Chuông Gọi Hồn Ai (8)

Chương 8

Đêm thoảng hơi lạnh. Robert Jordan nằm ngủ say sưa. Chàng thức giấc một lần và trong lúc vươn vai, chàng cảm thấy cô gái vẫn còn đó, nằm cuốn tròn ở dưới thấp hơn chàng trong túi ngủ, hơi thở nhẹ và đều. Rồi thì, trong bóng tối chàng thò đầu ra ngoài hơi lạnh, bầu trời cứng nạm những vì sao, bầu không khí lạnh lẽo xông đầy vào mũi chàng; chàng vùi trong hơi ấm của túi ngủ và hôn lên bờ vai dịu mềm của cô gái. Cô gái vẫn ngủ, chàng xoay người qua một bên, nằm dang ra, và – đầu chàng lại thò ra khỏi túi ngủ, trong hơi lạnh – chàng tiếp tục thức trong khoảnh khắc, hưởng thụ tất cả cái vẻ xa xỉ của cơn mệt, rồi niềm khoái cảm trơn nhẵn, thuộc phần xúc giác của đôi thân thể họ đang sáp lại bên nhau; đoạn chàng duỗi thẳng đôi chân đến khi đụng vào đáy túi ngủ và chàng lại chìm sâu tức thì trong giấc ngủ.

Chàng thức dậy vào sáng sớm, cô gái đã ra đi. Chàng nhận ra điều đó khi bừng mắt dậy, và khi giơ thẳng tay ra, chàng cảm thấy cái túi ngủ hãy còn nóng ở chỗ nàng nằm. Chàng nhìn vào cửa hang nơi có cái mềm treo rũ xuống, thấm đẫm sương đêm, và chàng thấy một làn khói xám, mỏng bay lên từ một kẽ hở của những tảng đá báo hiệu lửa bếp đã nhóm lên rồi.

Một người đàn ông bước ra từ rừng cây, một cái mền trùm lên đầu, giống như một cái poncho: đó chính là Pablo, hắn đang hút một điếu thuốc. Jordan nghĩ, hắn vừa dẫn ngựa vào khoảng đất căng dây.

Pablo đẩy cánh cửa và bước vào hang, mắt không nhìn về hướng Robert Jordan.

Robert Jordan dùng tay sờ lên lớp sương phủ trên lớp lụa mỏng, cũ, và lấm lem bọc ngoài tấm chăn chàng vẫn dùng từ năm năm nay, sau đó lại vùi đầu vào bên trong. Bueno, chàng nhủ thầm, đồng thời nghe cơn vuốt ve nhẹ nhàng của lớp nỉ lót trên đôi chân duỗi thẳng của chàng; chàng dang hai chân ra, đoạn khép chúng lại và xoay người về một bên bằng cách nào cho đầu chàng không nằm ở hướng mặt trời chiếu xuống. Que mas da, tôi dư sức ngủ nữa mà.

Chàng ngủ cho đến khi có tiếng động cơ của máy bay đánh thức chàng dậy.

Chàng nằm ngả người trên lưng, chàng trông thấy chúng, phi đoàn tuần thám của bọn phát xít gồm ba chiếc Fiat, nhỏ, sáng, bay vút qua vùng trời miền núi, hướng về phía mà Anselmo và chàng đã tới vào bữa trước. Ba chiếc đó biến mất, đoạn chín chiếc khác bay tới ở trên cao hơn nhiều, đội hình ba chiếc một.

Pablo và tên du mục đang đứng bên cửa hang, trong bóng tối, họ ngẩng mặt nhìn trời, trong khi Robert Jordan vẫn còn nằm bất động. Bầu trời bây giờ đầy tiếng gầm thét ầm ĩ nổi lên và ba chiếc phi cơ khác xuất hiện, lần này cỡ non ba trăm thước trên khu rừng. Ba chiếc này thuộc loại phóng pháo Heinkel 111, hai máy.

Trong bóng tối của các tảng đá, Robert Jordan biết rằng chúng không thấy chàng và nghĩ rằng dù chúng có trông thấy được chàng thì điều đó không có gì quan hệ. Chàng biết chúng có thể trông thấy những con ngựa trong vuông rào nếu chúng đang tìm kiếm một dấu hiệu nào đó trên những ngọn núi này. Nếu trông thấy, hẳn nhiên chúng sẽ cho là những con ngựa đó thuộc đội kỵ binh của chúng. Đoạn có một tiếng gầm thét khác mạnh hơn. Ba chiếc Heinkel 111 xuất hiện, vụt đến gần, xuống thấp hơn nữa, tiếng gầm lên cao dần tới độ điếc tai, đoạn hạ thấp xuống khi chúng qua khỏi khu rừng.

