá như vậy. Nghe tôi nói đây. Với tư cách sĩ quan thẳng thắn. Với tư cách đồng chí. Đây là một bức thơ phải trao lại. Đồng chí này đã mang nó qua phòng tuyến phát xít để trao lại cho đồng chí đại tướng Golz.
– Dẫn họ đi. – Ông ta lặp lại với tên lính, lần này với một vẻ ưu ái. Ông ta thương hại họ, như những con người, bởi vì ông ta cần thanh toán họ. Nhưng chính thảm kịch của Golz đã ám ảnh ông ta. Dẫu là Golz đi nữa, ông ta nghĩ. Phải lập tức mang thông điệp phát xít cho Varloft. Không, tốt hơn là chính ông ta nên trao lại cho Golz và quan sát hắn trong khi hắn nhận thư. Đó là điều phải làm, làm thế nào tin chắc được ở Varloff, nếu chính Golz là đồng bọn? Không. Đây là một công việc đòi hỏi nhiều thận trọng.
Andrès quay sang Gomez. “Đồng chí tin là y không gửi bức tho đi à?”. Hắn hỏi, vẻ nghi ngờ.
– Bộ đồng chí không thấy sao? – Gomez nói.
– Me cago en su puta madre! [3] Andrès chửi thề. Esta loco [4].
– Phải – Gomez nói – Ông ta điên mà. Đồng chí cũng điên nữa. Nghe chưa! Điên. – Hắn gào lên với Massart giờ đây đang cúi xuống tấm bản đồ với cây viết chì xanh đỏ. Đồng chí là một thằng điên, một thằng sát nhân!
– Dẫn chúng đi – Massart bảo tên vệ sĩ – Tinh thần của chúng bị tội ác làm sai lạc đi rồi.
Đó cũng là một câu tên cai đã nhận ra. Hắn đã nghe câu đó rồi.
– Đồ điên, đồ sát nhân! – Gomez la to.
– Hijo de la gran puta! [5] – Andrès bảo hắn – Loco.
Sự điên khùng của tên này đã khích động hắn. Nếu đó là một thằng điên, chờ gì chưa nhốt hắn, chờ gì chưa giựt lại bức thư trong túi hắn. Phải, hắn điên thì kệ cha hắn. Sự giận dữ tràn hông của người Tây Ban Nha như đã vượt khởi sự bình tĩnh thường lệ và sự vui tính của họ. Một ít thì giờ nữa thôi thì sự giận dữ sẽ làm mờ mắt hắn.
Đôi mắt vẫn dán lên tấm bản đồ, Massart cúi đầu buồn bã trong khi những tên vệ sĩ dẫn Gomez và Andrès ra. Những tên vệ sĩ khoái nghe ông ta chửi rủa, nhưng cảnh xảy ra làm họ thất vọng. Họ đã thấy nhiều màn hay hơn. André Massart không quan tâm đến những lời nguyền rủa. Biết bao nhiêu người đã từng chửi ông ta! Ông ta thường thương hại họ một cách thành thật như những con người. Ông ta thường tự nhủ như thế, và đó là một trong những ý tưởng công chính cuối cùng con sót lại ở ông ta.
Ông ta vẫn ngồi đó, bộ râu và đôi mắt nghiêng xuống tấm bản đồ, tấm bản đồ mà ông ta không bao giờ hiểu hoàn toàn, với những điền viền đồng tâm chi chít như một tấm mạng nhện. Ông ta phân biệt được những độ cao và thung lũng, nhưng lại không hiểu rõ tại sao cái này là độ cao, cái này là thung lũng. Nhưng ở Bộ Tham Mưu nhờ hệ thống Ủy viên chính trị, ông ta có quyền can thiệp, ông ta biết đặt ngón tay lên những địa điểm đánh số khoanh bằng vòng nâu, ở giữa những đốm xanh của những cánh rừng, có những tuyến lộ dọc theo những con sông cắt ngang, và nói: “Đó. Đó là điểm yếu”.
