…..
MINH TRIẾT VIỆT
Xin Trân Trọng Bảo Lưu
ĐẠI THI PHẨM CÁCH MẠNG VIỆT
Đạo Trường Ngâm
X.Y.Thái Dịch Lý Đông A
…..
…..
Sơ Lược Tiểu Sử X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A
…..
X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A tên thật là Nguyễn Hữu Thanh, sinh năm 1920, tuổi Canh Thân, mệnh Mộc, tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ông thông hiểu về Dịch Lý, Phật Học, và Lịch Sử, v.v… khi mới 16 tuổi. Theo lời kể, ông được linh quang thần nhập thể vào lúc 16 tuổi, nên được khai mở trí tuệ: đọc rất mau, thâu tóm tư tưởng rất lẹ.
Năm 1942, Ông đến thư viện Liễu Châu (Trung Hoa) để kiểm lại các sách viết về triết học, lịch sử, xã hội, khoa học Tây Phương và Ðông Phương, nghiên cứu địa lý Trung Hoa, đồng thời khảo sát thêm về lịch sử và văn minh Việt. Tại đây, Ông bắt đầu viết các sách thuộc bộ “Ðại Việt Duy Dân Ðại Cương Thảo Án Quốc Sách Toàn Pho”, tức là các sách thuộc chủ thuyết Duy Dân Nhân Chủ. Sách Ông viết rất nhiều (khoảng 30 bộ) nhưng phần lớn không được phổ biến vì nhiều lý do, và một số bị thất lạc. Sách của Ông dùng nhiều từ ngữ Hán Việt, ý tưởng rất xúc tích, cách trình bày với dạng thức đặc biệt.
Lý Ðông A khai triển văn hóa và truyền thống dân tộc kết hợp với các suy tư về sự kết cấu xã hội nhân loại và xã hội tự tính để lập thuyết. Một cách giản lược, lấy người làm trục, căn bản triết lý của chủ nghĩa Duy Dân có ba bình diện là ba thành phần biện chứng đưa đến một quan điểm thống nhất, đại đồng, chân xác về người:
– Vũ trụ: duy nhiên, vô nguyên.
– Nhân loại: duy nhân, nhất nguyên.
– Dân tộc: duy dân, đa nguyên tương đối.
Vũ trụ là một lãnh vực thuần túy khách quan…trong đó con người là sinh vật đặc thù luôn luôn có nỗ lực vượt trên vận động tự nhiên để thành lập xã hội nguyên thủy là xã hội tự tính, từ đó con người mới xứng danh là người. Ý niệm xã hội là ý niệm căn bản của mọi quan điểm về người.
Ngày 1 tháng 1 năm 1943, X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A sáng lập và là Thư Ký Trưởng Việt Duy Dân Ðảng để đấu tranh chống Pháp và chống Cộng. Vì thời cơ chưa đến với người Quốc Gia chân chính, nên sau trận Nga My (1945) và Hòa Bình (1946) đấu kháng với Cộng Sản, Ông tuyên bố giải tán Ðảng và biệt tích, lúc ấy Ông 26 tuổi.
Nhà cách mạng Lý Ðông A đã quyết tâm đi làm cách mạng cứu nước giữ nòi bằng cả trái tim đầy máu nóng, một lòng yêu nước thương nòi nồng nàn. Các tác phẩm của Ông ngoài phần văn chương trác tuyệt và tâm huyết ngút trời đối với Quốc Gia Dân Tộc, còn là một hệ tư tưởng tuyệt vời cao sâu, thực tiễn, nhân ái, viễn kiến chính trị suốt dọc, làm nền tảng cho cuộc cách mạng phục hoạt sắp tới cho dân tộc Việt và là một cuộc cách mạng khuôn mẫu cho nhân loại sau này. Các tác phẩm của Ông đã được xuất bản : Ðạo Trường Ngâm, Huyết Hoa, Chu Tri Lục, Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo, Việt Sử Thông Luận, và một số tài liệu.