Robert Jordan mở ba lô quần áo dùng làm gối đầu và lấy ra chiếc áo sơ-mi. Chàng đang mặc áo thì nghe những chiếc phi cơ kế tiếp; chàng mặc quần, chàng vẫn nằm im trong túi ngủ, khi trên nền trời hiện ra ba chiếc phóng pháo mới loại Heinkel hai máy. Trước khi chúng khuất dạng sau đỉnh núi, chàng đã cài xong khẩu súng lục, cuốn tròn cái túi ngủ và đặt nó sát bên những tảng đá, và chàng đang ngồi tựa lưng vào đó, cột lại giày, trong khi tiếng gầm thét lại đến gần, trở nên ầm ĩ, điếc tai hơn bao giờ hết, và chín chiếc phóng pháo khác loại Heinkel cỡ nhẹ bay đến gần, từng đợt một, chẻ đôi bầu trời.

Robert Jordan đi mon men dọc theo những tảng đá đến bên cửa hang, nơi một người trong đôi anh em, Pablo, tên du mục, Anselmo, Angustin và người đàn bà đang đứng nhìn.

– Đã có nhiều phi cơ bay như vậy chưa? – Chàng hỏi.

– Không hề – Pablo nói – Đồng chí vào đi. Chúng trông thấy đồng chí bây giờ.

Ánh nắng chưa rọi tới cửa hang. Nó chỉ mới soi sáng bãi cỏ gần con suối. Robert Jordan biết rằng những chiếc phi cơ khó lòng trông thấy được chàng trong bóng tối, nhờ bóng cây buổi sáng sớm, bóng râm của núi đá hắt xuống, tất cả đã che phủ lấy chàng. Nhưng chàng vẫn bước vào trong hang để khỏi làm cho bọn họ phải cáu kỉnh.

– Có nhiều phi cơ lắm. – Người đàn bà nói.

– Và chúng sẽ trở lại nữa. – Robert Jordan nói.

– Sao đồng chí biết? – Pablo hỏi, giọng ngờ vục.

– Những chiếc này sẽ có loại khu trục bay theo chúng.

Đúng vào lúc đó, họ nghe tiếng chúng rống dữ dội hơn, giống như tiếng rên rỉ, và trong khi chúng bay đến còn cách độ một ngàn hai trăm thước, Robert Jordan đếm được mười lăm chiếc Fiat phối trí giếng như chuyến bay của loài ngỗng trời, theo từng nhóm ba chiếc bay thành hình chữ V.

Tại cửa hang, mọi người đều mang bộ mặt trầm trọng và Robert Jordan hỏi: “Các đồng chí chưa hề trông thấy nhiều máy bay như vậy à?”

– Chưa bao giờ. – Pablo nói.

– Ở Ségovie có nhiều phi cơ như vậy lắm không?

– Chưa bao giờ nhiều như vậy cả. Bình thường người ta chỉ thấy vài ba chiếc khu trục, thỉnh thoảng sáu. Có thể có ba chiếc Junkers loại lớn có ba máy, bay với những chiếc khu trục. Chưa bao giờ người ta trông thấy lắm phi cơ đến như vậy.

Điềm xấu, Robert Jordan nhủ thầm, xấu thật, việc tập trung phi cơ này quả là một điềm thật xấu. Mình phải lắng nghe xem chúng trút đạn xuống đâu. Nhưng mà không, chúng chưa mang bộ đội tấn công tới. Chắc chắn là chưa trước chiều nay hay chiều mai, chắc chắn là chưa. Chưa có đơn vị nào di chuyển vào giờ phút này.

Chàng vẫn còn nghe tiếng gầm thét đang xa dần. Chàng nhìn đồng hồ. Bây giờ hẳn chúng đã bay trên các phòng tuyến, chắc hẳn là các phòng tuyến đầu tiên. Chàng bấm nút điều khiển cây kim chỉ giây và nhìn nó quay. Không, có thể chưa đâu. Bây giờ. Rồi. Bây giờ thì chúng bay xa rồi. Bốn trăm cây số một giờ cho những chiếc 111. Phải năm phút chúng mới tới dưới đó được. Bây giờ chúng đã bay khỏi đèo, đang lượn trên vùng Castille toàn màu vàng và màu hung hung trong buổi sáng, màu vàng bị kẻ ngang dọc bởi những con đương trắng xóa, lấm tấm điểm những làng mạc nhỏ, bóng của những chiếc Heinkel lướt trên vùng thôn dã trông như bóng những con cá mập trên bãi cát dưới đáy đại dương.

Chàng không nghe một tiếng bom nào. Chiếc đồng hồ của chàng vẫn tiếp tục kêu tic-tac.

Chúng bay về Colmenar, Escurial hoặc về phi trường Mandanarès el Real, chàng nghĩ, nơi có một lâu đài cổ nằm trên bờ hồ và những con vịt bơi len lỏi trong đám lau sậy, và một phi trường giả nằm ngay phía sau phi trường thật, với những chiếc phi cơ giả ngụy trang hết phân nửa, những cánh quạt quay trong gió. Hẳn chúng phải tới đó. Chúng không thể nào biết trước cuộc tấn công, chàng nghĩ thầm như vậy, và một cái gì lên tiếng trong chàng: tại sao vậy? Chúng đã biết trước hầu hết những cuộc tấn công khác kia mà.