Gall và Copic là những chính khách đầy tham vọng đã biểu đồng tình với ông ta và sau này, những người không bao giờ nhìn bản đồ, nhưng được cho biết số những ngọn đồi trước khi rời điểm khởi hành vượt ngọn đồi này để tìm gặp cái chết của họ trên những triền dốc, trừ phi họ bị những khẩu súng máy giấu trong những cây ô liu ngăn chận, khiến họ không bao giờ đạt tới mục tiêu đó được. Có thể là trên nhiều chiến tuyến họ leo lên dễ dàng như không. Nhưng, khi Massart chỉ ngón tay lên bản đồ ở Bộ Tham Mưu của Golz, những bắp thịt hàm của viên tướng có cái sọ đầy thẹo và đôi mắt trắng dã trở nên co dúm lại và hắn nghĩ: Tao sẽ hạ mày, Massart, trước khi cho mày để ngón tay thô bỉ của mày trên một tấm bản đồ của tao. Tổ cha mày, cứ lo chen vào những chuyện mày không biết. Khốn nạn cho cái ngày mà người ta dùng tên mày để đặt cho những xưởng máy kéo, những làng mạc, những công ty hợp doanh, biến mày thành biểu tượng mà tao không thể đụng tới. Thôi hãy lo nghi kỵ, trừ khử, can thiệp, tố cáo và tàn sát ở nơi khác đi, để cho Bộ Tham Mưu của tao được yên.
Nhưng, thay vì nói điều đó, Golz bằng lòng tránh xa cái bóng dáng đồ sộ đang nghiêng xuống, với ngón tay chỉ, với đôi mắt xám ươn ướt, với hàm râu mép màu muối tiêu và hơi thở hôi hám, và hắn nói: “Phải, đồng chí Massart, tôi hiểu quan điểm của đồng chí. Nhưng nó không hoàn toàn được chứng thực, và tôi không đồng ý. Đồng chí có thể bước qua đầu tôi, nếu muốn. Phải. Đồng chí có thể làm công việc của Đảng như đồng chí nói, nhưng tôi không đồng ý”.
Giờ đây, Massart đang ngồi nghiên cứu tâm bản đồ trải ra trên mặt bàn, dưới ánh sáng nóng bức của bóng điện không có chụp treo trên đầu ông ta; ông ta nghiên cứu tình trạng của những lệnh tấn công và tìm địa điểm của chúng một cách chậm rãi, thận trọng và tỉ mỉ trên tấm bản đồ, như một viên sĩ quan trẻ nghiên cứu cách giải quyết một vấn đề trong trường tham mưu. Ông ta đánh giặc. Trong ý tưởng của ông ta, ông ta chỉ huy những toán quân; ông có quyền can thiệp, và ông ta nghĩ quyền này tạo thành một công cuộc chỉ huy. Ông ta ngồi ở đó, lá thư của Robert Jordan gửi cho Golz ở trong túi, Gomez và Andrès đợi trong phòng gác, trong khi Robert Jordan nằm dấi trong cánh rừng phía trên cầu. Có thể phần kết cuộc của sứ mạng Andrès đã đổi khác, nếu hắn và Gomez không gặp sự cản trở của André Massart. Không ai ở phòng tuyến có đủ thẩm quyền để hoãn cuộc tấn công. Bây giờ thì bộ máy đã chuyển động từ quá lâu rồi để người ta có thể ngừng nó ngay tức thì. Có nhiều sự ù lì chung quanh những cuộc hành quân, dầu thế nào đi nữa. Nhưng một khi tình trạng này đi qua và cuộc chuyển động đang diễn ra, thì ngăn chận nó cũng khó như khi phát động nó.