Tóm lại, lãnh tụ X.Y. Thái Dịch Lý Ðông A được kể là một trong số ít triết gia Việt Nam, một nhà cách mạng nhân bản xã hội, một nhà chính trị đạo đức, một nhà đại thi hào của dân tộc.
Gió Đáy thuộc Duy Dân Học Xã, xuất bản thứ nhất tại Sài Gòn, Việt Nam tháng 9 năm 1969 (Kỷ Dậu 4848 tuổi Việt)
..
Mục Lục
1- Đạo Trường Ngâm
2- Huyết Hoa
3- Thiên Tài Hoa
4- Bạch Vân Điếu
5- Vạn Niên Thư
6- Bạch Vân Đàn Hoạ
7- Hồn Cố Quốc
8- Mam Thi Tháo
9- Nhàn Ngâm
10- Thiên Cổ Thông
11- Tự Hào
12- Thánh Đồng Ngâm
13- Xuân Thu Ngữ
14- Tơ Đồng
15- Ruộng Và Nương
16- Dương Tử Giang Âm
17- Chính Khí Việt
18- Xuân Tráng Sĩ
19- Lưỡi Gươm Việt
20- Hứng Ngâm
21- Xuân Thu Ngâm
22- Hoài Cảm
23- Quốc Sỉ
24- Vong Quốc Nô
25- Chim Mồi
26- Hươu Ngựa
27- Thi Hồn
28- Thi Nhiệt
29- Chiến Sĩ Tư
30- Lục Niên Thành
31- Thăng Long Điếu
32- Xuân Cảm
33- Hận Mế Châu
34- Hận Mế Hê
35- Đường Vua Đinh
36- Vết Bô Cô
37- Địch Lộng Dư Âm
38- Tuý TRưởng
39- Xuân Thu Hoa
40- Đại Việt Âm
41- Kinh Đô Hành
42- Tiên Long Châu Hành
43- Bạch Sơn Hành
44- Nga My Hành
45- Nga My Nguyệt
46- Nguyên Tử Đạn
47- Đồi Nga My
48- Khai Bút
49- Đà Giang
.
THAY LỜI TỰA
MUSES
Nhà văn nghệ phải phát thệ cái yêu thương; yêu thương là huyết tính của loài người. Nhà văn nghệ phải thể nghiệm được yêu thương trong sinh mệnh lịch sử, hiện tại và tương lai trong loài người, trong sống thật, sống máu và sống đấu tranh của loài người. Nhà văn nghệ phải ca tụng những cuộc đắc thắng vô ngã.
Thế cho nên nhà văn nghệ phải là của dân chúng, phải trở về bình dân, phải là phần tử bình dân, còn phải là người tin thờ bình dân, đấy là toàn thể cái hiện thân của yêu thương, hy vọng, tin thờ lý tưởng đang tranh đấu phải “mắt mù”, “mặt cúi”. Nhà văn nghệ không làm “mõ chợ” được, văn nghệ không thể làm tiếng “chó sủa” được (Shelley), đồng thời không thể làm đồ đùa cho giai cấp độc quyền (Tolstoi), cũng không thể làm “đồ chơi của bọn tục”. “Nó là tiếng đau khổ thực ảm đạm và nghiêm nghị” (Chu Xuyên Bạch Thôn). Bỏ loài người ra, văn nghệ không có giá trị gì hết, nhưng bỏ đa số loài người ra với bỏ lòng yêu thương vô ngã ra, văn nghệ không thể có một giá trị thích đáng. Nhà văn học phải là một “giáo sĩ tiên tri và dùi mài” (Fichte). “Phải thổi tiếng kèn đánh thức lên” (Shelley). “Phải làm sao cho loài người tự hiểu mình, tự tin mình và càng khát mơ chân lý” (Gorky). Thế cho nên “văn nghệ là lương tâm của loài người” (Herbert).