– Đồng chí tin rằng chúng đã trông thấy ngựa rồi à? – Pablo hỏi.

– Những chiếc phi cơ đó không chủ ý tìm kiếm ngựa.

– Nhưng liệu chúng có trông thấy ngựa không?

– Không, trừ phi người ta bảo chúng tìm.

– Chúng có thể trông thấy không?

– Có thể không – Robert Jordan nói – Trừ phi có ánh sáng mặt trời trên những ngọn cây.

– Trời hãy còn sớm. – Pablo buồn bã nói.

– Tôi tin rằng chúng có nhiều điều để nghĩ tới hơn là mấy con ngựa của đồng chí. – Robert Jordan nói.

Tám phút đã trôi qua kể từ lúc Robert Jordan bấm nút chiếc đồng hồ. Người ta vẫn chưa nghe tiếng bom nào.

– Đồng chí làm gì với chiếc đồng hồ vậy. – Người đàn bà hỏi.

– Tôi nghe xem chúng đi đâu.

– À! – Bà ta nói. Trong vòng mười phút, chàng không nhìn vào đồng hồ nữa, hiểu rằng bây giờ chúng đã cách quá xa để có thể nghe được, dù có kể tới một phút cho đường đi của âm thanh. Và chàng nói với Anselmo: “Tôi muốn nói với đồng chí chút việc”.

Anselmo ra khỏi hang; hai người đàn ông đi được vài bước thì ngừng lại dưới một cây thông. “Qué fal [1] – Robert Jordan hỏi – Thế nào?”

– Được lắm.

– Đồng chí ăn chưa?

– Không. Chưa ai ăn cả.

– Vậy thì đồng chí ăn đi và mang theo món gì cho buổi trưa. Tôi muốn đồng chí quan sát con đường. Đồng chí hãy ghi nhận những gì xảy ra trong hai chiều.

– Tôi không biết viết.

– Không cần. – Robert Jordan xé hai trang giấy từ cuốn sổ tay, và dùng con dao cắt một đoạn ba phân của cây bút chì của chàng – Đồng chí cầm cái này và đánh dấu những chiếc chiến xa như vầy đây (chàng vẽ sơ lược một chiếc chiến xa) mỗi chiếc một gạch và khi có được bốn, đồng chí gạch ngang lên cả bốn để chỉ chiếc thứ năm.

– Bọn này cũng đếm bằng cách đó.

– Tốt. Đồng chí hãy làm một cái dấu khác, hai cái bánh xe và một cái thùng cho những chiếc xe cam nhông. Xe trống thì vẽ một hình tròn. Xe đầy thì hình một cây gậy. Vẽ một cái dấu cho những khẩu đại bác. Lớn thì thế này. Nhỏ thì thế này. Một dấu cho xe hơi. Một dấu cho xe hồng thập tự. Như thế này, hai cái bánh xe và một cái thùng với một dấu chữ thập ở trên. Một dấu cho từng đại đội bộ binh, như thế này, đồng chí thấy chớ? Một hình vuông và một dấu cho kỵ binh, như thế này, đồng chí thấy chớ? Giống như một con ngựa. Một hình chữ nhật có bốn chân. Như vầy là một đội gồm hai chục con ngựa. Đồng chí hiểu rồi chớ? Mỗi đội một cái dấu.

– Hiểu rồi. Lối này tinh thật.

– Bây giờ – Chàng vẽ hai cái bánh xe lớn có những vòng tròn chung quanh và một gạch ngắn chỉ một khẩu đại bác – những cái này là những khí giới chống chiến xa. Chúng có bánh xe. Một cái dấu cho chúng. Những cái này là những ổ phòng không, hai bánh xe với một khẩu đại bác chĩa lên trời. Một cái gạch cho chúng nữa. Đồng chí hiểu chớ? Đồng chí đã thấy những khẩu đại bác như thế này chưa?

– Rồi – Anselmo nói – Dĩ nhiên. Rõ quá mà.

– Đồng chí hãy dẫn tên du mục đi theo để hắn biết đồng chí ở đâu và để người ta có thể tới đón đồng chí về. Hãy chọn một địa điểm chắc chắn, đừng gần quá, và là nơi đồng chí có thể trông rõ ràng và thuận tiện. Hãy ở lại đó cho tới khi người ta tới đón đồng chí về.

– Hiẽu rối.

– Tốt lắm. Và khi đồng chí trở về, tôi muốn biết tất cả những gì xảy ra trên con đường. Có một tờ cho bận lên, một tờ cho bận xuống.

Họ trở về hang.

