ĐẠI-TUỚNG DƯƠNG VĂN MINH
Đại-Tướng Dương Văn Minh là Chủ-Tịch Hội-Đồng Quân-Nhân Cách-Mạng, đứng đầu các tướng làm cuộc Cách Mạng 1/11/1963 lật đổ chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hoà, đưa đến cái chết của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và bào-đệ cũng là Cố-Vấn Ngô Đình Nhu vào ngày hôm sau, rồi của bào-đệ cũng là Cố-Vấn Ngô Đình Cẩnvào tháng 5 năm sau.
Cuộc cách-mạng ấy cũng đồng-thời loại bỏ phu-nhân của ông Cố-Vấn Ngô Đình Nhu là bà Trần Thị Lệ-Xuân, người đã tự-xưng và được tôn-xưng là Đệ-Nhất Phu-Nhân của Việt-Nam Cộng-Hoà, và bào-đệ cũng là đại-diện tại Anh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm là Đại-Sứ Ngô Đình Luyện, ra khỏi chính-trường và đất nước Việt-Nam. Hơn nữa, bào-huynh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm là Tổng-Giám-Mục Ngô Đình Thục cũng vì cuộc cách-mạng ấy mà bị dập tắt hy-vọng leo lên Hồng Y mà còn tước mất giáo-phẩm và phải vĩnh-viễn xa lìa đồng-đạo cùng quê-hương.
Cho nên các vị hoài-Ngô oán-hận tất cả những ai liên-can đến, và thù-ghét bất cứ người nào dù không dính-líu đến nhưng lại đồng-thuận với, cuộc Cách-Mạng 1/11/1963.
Họ quyết “trả thù” cho cố tổng-thống và dòng họ Ngô Đình, theo như ý-nguyện, di-ngôn, và cũng là lời “thần khẩu” (buộc xác phàm) lúc sinh-thời của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm:
“Tôi chết, hãy trả thù cho tôi!”
Đại-Tướng Dương Văn Minh cầm đầu cuộc cách-mạng ấy, bị xem là thủ-phạm số 1, là điều hiển-nhiên và tất-nhiên.
Chiến-dịch bôi nhọ cố Đại-Tướng Dương Văn Minh được thể-hiện qua nhiều phương-thức, mà một trong đó là vụ ngụy-tạo cái-gọi-là cuốn hồi-ký mang tên“Saigon et Moi” của cựu Đại-Sứ Pháp tại Việt-Nam, ông Jean-Marie Mérillon.
SAIGON ET MOI
Tóm-tắt vụ này như sau:
Tháng 4 năm 1991, có một tờ báo ở Đức đã đăng một bài nhan đề “Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hoà” với lời nói đầu như sau:
“Bài này chỉ là một đoạn ngắn trích từ bản dịch tóm lược của quyển “Sài Gòn et moi”, mà tác giả là ông Jean Marie Mérillon, cựu đại sứ Pháp tại Sài Gòn năm 1975.
“Quyển “Saigon Et Moi” được giới thiệu ngày 23/3/1985 tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris. Trong hàng cử tọa ngày hôm đó có một số nhân vật quan trọng lúc bấy giờ như cựu Tổng Thống Giscard d’ Estaing, thị trưởng Jacques Chirac, Ông Pierre Mesmer v.v… nhưng sau đó hình như tác giả không được phép của Bộ Ngoại Giao (hay của chánh phủ Pháp) nên không có thể phổ biến quyển sách này ra thị trường. Và cho đến giờ này không còn ai tìm thấy tung tích quyển sách này nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cũng như sau này chính Ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển“Saigon Et Moi” hay bất cứ quyển nào khác viết về Việt Nam.
“Các báo Việt Nam tại Pháp có đăng bản tóm lược của quyển sách này, mà bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ là một.”
Đại-ý nội-dung bài viết cho là bản dịch của cuốn “Saigon et Moi” kể chuyện Đại-Sứ Mérillon của Pháp, vào những ngày cuối cùng của Việt-Nam Cộng-Hoà, đã ráo-riết vận-động để làm trung-gian tìm một giải-pháp trung-lập cho Miền Nam Việt-Nam, nhưng vì Đại-Tướng Dương Văn Minh không chịu nghe theo cho nên Việt-Nam Cộng-Hoà sụp đổ.