Đêm đó, ông già, đầu đội mũ nồi kéo ra trước, đang còn ngồi ở bàn trước bản đồ, thì cửa mở: Karkov, viên ký giả Nga, đi vào với hai người Nga mặc dân sự, áo khoác da và đội mũ kết. Tên xếp gác tiếc rẻ đóng cửa lại, Karkov là nhận vật quan trọng thứ nhất mà hắn đã tin cậy được.
– Tovarich Massart. – Karkov chào với giọng đả đớt và lịch sự một cách khinh khỉnh, và hắn mỉm cười nhe những chiếc răng xệu xạo của hắn.
Massart đứng dậy. Ông ta không ưa gì bản thân Karkov, nhưng Karkov, phóng viên của báo Pravda, người có liên hệ trục tiếp với Staline, lại là một trong ba nhân vật quan trọng ở Tây Ban Nha, vào thời này.
– Tovarich Karkov. – Ông ta chào.
– Đồng chí sửa soạn tấn công à? – Karkov hỏi xấc xược vừa phác một cử chỉ về phía tấm bản đồ.
– Tôi đang nghiên cứu đây. – Ông ta trả lời.
– Chính đồng chí sẽ tấn công hay Golz? Karkov hỏi một cách dịu dàng.
– Tôi chỉ là ủy viên, như đồng chí biết. – Ông ta nói với hắn.
– Không – Karkov nói – Đồng chí thật khiêm tốn. Đồng chí là một vị tướng thật sự. Đồng chí có bản đồ và ống dòm. Nhưng ngày xưa đồng chí không phải là Đô đốc hay sao, hở đồng chí Massart?
– Tôi là pháo thủ – Massart nói – Đó là một lời nói dối, ông ta là một người quản lý kho trong thời nội loạn. Nhưng ông ta thích nói mình là pháo thủ hơn.
– A! Tôi tưởng đồng chí trước kia là thủ kho chớ – Karkov nói – Tôi thường hay lầm lẫn. Đó là đặc tính của nhà báo mà.
Những người Nga khác không tham dự vào câu chuyện. Cả hai nhìn bản đồ qua vai Massart và trao đổi từng hồi một nhận xét bằng tiếng của họ. Massart và Karkov, sau những lời chào hỏi, bắt đầu nói bằng tiếng Pháp.
– Tốt hơn là đồng chí đừng có lầm lẫn trên báo Pravda – Massart trả đũa. Ông ta nói một cách đột ngột để tự trấn tĩnh. Karkov dè bĩu ông ta, thường làm ông ta cụt hứng, điều đó làm Massart bối rối và hung hăng. Khi Karkov nói, ông ta thường áy náy nhớ tới tầm quan trọng của mình trong đảng. Ông ta áy náy nhớ mình là người bất khả xâm phạm. Karkov thường có vẻ đụng chạm ông ta một cách rất nhẹ nhàng bất luận lúc nào. Bây giờ thì Karkov nói: “Tôi thường sửa chữa, trước khi gửi về Pravda. Trong báo Pravda tôi rất chính xác. Đồng chí Massart, đồng chí có nghe nói đến một bức thơ gởi cho tướng Golz do một trong những nhóm partizan của chúng ta đang hành quân về phía Ségovie không? Có một đồng chí Mỹ tên là Jordan mà chúng ta không còn lạ gì. Người ta cho chúng tôi hay là có những cuộc chiến đấu đằng sau phòng tuyến phát xít. Hắn đã gởi một bức thư cho Golz”.
– Một người Mỹ? – Massart hỏi – Andrès đã nói là một người Inglés mà. Chính thế. Ông ta đã lầm. Nhưng tại sao những tên ngu xuẩn này lại gặp ông ta?
– Phải – Karkov nói vừa nhìn ông ta với một vẻ khinh thị – Một thanh niên Mỹ, không tiến bộ lắm về chính trị, nhưng rất đồng tình với những người Tây Ban Nha và lại rành về partizan. Hãy đưa cho tôi lá thư, đồng chí Massart. Đã muộn lắm rồi.