– Gọi Rafael đến đây cho tôi – Robert Jordan nói. Và chàng đứng đợi sau một thân cây. Chàng nhìn Anselmo bước vào hang và tấm mền buông trở xuống sau lưng lão. Tên du mục uể oải bước ra ngoài đưa lưng bàn tay lên chùi miệng.

– Qué tal – Tên du mục nói – Đêm rồi đồng chí vui vẻ chớ?

– Tôi ngủ.

– Càng hay, – Tên du mục nói – đồng chí có thuốc lá không?

– Đồng chí nghe này – Robert Jordan vừa nói vừa sờ các túi tìm thuốc lá – Tôi muốn đồng chí đi với Anselmo tới chỗ lão ta trông chừng con đường. Đến đó, đồng chí để lão ở lại đồng thời ghi nhận địa điểm để có thể dẫn tôi tới đó, tôi hay một người nào khác sẽ tới đón lão về sau đó. Sau đó, đồng chí đi quan sát trại cưa và ghi nhận xem có gì thay đổi trong đồn canh không.

– Thay đổi gì?

– Bây giờ có bao nhiêu người trong đó?

– Tám. Tin giờ chót.

– Đồng chí xem trong lúc này có bao nhiêu người. Đồng chí ghi nhận xem cứ cách khoảng chừng bao lâu người ta lại đổi phiên gác trên cây cầu đó.

– Cách khoảng làm sao?

– Tên lính gác ở lại trong bao lâu và giờ nào người ta thay hắn.

– Tôi không có đồng hồ.

– Đồng chí lấy đồng hồ tôi. – Chàng tháo đồng hồ của mình ra.

– Đồng hồ đẹp chưa! – Rafael kêu lên, trầm trồ – Trong những cái rối rắm phức tạp của nó kìa. Một cái đồng hồ như vầy hẳn phải biết viết và biết đọc. Hãy trông giùm tôi vẻ rắc rối của những con số. Đây là một cái đồng hồ vô địch.

– Đừng đùa – Robert Jordan nói – Đồng chí biết xem giờ không?

– Tại sao không? Mười hai giờ trưa. Đói bụng. Mười hai giờ khuya. Ngủ. Sáu giờ sáng, đói bụng. Sáu giờ chiều, say. Nếu may ra. Mười giờ tối…

– Thôi – Robert Jordan nói – Đồng chí không cần làm trò hề. Tôi muốn đồng chí quan sát tên lính gác nơi cây cầu lớn và đồn canh trên con đường phía dưới cũng như quan sát đồn canh và lính gác của trại cưa và cây cầu nhỏ.

– Nhiều việc quá – Tên du mục mỉm cười – Đồng chí có chắc hắn là không còn ai để giao phó công việc hay hơn tôi không?

– Không, Rafael ạ. Điều rất hệ trọng là đồng chí phải làm việc rất cẩn trọng và đừng để lộ tung tích.

– Tôi tin rằng tôi sẽ không để bị lộ đâu – Tên du mục nói – Tại sao đồng chí bảo tôi là đừng để bị lộ. Đồng chí tưởng tôi muốn ăn đạn lắm à?

– Đồng chí nên đứng đắn một chút – Robert Jordan nói – Đây là việc đứng đắn.

– Đồng chí bảo tôi phải đứng đắn sau những gì đồng chí đã làm trong đêm vừa rồi à? Khi đồng chí phải giết một người và thay vì giết, đồng chí làm điều đã làm? Đồng chí có bổn phận giết một người, không phải tạo nên một người. Khi bọn tôi vừa nhìn thấy trên trời đầy những phi cơ dùng để tàn sát bọn tôi, từ cha ông bọn tôi xuống tới cháu chắt bọn tôi hãy còn chưa đẻ, ngang qua súc vật, từ dê tới rệp. Những chiếc máy bay gây nên tiếng động làm sữa phải đông đặc trong vú của mẹ đồng chí khi chúng bay đen trời và khi chúng rống như sư tử, và đồng chí bảo tôi phải đứng đắn. Tôi đứng đắn lắm rồi chớ!

– Hay lắm – Robert Jordan nói, chàng cười và đặt bàn tay lên vai tên du mục – Kìa, đừng đứng đắn quá. Bây giờ thì hãy kết thúc bữa điểm tâm của đồng chí và lên đường đi.

– Còn đồng chí – Tên du mục hỏi – Đồng chí làm gì?

– Tôi sắp sửa gặp El Sordo.

– Sau khi những chiếc phi cơ kia bay qua, rất có thể đồng chí không tìm thấy một người nào trên tất cả các ngọn núi này – Tên du mục nói – Hẳn có nhiều người toát mồ hôi hột sáng nay khi phi cơ bay qua.

– Những chiếc phi cơ đó làm việc gì khác hơn là săn đuổi du kích quân.

– Đúng rồi – Tên du mục nói. Đoạn hắn lắc đầu – Nhưng bao giờ chúng bắt đầu làm công việc đó?