Câu nói then-chốt cho là của Đại-Sứ Mérillon, là chê Đại-Tướng Dương Văn Minh “không bằng một đứa trẻ con 8 tuổi”. Đó là kết-luận mà phe hoài-Ngô đắc-ý nhắc đi nhắc lại, cho đến một ngày…
Ông Trịnh Bá Lộc, nguyên là Sĩ-Quan Tuỳ-Viên lâu dài (1958-64 và 1968-75) của nhân-vật Dương Văn Minh, lên tiếng phản-bác cái-gọi-là hồi-ký Mérillon nói trên.
*
Trước tiên, có nhiều nhà văn, nhà báo đã đặt vấn-đề hư/thực về cái cuốn sách “Saigon et Moi”, trong đó có ông Nguyễn Trần Việt. Ông Việt, sau khi nêu lên một số sai lầm về tính-danh và chức-vụ của các chính-khách Pháp bị liệt-kê trong danh-sách quan-khách tham-dự buổi trình-mại “cuốn sách” ấy, đã viết:
<<Để chứng minh quyển “Saigon et Moi” là không có thật, xin quý độc giả tìm đọc tác phẩm “Những Ngày Cuối Cùng Của Ngô Đình Diệm”, tác giả là Giáo Sư sử học Hoàng Ngọc Thành và Bà Thân Thị Nhân Đức, trang 622 vả 623, phần Phụ Lục có bản phóng ảnh thư và chữ ký của ông Mérillon, đề ngày 12-11-1990, đại sứPháp tại Nga, phủ nhận quyển sách nói trên.
Xin trích dẫn nguyên văn trang 622 như sau :
“Nguyên nhân là chúng tôi đã không tìm mua được sách Saigon et Moi, khi qua Ba Lê năm 1989, nên liên lạc với ông Jean Marie Mérillon khi ấy làm đại sứ Pháp tại Mạc Tư Khoa (Nga)”>>
Nguyên văn bức thư (chữ Pháp) của cựu Đại-Sứ Jean Marie Mérillon tại Saigon năm 1975, gởi Giáo Sư tiến sĩ Hoàng Ngọc Thành, phủ nhận ông là tác giả quyểnSaigon et Moi hay bất cứ sách nào khác về Việt Nam:
1. In ở trang 623 trong sách “Những Ngày Cuối Cùng…” nói trên;
2. Đăng tại trang 85, do ông Lê Xuân Nhuận viết, trên báo Văn Nghệ Tiền Phong số 464, phát hành năm 1995;
3. Và đăng lại nơi trang 237 của sách “Ki tô giáo: Từ thực chất đến huyền thoại” do Nguyễn Hồng Ngọc viết, do Văn Hóa xuất bản, văn nghệ phát hành năm 1996 tại Hoa Kỳ.
Bức thơ này, đã được báo Phụ Nữ Diễn Đàn số 140, trang 71 phát hành năm 1995 tại Hoa Kỳ do ông Đặng Văn Nhâm viết, đã chuyển dịch sang Việt Ngữ xin trích dẫn như sau:
Cộng Hòa Pháp Quốc, Mát Cơ Va, ngày 12 tháng 11 năm 1990.
Đại Sứ Quán Pháp tại Nga Xô
***
Tiến sĩ Thành thân mến,
Tôi vừa nhận được thơ ông đề ngày 22-10. Tôi xúc động nhiều và rất vui mừng nhận được tin ông. Hiện nay, liên quan đến quyển sách Saigon et Moi, tôi cần phải đặc biệt xác định rõ vấn đề là tôi đã không viết quyển ấy và cũng không viết bất cứ điều gì khác về Việt Nam. Do đó, điều ông nói ấy không phải chuyện của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng tò mò về chuyện xuất bản sách này và cảm thấy thú vị được biết tin tức liên quan đến chuyện ấy. Nếu tôi đến thăm California, tôi sẽ không quên lời mời thân ái đến dùng bữa cơm Việt Nam của ông. Mong ước quyển sách mới của ông thành công mọi mặt. Tôi vẫn luôn là người bạn chân thành của ông.