– Thư nào? – Massart hỏi. Đó là một câu hỏi điên rồ và ông ta biết điều đó. Nhưng ông ta không thể thú nhận mau chóng là mình đã lầm và ông ta nói cốt chỉ để làm chậm giây phút nhục nhã.
– Và giấy thông hành nữa. – Karkov rít qua hàm răng xấu.
André Massart cho bàn tay vào túi và để lá thư lên bàn. Ông ta nhìn vào mắt Karkov. Được rồi. Ông ta đang lầm và ông ta không thể chối cãi điều đó, nhưng ông ta lại không chấp nhận sự sỉ nhục.
– Còn giấy thông hành nữa? – Karkov ôn tồn hỏi.
Massart đặt nó ở bên cạnh bức thơ.
– Đồng chí xếp cai! – Karkov gọi bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tên cai mở cửa bước vào. Hắn liếc mau André Massart, ông ta nhìn lại hắn như một con heo rừng già bị những con chó cưỡng bách. Không có vẻ gì sợ hãi trong những nét mặt của Massart nhưng cũng không có vẻ gì bị xúc phạm. Ông ta chỉ giận dữ và chỉ bị cường bách tạm thời. Ông ta biết là những con chó này không bao giờ làm gì được ông ta.
– Đem cái này cho hai đồng chí ở phòng gác và chỉ cho họ Tổng Hành Dinh của tướng Golz. – Karkov bảo – Đã quá muộn rồi.
Tên cai đi ra. Massart đưa mắt nhìn theo, rồi ngó Karkov.
– Tovarich Massart – Karkov nói – Tôi phải tìm hiểu xem đồng chí bất khả xâm phạm đến độ nào.
Massart nhìn thẳng vào hắn và không nói gì.
– Đừng có âm mưu hại tên cai – Karkov tiếp tục nói – Không phải tên cai nói với tôi. Tôi đã nhìn thấy hai người đi trong phòng gác, và họ nói trực tiếp với tôi (Đó là một lời nói dối). Tôi hy vọng là mọi người luôn luôn nói thẳng với tôi (Điều này đúng, mặc dầu chính tên cai đã nói với hắn). – Nhưng Karkov tin vào điều tốt của chính sự dễ dãi riêng nơi hắn và đức tính nhân đạo của những cuộc can thiệp đúng lúc. Đó là điều duy nhứt hắn không tỏ ra vô sỉ.
– Đồng chí biết rằng khi tôi ở Liên Xô, nhiều người viết về tòa báo Pravda cho tôi khi có sự bất công xảy ra ở Azerbaïdjan. Đồng chí biết điều này chớ? Họ nghĩ: Karkov sẽ giúp chúng ta.
André Massart nhìn hắn, tràn đầy sự giận dữ và ác cảm. Không có gì trong ý nghĩ của ông ta ngoài việc Karkov đã chơi ông ta. Được lắm, Karkov thế lực và toàn diện, hắn liệu mà đề phòng.
– Còn một điều khác, – Karkov tiếp tục nói – nhưng cũng cùng nguyên tắc. Tôi phải xem đồng chí bất khả xâm phạm đến độ nào, đồng chí Massart ạ. Tôi thích biết là có thể đổi tên của xưởng máy kéo hay không!
André Massart quay mặt đi và lại nhìn vào bản đồ.
– Tên thanh niên Jordan nói gì? – Karkov hỏi ông ta.
– Tôi không đọc lá thư – Massart trả lời – Và bây giờ hãy để tôi yên, đồng chí Karkov ạ!
– Được – Karkov nói – Tôi để đồng chí với công tác quân sự của đồng chí.
Hắn ra khỏi phòng và đi vào phòng gác. Andrès và Gomez đã đi rồi. Hắn ngừng lại một lát nhìn con đường và những đỉnh núi hiện ra trong màu xám nhạt đầu tiên của buổi bình minh. Hắn nghĩ, phải lên trên kia. Ngay bây giờ.