– Làm sao có chuyện đó – Robert Jordan nói – Đó là những chiếc tốt nhất của tất cả loại phi cơ phóng pháo cỡ nhẹ của Đức, người ta không gởi những thứ đó tới để chống lại dân du mục đâu.

– Chúng làm tôi kinh hồn – Rafael nói – Những cái đồ đó, đúng, chúng làm tôi khiếp.

– Chúng sắp sửa oanh tạc một phi trường – Robert Jordan vừa nói vừa bước vào trong hang – Tôi gần như chắc chắn là chúng bay tới đó.

– Đồng chí nói gì? – Bà vợ của Pablo hỏi. Bà ta rót đầy một chén cà phê cho chàng và trao cho chàng một hộp sữa đặc.

– Có sữa à? Sang quá!

– Có đủ mọi thứ – Bà ta nói – Và từ khi có máy bay tới, thiên hạ ai cũng sợ hãi. Theo đồng chí thì chúng bay đi đâu?

Robert Jordan cho chảy một ít sữa đặc kẹo vào cà phê qua kẽ hở của cái hộp, chùi nó vào miệng tách và quậy cà phê cho tới khi nó có một màu nâu sáng.

– Tôi nghĩ, chúng sắp sửa oanh tạc một phi trường. Chúng cũng có thể tới Escurial hay Colmenar. Có thể cả ba điều.

– Phải chi chúng bay thật xa và đừng trở lại đây. – Pablo nói.

– Và tại sao bây giờ chúng lại xuất hiện ở đây? – Người đàn bà hỏi – Cái gì bắt chúng tới? Người ta chưa hề trông thấy nhiều máy bay như vậy. Cũng không từng thấy một số lượng máy bay như vậy. Chúng sửa soạn một cuộc tấn công à?

– Đêm rồi có cuộc vận chuyển nào trên con đường không? – Robert Jordan hỏi. Maria đang đứng sát bên chàng nhưng chàng không nhìn vào nàng.

– Không. – Một người đàn ông đáp. Hắn có khuôn mặt cởi mở, tuổi độ ba mươi lăm, có một con mắt sưng húp, mà trước đây Robert Jordan chưa trông thấy – Một vài chiếc cam nhông như thường lệ. Những chiếc xe hơi. Không có cuộc động binh nào khi tôi ở đó.

– Đồng chí tới La Granga mỗi đêm chớ? – Robert Jordan hỏi hắn.

– Tôi hoặc một người khác – Fernando nói – Luôn có người tới đó.

– Họ lo về tin tức, thuốc lá, công việc. – Người đàn bà nói.

– Ta có người ở đó không?

– Có. Những người làm việc ở nhà máy điện. Và nhiều người khác nữa.

– Tin tức ra sao?

Pues nadas [2], không có gì. Tình hình tiếp tục tệ hại ở miền Bắc. Không mới lạ gì. Ở miền Bắc tình hình tệ hại từ lúc đầu.

– Không nghe nói gì về Ségovie à?

– Không, hombre, tôi không hỏi.

– Đồng chí có tới Ségovie à?

– Thỉnh thoảng – Fernando nói – Nhưng nguy hiểm lắm. Có nhiều trạm kiểm soát, ở đó chúng hỏi giấy tờ.

– Đồng chí biết phi trường chớ?

– Không, hombre [3], tôi biết nó ở đâu rồi, nhưng chưa tới đó bao giờ. Ở chỗ đó người ta hỏi giấy tờ gắt lắm.

– Không ai nói về những chiếc phi cơ hồi chiều hôm qua à?

– Ở La Granja à? Không ai nói hết. Nhưng chắc chắn họ sẽ nói vào chiều nay. Người ta nói về bài diễn văn của Queipo de Llano đọc trên đài phát thanh. Không có gì khác. À, có… Dường như là quân Cộng Hòa đang chuẩn bị một cuộc tấn công.

– Dường như là cái gì?

– Là quân Cộng Hòa đang chuẩn bị một cuộc tấn công.

– Tin này ở đâu ra?

– Ở đâu? Ơ kìa! Ở nhiều chỗ khác nhau. Bọn sĩ quan nói trong các tiệm cà phê, ở Segovie và Avila, và tụi bồi nghe được. Những tiếng đồn lan rộng ra. Từ ít ngày nay, người ta nói về một cuộc tấn công của quân Cộng Hòa tại đây.

– Của quân Cộng Hòa hay của bọn phát xít?

– Của quân Cộng Hòa. Đây là một cuộc tấn công quan trọng. Nhiều người còn nói là sẽ có tới hai cuộc tấn công lận. Một ở đây và một ở Alto de Léon gần Escurial. Đồng chí có nghe không?

– Người ta còn nói gì với đồng chí nữa không?

– Không, hombre, à! Có. Người ta còn nói là phe Cộng Hòa định phá sập các cây cầu nếu có xảy ra một cuộc tấn công. Nhưng những cây cầu đều được phòng thủ.