Jean Marie Merillon
(ký tên)
I
BỐI-CẢNH LỊCH-SỬ
Theo Ông PHẠM BÁ HOA
(Cựu đại-tá, Chánh Văn Phòng của Thiếu Tướng TMT Liên Quân Trần Thiện Khiêm,
nhân-chứng trung-thực tại trung-tâm điều-hành cuộc Cách Mạng 1-11-1963,
tác-giả cuốn sách “Đôi Dòng Ghi Nhớ”):
<<… Những cuộc tháo chạy hỗn loạn của Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, và phần lớn Quân đoàn 3… (trang 9-266)
Trong tuần lễ cuối cùng của tháng 4-1975… đường phố thủ đô… Tiếng động cơ và tiếng còi inh ỏi của các loại xe, chen lẫn trong âm thanh của những đoàn người ngược xuôi giữa khói mù thải ra từ các xe lớn nhỏ, hoà vào bụi bặm phố phường, đã tạo nên một hình ảnh bi thảm của chiến tranh. Trong những đoàn người từ các tỉnh chạy về đây, người thì tìm nơi cư trú, kẻ thì tìm phương tiện chạy xa thêm nữa. Các đơn vị quân đội cũng tán loạn, dân không hẳn là dân mà lính cũng không còn hoàn toàn là lính nữa, quân phục không nghiêm chỉnh, súng đạn thì kẻ còn người mất, không biết cấp chỉ huy ở đâu mà tìm. Mặt khác, còn phải tìm thân nhân thất lạc sau cuộc di tản đầy hiểm nguy gian khổ. Trông nét thảm thương của các đồng đội tôi… (trang 9-279)
Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng một quân đội hơn 1.000.000 người, một quân đội đứng hàng thứ tư trên thế giới về số lượng sau quân lực Trung Hoa cộng sản, Nga sô, và Hoa Kỳ, đã lên phi cơ bỏ chạy ra nước ngoài từ ngày 27.04.1975… tôi tưởng như mình đang trơ trọi giữa khoảng trống mênh mông của một nghĩa trang chiến tranh nào đó, vì rằng những tướng lãnh cùng nhiều sĩ quan cao cấp của cơ quan đầu não này, đều nói chuyện ra đi mà chẳng mấy ai còn nghĩ đến chuyện chiến đấu nữa. Và đến lúc này thì hầu hết những vị tướng quyền uy của chúng tôi, đã cao bay (trực thăng) xa chạy (ra hạm đội 7 Hoa kỳ) hết rồi. Ôi, Bộ Tổng tham mưu của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, một quân đội vừa dũng cảm với lý tưởng dân chủ tự do mà chiến đấu, lại vừa bất hạnh bởi những vị lãnh đạo vô trách nhiệm khi Tổ Quốc thật sự lâm nguy, đang trong giờ hấp hối đây chăng? (trang 9-282)
Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu… bỏ chạy. Đại-Tướng Trần Thiện Khiêm, Thủ-Tướng kiêm Tồng-Trưởng Quốc-Phòng, bỏ chạy. Sau Đại-Tướng Cao Văn Viên,Trung-Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham-Mưu-Trưởng Tồng-Tham- Mưu kiêm Tổng-Cục-Trường Tổng-Cục Tiếp-Vận, bỏ chạy. Và khi Tham Mưu Trưởng đã bỏ chạy thì các vị Tướng và đa số các Đại-Tá Trưởng Phòng của Tổng Tham Mưu cũng bỏ chạy. Bộ Tổng-Tham-Mưu, lúc 12 giờ trưa ngày 29.04.1975, không còn một vị nào có thẩm quyền quyết định bất cứ một mệnh-lệnh gì hết, ngay cả đến công tác phòng thủ doanh trại này cũng không ai trách nhiệm nữa. Quân nhân và công chức quốc phòng của Tổng tham mưu gần 2.000 người, không còn cấp chỉ huy, nên họ tự quyết định bản thân họ!
Tôi điện thoại cho Đại tá Nguyễn Hồng Đài, con rể của Tổng Thống Dương Văn Minh:
“Anh Đài, anh trình với Tổng Thống là cho đến lúc này, trong Bộ Tổng Tham Mưu không còn một tướng lãnh nào hết, cũng không ai trách nhiệm bảo vệ doanh trại này nữa…” (trang 9-288-89)
Hiện nay, theo Phòng Nhì Tổng-Tham-Mưu thì có khoảng 10 sư đoàn cộng sản bao quanh Sàigòn và chúng đang áp sát vào ven ngoại ô, điều dó cho phép dự đoán là chúng có thể tấn công chúng ta bất cứ lúc nào… (trang 9-291)
(Tối 29.04.1975) Không chỉ đường phố đông nghẹt người mà là hỗn loạn chưa từng thấy!… đạn phòng không của cộng sản tua tủa vọt lên khoảng không gian nhỏ bé vừa tối lại vừa sáng (trang 9-295)
Tôi xuống xe và chen nhau từng bước với khối đông đặc người là người mới vào được trong cư xá… ngay ngoài cổng trước của cư xá đã có nhiều nhà bị cướp giật rồi… Vài trái đạn đại bác của quân cộng sản đã nổ bên ngoài khuôn viên cư xá… Phi trường Tân Sơn Nhất chắc là bị pháo kích nhiều, vì tôi nghe tiếng đại bác nổ liên hồi ở hướng đó.