Andrès và Gomez lại lên đường trên chiếc mô-tô. Trời bắt đầu sáng. Andrès bám chặt lấy yên trong khi chiếc mô-tô leo lên con đường quanh co trong lớp sương mù xám nhạt trải rộng trên đỉnh đèo. Hắn cảm thấy chiếc xe nhảy lên dưới người hắn. Rồi hắn cảm thấy nó run rẩy và ngừng lại; họ đứng bên cạnh chiếc xe, trên đoạn đường dài đổ xuống. Trong khu rừng, về phía cánh trái, có những chiếc xe tăng phủ đầy cành thông. Những đoàn binh đầy dẫy ở khắp nơi. Andrès thấy nhiều người mang gọng cáng trên vai. Ba chiếc xe tham muu đậu phía bên phải, dưới những tàng cây, ở cách xa con đường, với những cành lá phủ hai bên và trên mui.
Gomez đẩy chiếc mô-tô lăn về phía một chiếc xe. Hắn dựng mô-tô vào một cây thông và nói với người tài xế đang ngồi dựa vào một gốc cây gần chiếc xe.
– Tôi dẫn các anh đến đó – Người tài xế nói – Hãy đẩy mô-tô ra xa và phủ nó bằng cái này. – Hắn chỉ một đống cành cây đã chặt sẵn.
Mặt trời bắt đầu rọi qua những cành cây thông cao, Gomez và Andrès đi theo người tài xế, tên là Vicente, len lỏi trong rừng cây, băng ngang con đường, leo lên một lối vào một đường hầm có những dây điện thoại trổ ra và đi theo con đường dốc có cây. Họ dừng lại ở ngoài, trong khi người tài xế đi vào, và Andrès ngắm nghía lối kiến trúc một nơi trú ẩn dưới đất có vẻ như một cái hang đơn giản bên sườn núi, không có những dấu vết ở chung quanh, nhưng từ lối vào có thể thấy nó sâu và rộng, và có những người đi lại dễ dàng không cần cúi đầu đưới lớp ván dầy.
Vicente, người tài xế, bước ra ngoài.
– Ổng đang ở trên đó, sửa soạn cuộc tấn công – Hắn nói – Tôi trao thơ lại cho tham mưu trưởng của ổng. Ông ta đã ký vào biên nhận. Đây này.
Hắn đưa phong bì cho Gomez. Gomez trao lại cho Andrès, Andrès liếc nhìn qua và bỏ vào túi áo.
– Người ký tên là gì? – Chàng hỏi.
– Duval. – Vicente đáp.
– Được rồi – Andrès nói – Đó là một trong ba người tôi có thể trao thư.
– Có đợi trả lời không? – Gomez hỏi Andrès.
– Thế thì càng tốt. Tuy nhiên, tôi không biết có tìm lại được ông Inglés và những người khác ở đâu sau câu chuyện cây cầu này không.
– Đợi ở chỗ tôi – Vicente nói – Cho đến khi ông tướng trở lại. Tôi sẽ lo cho các anh cà phê. Các anh hẳn phải đói rồi hả?
– Xe tăng nhiều quá! – Gomez nhận xét.
Họ đi qua trước những chiếc xe tăng màu bùn, phủ cành cây, dấu bánh xe lún xuống trên những xác lá thông, cho thấy lối xe rẽ xuống để tránh con đường. Những nòng đại bác 45 ly chĩa ngang dưới những cành cây, tài xế và pháo thủ mặc áo vét bằng da và mũ sắt đang ngồi dựa lưng vào gốc cây hoặc đang nằm dài trên mặt đất mà ngủ.
– Đây là toán trừ bị – Vincente nói – Cả những toán kia, cũng là trừ bị. Những người khởi sự tấn công ở trên kia.
– Đông quá. – Andrès nói.