– Đồng chí có đùa không đó? – Robert Jordan nói, vừa uống cà phê.

– Không đâu, hombre. – Fernando nói.

– Tên đó không đùa đâu – Người đàn bà nói – Và đáng tiếc.

– Vậy, – Robert Jordan nói – cám ơn đồng chí về những tin tức này. Đồng chí không biết gì khác à?

– Không. Người ta nói, như lúc nào người ta cũng nói, về những bộ đội được gửi tới để san bằng những ngọn núi này. Người ta nói họ đang trên đường đi tới. Họ đã tới Valladodid. Nhưng mà người ta vẫn luôn nói vậy. Không nên chú ý tới làm gì.

– Còn ông, – Người đàn bà nói với Pablo bằng một giọng gần như hung dữ – ông với những lý sự về sự an toàn của ông.

Pablo nhìn bà ta dáng nghĩ ngợi, hắn gãi cằm.

– Bà thì lúc nào cũng với những cây cầu của bà. – Hắn nói.

– Những cây cầu nào? – Fernando vui vẻ hỏi.

– Đồ ngu – Người đàn bà nói với hắn – Đồ tối dạ. Tonto [4]. Hãy uống thêm một tách cà phê và thử nhớ lại những tin tức khác coi nào.

– Đừng nổi nóng, Pilar – Fernando nói, trầm tĩnh và vui vẻ – Đừng lo ngại gì với những câu chuyện tào lao. Tôi đã nói với đồng chí này tất cả những gì tôi nhớ được.

– Đồng chí không nhớ gì thêm à? – Robert Jordan hỏi.

– Không – Fernando nói với một vẻ trịnh trọng – Và may mắn mà tôi còn nhớ điều này, bởi vì đó là những chuyện tào lao và tôi không chú ý tới làm gì.

– Vậy chắc còn điều gì nữa hả?

– Ừ, có thể. Nhưng tôi không chú ý tới. Từ cả năm nay tôi nghe toàn những chuyện tào lao.

Robert Jordan nghe có tiếng cười khúc khích, chính cô gái Maria đang đứng sau lưng chàng đã không thể nín cười được.

– Đồng chí hãy nói cho chúng tôi nghe thêm một chuyện tào lao nữa đi, Fernando. – Nàng nói và một lần nữa hai vai nàng rung lên vì tràng cười nắc nẻ.

– Nếu tôi còn nhớ, tôi sẽ không lặp lại đâu – Fernando nói – Người nghe những chuyện tào lao mà coi chúng quan trọng là người thiếu tư cách.

– Và chính nhờ đó mà ta cứu nền Cộng Hòa đó. – Người đàn bà nói.

– Không. Các người sẽ cứu nền Cộng Hòa bằng cách phá cầu. – Pablo nói với bà.

– Đi đi – Robert Jordan nói với Anselmo và Rafael. – Nếu các đồng chí đã ăn rồi.

– Bọn tôi đi đây. – Lão già nói và cả hai đứng dậy. Robert Jordan cảm thấy một bàn tay đặt lên vai chàng. Đó là Maria: “Anh phải ăn – Nàng nói, và nàng để tay nàng nằm yên trên vai chàng – Anh ăn cho nhiều để bao tử anh còn có thể chịu được những câu chuyện tào lao khác”.

– Những chuyện tào lao làm cho anh hết muốn ăn.

– Không. Không nên. Bây giờ anh hãy ăn cái này, còn nhiều chuyện tào lao khác nữa. – Nàng đặt cái chén trước mặt chàng.

– Đùng chế nhạo tôi – Fernando bảo nàng – Tôi là bạn của đồng chí mà, Maria.

– Tôi không chế nhạo đồng chí đâu, Fernando. Tôi chế nhạo anh ấy đó, và anh ấy phải ăn, không thì đói.

– Bọn mình ai cũng phải ăn hết. – Fernando nói – Pilar, có chuyện gì, sao không ai dọn cho tụi tôi ăn cả?

– Không có chuyện gì đâu, hombre – Vợ Pablo nói, và bà núc món ra gu đầy chén Fernando – Ăn đi. Ừ, việc này thì đồng chí có thể làm được. Bây giờ thì đồng chí ăn đi.

– Món này thật ngon, Pilar ạ! – Fernando bảo, với tất cả cái dáng vẻ đầy trịnh trọng của hắn.

– Cám ơn, – Người đàn bà nói – cám ơn và cám ơn.

– Đồng chí giận tôi à? – Fernando hỏi.

– Không. Ăn đi. Ăn rút lên đi.

Robert Jordan nhìn Maria, đôi vai cô gái lại bắt đầu rung lên trong tràng cười rũ rượi và nàng quay mắt đi.

Fernando ăn một cách từ tốn, vẻ đạo mạo hiện rõ trên mặt, sự đạo mạo mà cái muỗng to lớn lẫn dong nước mỏng của thức ăn chảy dài nơi khóe miệng hắn cũng không làm tổn hại được.