Cái lương tâm và việc đánh thức chỉ có thể bằng yêu thương đang đau khổ trong vật lộn. Muốn được thế, văn nghệ phải vô ngã mà không còn chấp trước nữa. Văn nghệ còn là hình thể của lý tưởng, cho nên văn nghệ tự thân cũng phải lành, đẹp và thực. Lành và thực không hỗ giải được cho có một tiêu chuẩn đúng đắn, chỉ có đẹp biểu hiện được rõ ràng giá trị nhất.
Cho nên văn nghệ là hình tượng, cảm tưởng và tượng trưng. Đẹp phải biểu hiện độc lập và thuần túy trên hình thể và mầu sắc, đẹp phải trình bày cái độc đặc của nội dung, “chỉ có thực chất sinh ra hình thức” (G the). Văn thể phải là sự tỏ lộ của nội tâm người cầm bút (Gorky). Mỗi bức vẽ phải là một vở kịch một màn, cái diễn trình phải chú trọng trong sắc vận. Khó có thể tìm thấy trong những nhà văn hào lớn lao như Balzac, một nhà tả thực chủ nghĩa hay lãng mạn chủ nghĩa (Gorky), vì văn nghệ chỉ là sinh mệnh phô bày ra (Herbert) và loài người trong đời sống cũng như không ỷ vào lý tưởng thì không thể nở hoa được (Thạch Xuyên San Tứ Lang), đó là sứ mệnh thực hiện chủ nghĩa, đó còn là cách mạng lãng mạn chủ nghĩạ
Văn nghệ là hoa của đạo lý, huyết hoa.
Văn nghệ phải là sống.
Hãy mở cửa sổ ra cho ta hít hơi thở của không khí anh hùng (Romain Rolland). Phải phá tan màn tối ra cho ánh sáng, hơi thoảng chiếu vào phát nhiệt cho loài người khỏi tăm tối, cho hạt giống của hoa quý từ dưới thối ra, mục nát, bùn lầy, hôi tanh, đượm hơi sương mai và không khí sáng mà nở lên trái quả tươi màụ
Nếu loài người duy vật thật, tất không có văn nghệ, chỉ có khoa học của vật chất luật tắc.
Nếu loài người duy tâm thật, tất không có văn nghệ, chỉ có tông giáo qua thần thức.
Văn nghệ là chủ của thời đại mới dẫn dắt loài người bằng phương pháp ý thức của tự loài ngườị
Văn nghệ không phải là thượng tầng kiến trúc, chỉ là dưỡng sinh nền tảng của mọi người. Cho nên Lễ Nhạc chính trị là phương thức chính trị của Nho duy sinh. Lễ Nhạc phải phát xuất tự nơi dân chúng và sống thật mới được.
Lễ Nhạc (một trong văn nghệ) phải chính trị hóa, hơn nữa là giáo dục hóa. “Một văn nghệ nào, nếu không lấy đạo đức hóa lý tưởng và thực dụng làm mục tiêu chỉ là một thứ sống bất lương và bệnh thái”.
Nhưng mà văn nghệ không thể ở bọn quan liêu, chính khách và nhàn tản theo đòi được. Văn nghệ phải để cho yêu thương của lý tưởng có tranh đấu chủ trì, văn nghệ là của dân chúng mới được.
X.Y. Thái Dịch Lý Đông A
4823 tuổi Việt (1944)
(trích trong Huyết Hoa)
Đạo Trường Ngâm
Một vòng không đáy, đáy sinh người.
Ngoảnh lại trông đi mấy việt khơi
Thường vậy vô danh văng vẳng.
Mà nay hữu thực bời bời.
Tiết gin thiên cổ tình khôn dãi,
Óc tính trăm năm, gan dễ phơi.
Khép mở hồng hoang vần chuyển mãi,
Duy nhiên khoáy động ba nghìn trời.
Ba nghìn trời một khoáy thấy đâu,
Ðám bụi trần ai luống đục ngầu.
Sách Hóa trắng tinh không một chữ,
Gậy thần đốt trúc có hai đầu.
Sông Thao nước cuốn bên bồi lở,
Núi Tản mây vần, độ bể dâu.