– Phải – Vincente đáp – Cả một sư đoàn lận mà!
Trong hầm trú ẩn, Duval cầm lá thư của Robert Jordan nơi tay trái, nhìn đồng hồ ở cùng cổ tay, rồi đọc lại lần thứ tư, mỗi lần như thế hắn cảm thấy mồ hôi chảy dưới nách, và hắn nói qua điện thoại: “Cho tôi Ségovie! Thế nào? Ổng đi rồi? Cho tôi Avila”.
Hắn tiếp tục gọi diện thoại. Chẳng ích lợi gì. Hắn đã nói với hai lữ đoàn. Golz đã đi thanh tra việc chuẩn bị tấn công, sau đó lại đi về một trạm quan sát. Hắn gọi trạm quan sát, ông ta không có đó.
– Cho tôi căn cứ không quân số 1. – Duval nói, hăn ngẫu nhiên nhận hết trách nhiệm cho mình. Hắn có trách nhiệm cho ngừng lại tất cả. Tốt hơn là ngừng tất cả lại. Người ta không thể tung ra cuộc tấn công bất ngờ chống một kẻ địch đang chờ mình. Không thể làm thế. Như thế là sát nhân. Không thể. Không thể được. Dầu đi đến đâu nữa. Họ có thể xử bắn hắn, nếu họ muốn. Hắn lại gọi điện thoại thẳng cho căn cứ không quân và hủy bỏ lệnh dội bom. Nhưng nếu đây chỉ là một cuộc tấn công dương đông kích tây thì sao? Nếu chúng ta đánh lạc hướng tất cả khí tài và những toán quân này? Nếu tất cả chỉ là thế? Người ta không bao giờ nói đây là một cuộc tấn công dương đông kích tây với những người có bổn phận thực hiện nó.
– Hủy bỏ liên lạc với căn cứ số 1 – Hắn nói với điện thoại viên – Cho tôi trạm quan sát của lữ đoàn 69.
Hắn vẫn còn chờ cuộc liên lạc khi nghe thấy những tiếng máy bay đầu tiên. Vào lúc này, trạm quan sát lên tiếng trả lời.
– Đúng, tôi đây. – Golz trả lời ôn tồn.
Ông ta đang ngồi dựa lưng vào những bao cát, chân kê trên một tảng đá, điếu thuốc dính vào môi dưới, và ông vừa nhìn lên không qua vai vừa nói. Ông nhìn máy bay lấp lánh từng ba chiếc một đang gầm thét trong bầu trời, trên đỉnh núi nơi mặt trời đang chiếu những tia sáng đầu tiên. Ông ta nhìn chúng, tuyệt diệu và lấp lánh dưới ánh nắng. Ông nhìn những vòng tròn kép của những cánh quạt ánh lên trong những tia nắng mặt trời.
– Được rồi – Ông trả lời bằng tiếng Pháp, bởi Duval đang ở đầu dây – Hỏng rồi. Phải. Như mọi khi. Phải. Thật đáng tiếc. Phải. Đáng tiếc là quá trễ.
Khi ông nhìn những máy bay đến, đôi mắt ông đầy kiêu hãnh, ông phân biệt dấu hiệu đỏ trên cánh và ông quan sát chúng đều đặn tiến tới, oai vệ và ầm ĩ. Phải vậy mới được chớ. Đó, những máy bay của chúng ta đó. Chúng đã được tháo rời, rồi chở trên những con tàu đi từ Biển Đen, qua những eo biển, vượt Dardanelles, Địa Trung Hải đến đây; chúng được đưa xuống, ráp và thử tại Alicante, người ta đã thấy chúng hoàn hảo, bây giờ thì chúng đang bay thành những chữ V sắc nhọn cao ngất và lấp lánh với một mức độ chính xác tinh vi trong ánh mặt trời buổi sáng để phá tan những đỉnh núi, làm chúng nổ tung ra để chúng ta có thể tiến quân lên được.