– Thức ăn vừa ý đồng chí chớ? – Người đàn bà hỏi.

– Vâng, Pilar ạ. – Hắn nói, miệng đầy thức ăn – Như thường lệ.

Robert Jordan nhận ra bàn tay của Maria đặt trên cánh tay của chàng và những ngón tay của cô gái siết lại trong khoan khoái.

– Chính món này đồng chí thích đây phải không – Người đàn bà hỏi Fernando – Ừ – Bà ta nói tiếp – Tôi thấy mà. Món ra gu, như thường lệ. Como siempre [5]. Công việc tệ hại ở miền Bắc, như thường lệ. Một cuộc tấn công ở đây, như thường lệ. Bộ đội đến đây săn đuổi chúng ta, như thương lệ. Đồng chí có thể ngồi làm mẫu cho một bức tượng, như thường lệ.

– Nhưng hai điều sau cùng chỉ là chuyên tào lao thôi, Pilar ạ.

– Ôi xứ Tây Ban Nha – Vợ Pablo chua chát thốt lên. Đoạn bà ta quay sang Robert Jordan – Ở các nước khác liệu có những người như thế này không?

– Không có nước nào giống Tây Ban Nha cả. – Robert Jordan trả lời một cách lịch sự.

– Đồng chí có lý. – Fernando nói – Không có nước nào trên thế giới giống nước Tây Ban Nha cả.

– Đồng chí có trông thấy những nước khác bao giờ chưa à?

– Không – Fernando nói – Và tôi cũng không muốn trông thấy làm gì.

– Đồng chí thấy không? – Vợ Pablo nói với Robert Jordan.

– Fernando – Maria nói – Hãy kể lại cho chúng tôi nghe cái lần đồng chí đi Valence đi.

– Tôi không thích Valence.

– Sao vậy? – Maria hỏi, đồng thời lại siết mạnh cánh tay Robert Jordan.

– Dân ở đó kỳ cục và tôi không hiểu nổi họ. Họ chỉ biết kêu che [6] với nhau.

– Còn họ, họ có hiểu đồng chí không? – Maria hỏi.

– Họ ra tuồng không hiểu. – Fernando nói.

– Và đồng chí đã làm gì ở đó?

– Tôi đã phải đi ngay, không kịp xem biển nữa – Fernando nói – Tôi không thích những người đó.

– Ối! Ra khỏi đây ngay, đồ gái già – Vợ Pablo nói – Ra khỏi đây ngay, đồng chí làm tôi phát bịnh. Ở Valence, tôi đã sống qua đoạn đời đẹp nhất của tôi. Vamos [7]. Valence! Đừng nói tới Valence nữa.

– Chị làm gì ở đó vậy? – Maria hỏi. Vợ Pablo ngồi nơi bàn với một chén cà phê, một mẩu bánh mì và một chút ra gu.

Qué va [8]. Bọn tôi làm gì ở đó hả? Tôi đã có mặt ở đó trong thời gian Finito ký hợp đồng cho ba cuộc đua ở kỳ hội chợ. Tôi chưa bao giờ trông thấy người ta đông đảo như thế. Tôi chưa bao giờ thấy những quán cà phê đông người như thế. Phải đợi hằng nhiều giờ mới có chỗ ngồi và người ta không thể nào bước lên xe điện được. Ở Valence có nhiều cảnh náo động xảy ra suốt ngày đêm.

– Nhưng mà chị làm gì ở đó? – Maria hỏi.

– Đủ mọi trò – Người đàn bà nói – Chúng tôi ra bãi và chúng tôi tắm, có nhiều thuyền buồm mà người ta dùng bò để kéo ra khỏi mặt nước. Người ta dẫn bò xuống nước cho tới khi chúng nó buộc phải lội, sau đó người ta buộc những chiếc thuyền vào chúng, và khi chân chúng chấm đất, chúng kéo thuyền lên bờ cát. Buổi sáng mười đôi bò kéo một chiếc thuyền buồm từ biển vào, với làn sóng nhỏ vỗ vào bờ. Đó chính là Valence.

– Nhưng mà chị có làm gì khác hơn là nhìn những con bò không?

– Chúng tôi ăn uống trong những ngôi lều dựng trên cát. Những miếng bánh làm bằng cá thái nhỏ với bằng những hạt tiêu đỏ và xanh, những trái hạnh đào to bằng hạt thóc. Bột bánh mềm dịu và với rất nhiều cá không tưởng tượng được. Những con tôm tươi rói chưa ráo nước biển, được nặn chanh vào. Chúng có màu hương và bóng lưỡng, mỗi con ăn trong bốn miếng. Món này, chúng tôi ăn rất nhiều. Sau đó, người ta ăn tới món paella [9], với hến tươi, trai, tôm, chạch nhỏ. Và sau đó người ta ăn những con chạch con nhỏ hơn nữa, riêng món này thôi, rán với dầu, chúng như những hạt đậu cô ve cuốn xoắn, chúng mềm tới độ tan ngay trong miệng khỏi phải nhai nữa. Và luôn luôn, người ta uống thứ rượu trắng để lạnh, nhẹ và ngon, giá bán ba chục céntimos một chai. Và sau hết là dưa gang. Đó là xứ dưa gang mà.