Một lúc sau (2 giờ 30 sáng 30.04.1975) Thiếu tá Ông Kim Miêng, chánh văn phòng của Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, tân Tổng Cục Trưởng Tổng-Cục Tiếp Vận, từ văn phòng Tổng Cục điện thoại tôi. “Chuẩn tướng Chức đã lên xe đi rồi” tức bỏ chạy rồi (trang 9-296-98)
(Mờ sáng 30.04.1975) Hướng ngã tư Bảy Hiền có nhiều tiếng súng trường và tiểu liên… Đạn đại bác nổ nhiều ở Tân Sơn Nhất và bắt đầu nổ trong khuôn viên Tổng tham mưu… (trang 9-298-99)
Trung tướng Vĩnh Lộc (tân Tổng Tham Mưu Trưởng, của chính phủ Dương Văn Minh)… cho biết là ông phải xuống Dinh Độc Lập để dự lễ ra mắt chính phủ vào lúc 9 giờ sáng. Nhưng thật ra là Trung Tướng Vĩnh Lộc cũng bỏ chạy như những vị tướng đã bỏ chạy…
Tại bộ tư lệnh Biệt khu Thủ đô, Trung tướng Nguyễn Văn Minh (Minh Đờn), Tư Lệnh, đã bỏ chạy rồi… Trung tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Không quân đã xa chạy cao bay. Và Bộ tư lệnh Không quân cùng các phi đoàn còn lại, từ căn cứ Sư đoàn 5 Không quân Tân Sơn Nhất và căn cứ Sư đoàn 3 Không quân Biên Hoà, rút xuống căn cứ Sư đoàn 4 Không quân tại Trà Nóc, cách Cần Thơ khoảng 7 cây số (thuộc Quân Khu IV)…
Chuẩn tướng (Lê Văn) Thân (Tư Lệnh Phó Biệt Khu Thủ Đô) bảo (là) bay (trực thăng) quan sát và hướng dẫn các phi tuần khu trục tấn công các đơn vị địch nhưng đáp xuống Cần Giờ, xuống đó… (và) ông ấy bỏ chay rồi (trang 0-300-01)
(Trích từ cuốn sách hồi ký “Những Dòng Ghi Nhớ” của Phạm Bá Hoa – Houston, Texas: Ngày Nay, 1994)
Đó là tình-hình tại thủ-đô, sau khi đã mất Quân Khu I, Quân Khu II và hầu hết Quân Khu III, cho đến sáng sớm 30-4-1975. Chỉ còn Quân Khu IV là hy-vọng cuối cùng (đọc tiếp dưới đây).
Theo nhà văn NHẬT THỊNH:
“Đại-Sứ Graham Martin (Hoa-Kỳ) điện-thoại báo cho Thủ-Tướng (Nguyễn Bá Cẩn) hay đêm 26.5.1975 cộng-sản Bắc-Việt đã cảnh-cáo bằng cách cho bắn hoả-tiễn vào khu trung-tâm Sài-Gòn và dàn sẵn 20 sư-đoàn chính-quy quanh thành-phố yêu-sách bàn-giao chức-vụ Tổng-Thống cho Dương Văn Minh trước 12 giờ trưa ngày 27.5.1975, nếu không thành-phố sẽ bị pháo-kích cho tan nát…”
(Trích từ bài viết “Người của Thời Cuộc” của Nhật Thịnh, trong Đất Đứng số 355, Sacramento, CA., 2009, trg. 10)
Theo Giáo-Sư HÀ MAI VIỆT
From: hatien
Sent: Monday, April 28, 2008 5:23 AM
Ha Mai Viet: 10 Ngày Cuối Cùng Của VNCH:
“… Sau khi nhận lệnh và phân chia nhiệm-vụ cho đơn-vị, tướng Trường (chuẩn-tướng Mạch-Văn-Trường, Tư-lệnh sư-đoàn 21 BB) lấy xe jeep đi trước. Trên đường vào thị-xã, ông quan-sát phố-phường và ghi nhận như sau:
Trên đường đi tôi thấy một cảnh hỗn-loạn chưa từng thấy trong đời. Trên trời thì Không-quân cất cánh như ong vỡ tổ. Dưới sông thì từng đoàn Hải-quân vội-vàng lìa bến. Trên đường thì tấp-nập xe-cộ đủ loại chạy ngược, xuôi, ngang, dọc. Người ta hốt-hoảng chạy đi tìm nhau. Xe hơi, xe đạp, xe gắn máy tranh nhau giành đường mà chạy, không còn trật-tự lưu-thông nữa. Trong thành phố thì những phần-tử xấu lợi-dụng thời-cơ cướp giật, hôi của tại các cơ-sở Mỹ và tư-gia những gia-đình đã di-tản. Đoàn quân-xa của Bộ Tư-lệnh hành-quân Sư-đoàn 21 rất khó-khăn và mất nhiều thời-gian mới vào tới bộ tư-lệnh
Quân-đoàn IV lúc xế chiều.