Golz biết rằng một khi chúng bay qua thì bom sẽ rơi xuống trông như những con cá heo trên trời. Rồi những đỉnh núi sẽ nổ tung lên, tan tác thành những đám mây trong những tiếng ì ầm điếc tay và biến mất trong một màn khói dày đặc. Tiếp đến những chiếc xe tăng sẽ tiến lên tàn phá hai bên sườn núi, và sau đó hai lữ đoàn của ông sẽ tới. Và nếu đó là một trường hợp bất ngờ, họ có thể tiến quân; rồi tràn xuống núi, rồi vượt qua, rồi băng ngang, đồng thời dừng lại, càn quét, làm những gì cần làm (có nhiều điều phải làm lắm) một cách thông minh với sự yểm trợ của xe tăng, những chiếc xe tăng bắn yểm hộ, những chiếc khác thì đưa những toán tân công tiến tới trước, rồi đánh tới, đánh lên, đánh qua, đánh xuống. Tất cả diễn ra như thế nếu không có phản bội và nếu mỗi người biết rõ nhiệm vụ của mình.
Có hai đỉnh núi và có những chiếc xe tăng tiến lên trước, và có hai lữ đoàn kia sẵn sàng rời những khu rừng, và giờ đây phi cơ đã tới. Ông đã làm tất cả những gì phải làm.
Nhưng khi nhìn những chiếc phi cơ giờ đây gần như đang bay trên đầu mình, ông ta có một cảm giác buồn nôn vì đã nghe qua điện thoại lá thư của Jordan nói rằng không có ai trên hai đỉnh núi kia. Có lẽ chúng đã rút về phía dưới một chút, trong những chiến hào để tránh bom đạn, hoặc ẩn nấp trong rừng và khi những chiếc phi cơ ném bom bay qua rồi thì chúng lại sẽ kéo lên với súng máy, vũ khí tự động và đại bác chống xe tăng, tất cả, theo lời Jordan, đã được đưa tới đó, và đây sẽ là một cuộc tàn sát mới. Nhưng những chiếc phi cơ với những tiếng gầm rú điếc tai đã đến, đúng theo kế hoạch; và Golz ngẩng đầu lên nhìn theo chúng, và nói vào điện thoại: “Không! Không làm gì được. Đừng nghĩ. Phải chấp nhận thôi” [6]
Golz nhìn những chiếc phi cơ bằng cặp mắt cương quyết và đầy tự hào, ông biết rõ mọi việc đáng lý phải xảy ra như thế nào và rồi đây chúng sẽ xảy ra như thế. Ông tự hào về việc chúng phải xảy ra như thế nào ngay khi chúng không hề xảy ra: “Tốt. Chúng ta sẽ làm hết khả năng nhỏ nhoi của chúng ta” [7]
Nhưng Duval không nghe Golz nói gì. Ngồi nơi bàn, tay cầm ống nghe, ông ta chỉ nghe tiếng gầm thét của phi cơ, và ông ta nghĩ: bây giờ, có thể là lần này, hãy nghe tiếng chúng bay tới, có thể phi cơ ném bom sẽ làm nổ tung tất cả, có thể lần này chúng ta sẽ chọc thủng phòng tuyến của chúng, có thể ông ta sẽ nhận được lực lượng trừ bị mà ông ta đã yêu cầu, có thể là được thôi, có thể là lần này đây… Đi! Tới đó đi! Tới đó đi! Tiếng phi cơ gầm thét đến nỗi Golz không còn nghe mình đang nghĩ gì nữa.
Chú thích:
[1] Nhiều, nhiều.
[2] Như anh đã nghe.
[3] Tiếng chửi: Tao ỉa vào đĩ mẹ nó!
[4] Nó điên.
[5] Tiếng chửi: Đồ con của đĩ rạc.
[6] [7] Tiếng Pháp.