– Dưa gang ở Castille ngon nhất. – Fernando nói.

Qué va – Vợ Pablo nói – Dưa gang castille là để triển lãm. Còn dưa gang Valence là để ăn. Khi tôi nghĩ tới những trái dưa gang đó, dài bằng cánh tay, xanh lơ như biển, cắt ra trông dồn dã và ứa đầy nước. A! Khi tôi nghĩ tới tất cả những con chạch bé bỏng, nhỏ nhắn, thơm ngon, chất thành núi trên dĩa! Người ta còn uống bia trong cốc suốt buổi xế chiều, thứ bia lạnh đến toát ra hơi nước trên những cái cốc to bằng những cái vại đựng nước.

– Và chị đã làm gì khi chị không phải ăn uống?

– Chúng tôi làm tình trong phòng, với những bức mành mành rũ xuống bao lơn và với một làn gió nhẹ thổi qua cửa sổ mà người ta có thể mở toang. Chúng tôi làm tình ở đó, trong gian phòng tối tăm, ngay vào lúc ban ngay nhờ những tấm mành mành, và từ ngoài đường vọng tới mùi thơm của chợ hoa và mùi thuốc pháo đốt vang trên khắp các ngã đường vào mỗi buổi trưa trong suốt kỳ Hội Chợ. Người ta đốt pháo bông trong khắp thành phố và những tiếng nổ chuyền đi trên những cây cột và những dây xe điện, và nó nổ từ cây cột này sang cây cột khác với những ánh chớp và những tiếng động vang dậy mà người ta không thể nào ngờ được.

Chúng tôi làm tình, và sau đó chúng tôi gọi một cốc bia đóng hơi lạnh trên lớp thủy tinh và khi cô gái mang bia tới, tôi đón lấy tại cửa và đặt cái cốc lạnh vào lưng Finito lúc bấy giờ đang ngủ, không chịu thức dậy khi người ta mang bia tới, và hắn nói: “Không, Pilar ạ. Không, mụ ạ. Để anh ngủ”. Và tôi nói: “Không, hãy thức dậy và uống cái này xem nó lạnh ngần nào”, và hắn uống, không mở cả mắt, và hắn ngủ trở lại, còn tôi, tôi nằm dài trên một chiếc gối, dưới chân giường, tôi nhìn hắn ngủ, người hắn xạm nâu, tóc hắn đen, trông hắn trẻ trung và bình yên trong giấc ngủ của hắn, và tôi uống hết cốc bia, vừa lắng nghe điệu nhạc của một hội ca cầm đang đi qua. Ông đã biết những điều đó chưá? – Bà hỏi Pablo.

– Chúng, ta đã làm nhiều trò ra gì với nhau!

– Ừ – Người đàn bà nói – Và ông có vẻ đàn ông hơn là Finito ở vào thời của ông. Nhưng mà mình chưa bao giờ tới Valence. Mình chưa hề ngủ với nhau chung giường, vừa nghe một hội ca cầm đi qua trong thành phố Valence.

– Không thể được – Pablo nói với bà ta – Mình không có dịp đi Valence. Bà thừa biết điều đó, nếu bà hiểu biết một chút. Nhưng mà với Finito, bà chưa hề làm nổ tung xe lửa bao giờ cả.

– Không – Người đàn bà nói – Đó là cái gì còn lại của tụi mình. Xe lửa. Ừ. Lúc nào cũng xe lửa. Không ai có thể nói ngược lại cả. Đó là cái còn lại từ những biếng lười, những xì hơi, những tịt ngòi. Đó là cái còn lại từ nỗi sợ hãi, nhát gan của lúc này. Còn nhiều điều trước đó nữa chớ. Tôi không muốn mình bất công. Nhưng mà cũng không nên nói điều gì chống lại thành phố Valence, ông nghe tôi chớ?

– Tôi không thích nó – Fernando lặng lẽ nói – Tôi không thích thành phố Valence.

– Và người ta nói rằng con lừa thì cứng đầu – Người đàn bà nói – Dọn dẹp đi Maria, để người ta con lên đường nữa chớ.

Khi bà ta nói câu đó, mọi người nghe những âm thanh đầu tiên báo hiệu những chiếc máy bay trở lại.

————————————–

[1] Thế nào.

[2] Không có gì.

[3] Người đàn ông.

[4] Đồ ngu.

[5] Như thường lệ.

[6] Này.

[7] Ôi! Ồ!

[8] Cái gì?

[9] Một món cơm đặc biệt.


Tìm Kiếm