Vùng 4 CT còn có các giải-pháp khác như rước Chính-phủ và bộ Tổng-tham-mưu về Tây-Đô, giữ an-ninh QL4 cho binh-đoàn và đồng-bào tản-cư về miền Tây và tái tổ-chức tử-thủ. Nhưng tình-hình đột-biến quá nhanh, các tướng-lãnh then-chốt tại Bộ Tổng tham-mưu đã bỏ đi gần hết. Tổng-thống Dương-Văn-Minhtuyên-bố đầu-hàng vô điều-kiện. Hải-quân và Không-quân tự-động di-tản hết rồi. Dân chúng bấn-loạn. Đường-xá kẹt cứng khắp mọi nơi. Các đơn-vị tác-chiến không thể điều-động dễ-dàng được. Vấn đề tản thương và tiếp-vận cũng gặp nhiều khó-khăn.
Ngoài ra tướng Hưng còn cho biết, vào lúc 4 giờ chiều, phái-đoàn Hội-đồng-tỉnh Phong-Dinh cũng đến van xin ông đừng chống-trả, nếu kháng-cự VC sẽ pháo-kích bình-địa thị-xã Cần-Thơ như An-Lộc, gây chết-chóc đau-khổ cho đồng-bào vô-tội…”
(Bài của HÀ MAI VIỆT – Trích từ sách “Thép và Máu”)
Theo Ông NAM NGUYÊN
Phóng viên Đài RFA 2008-04-30:
… “Khi nhà giáo Trần Văn Hương lên nắm giềng mối quốc gia, thì lúc đó 6 sư đoàn quân cộng sản Bắc Việt đang khép chặt vòng vây thủ đô Saigon, nơi có 3 triệu người sinh sống….
… lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu đại tướng Dương Văn Minh… với lời của Tổng Thống Trần Văn Hương… “Làm thế nào cho dân được sống yên… làm thế nào cho máu đừng đổ, thịt đừng rơi, thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng….”
… cho đến 30 năm sau, vẫn chưa có lời giải đáp là tại sao Nam Việt Nam lại tan rã nhanh chóng như vậy. Tuy nhiên, theo nhiều nhà phân tích thời cuộc, thì kể từ lúc tổng thống Thiệu từ chức ngày 21/4 và vội vã ra đi 2 ngày sau đó, sự kiện chế độ VNCH cáo chung chỉ còn là vấn đề thủ tục….
… tuyên bố của tổng thống Dương Văn Minh được phát đi trên Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia vào lúc 10 giờ sáng ngày 30/4/1975: “Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa hợp giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…. tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào…. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam….”
… Chúng tôi xin trích dẫn báo Quốc Tế, ông Võ Văn Kiệt cho rằng đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ôngMinh có thể đoán được sự thất thủ của Saigon. Theo ông Võ Văn Kiệt, giả dụ ông Minh để cho các tướng lãnh dưới quyền tử thủ thì quân Bắc Việt sẽ vẫn chiến thắng, nhưng Saigon khó mà nguyên vẹn, chưa kể biết bao sinh mạng và tài sản của người dân nữa…. không thể quên vai trò của đại tường Dương Văn Minh trong việc giữ cho Saigon được nguyên vẹn….”
©2005 Radio Free Asia
(“Góp Gió” số 203 – June 2010, Tháng Ba 2010)
Đó là tình-hình chung toàn-quốc Việt-Nam Cộng-Hoà.
II
HỆ QUẢ
*
Theo ông TÔN THẤT THIỆN
(Cựu Bộ Trưởng dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà):
“Ông (Dương Văn) Minh bị hất xuống, khi ông ta không đồng ý về việc dội bom Bắc Việt”
(Trích từ bài viết “Một quan điểm mới về vụ đảo chánh tháng 11, 1963” Ottawa, tháng 9, 1999 – Tôn Thất Thiện chuyển ngữ tác phẩm “Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad” cuả bà Anne Blair)
(Xem thêm các Chương: Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Cần…)