Ðông Tây một nhẽ, xuyên kim cổ,
Vũ trụ huyền hoàng, mối Lạc Âu.
Mối Lạc Âu gỡ trải bao giờ,
Bơn cát ngàn tre gió phất phơ
Trúc lụa đã dày phen tri loạn.
Son xanh còn chiếu dạ được thua.
Cương thường chắp nối hai kiếp lại.
Văn vũ trì trương một nguyện xưa.
Hỗn độn đã nhiều công mang mớ,
Chờn thây cho mưa nắng hững hờ!
Nắng mưa tâm sự ở trên đời,
Tao hóa như không, lọ có trời!
Ðồng Trung Hoa đến mang làm cột,
Máy Pháp lan sang để chém người.
Ðạo nghĩa gớm cho quân lợm khẩu.
Nhân quyèn khiếp cả lũ xanh ngươi!
Ngẫm xem muôn vật đều dắc ý.
Rẽ rạch Hồng Bàng tính cổ thời.
Tính cổ thời ngày một đi đi,
Trách ai cắt cứ gọi Hoa Di.
Cỏ xanh kia lấy bạo thay bạo.
Gạch tía này sướng chi khổ chi?
Sự tích thôi đều hươu quạ.
Sinh linh thế ấy phân ly.
Xuân Thu ướm hỏi bởi vì vị.
Hay bởi Xuân Thu bởi vị vì.
Bởi chút vị vì tìm lẽ đời,
Ba sinh còn hồn mộng đôi nơi,
Giang sơn dựng thuở ai tác bể.
Quan lũ gây từ kẻ trụ trời,
Tác giả vô danh là gốc đạo.
Noãn bào trăm họ ấy giềng ngưòi.
Ðáy dòng nước băng băng chảy mãi.
Chớp bể mưa nguồn nào có ngơi!
Chớp bể mưa nguồn kéo khắp miền.
Xá chi tắm gội, xá truân chuyên.
Bút nghiên, đèn sách đều sai lạc,
Kim cổ, Ðông Tây cũng hão huyền.
Vì biết lửa hưong tìm chấp nối,
Là hay vàng đá dể trao truyền,
Văn minh nghĩ kỹ còn nhiều việc.
Ðem cả muôn loài lên Duy Nhiên.
4822 T.V. (1943)
Huyết Hoa
Hồn bạch trĩ bâng khuâng tìm nước cũ,
Tìm cội dài, ngậm ngắn núi Viêm Phương.
Tìm nắng mưa bầu đoàn loài một tổ,
Ðậu cành Nam đèo đẵng rũ đau thương.
Hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ,
Khúc đoạn trường nên tuyệt cổ văn chương.
Một tấm son chút trinh này gột rửa,
Chót đèo bồng tình cố quốc tha hương.
Hồn cô nghiệt ngoài khơi trong bến Ngự.
Dầu tái sinh hứ hạnh dạ còn vương.
Cán Long Tuyền mài sương hàn Ðỗ Vũ.
Tấm lòng người vong quốc chết đau thương
Mà
quốc chi sĩ
huyết chi hoa.
Trời bó mãi, đất bó mãi không tha.
Năm năm mây bạc, đầu bạc chẳng già.
Quả tim đúc lại, nhủ cho ngàn biển.
Vô tình vẫn mãi, hữu tình không tha!
Hận lòng như gió thổi, thổi đời thuở.
Sự nước non dài, dài cả một ta.
4822 T.V. (1943)
Thiên Tài Hoa
Sao Viêm Phương chọn chốn giáng tinh thần
Trong muôn hoa lấy một ở hồng trần.
Chợt bóng mát chân sim ta tìm gặp.
Ðầu dây leo bình dị đoá siêu quần.
Ðóa siêu quần ta gọi thiên tài hoa.
Nếp tinh quang in năm cánh kỷ hà.
Sắc đỏ trời Nam phun ánh lửa.
Hương không thơm vì ẩn tích Ngân Hà.
Tận Ngân Hà huyền diệu chất thiên tài.
Gió mưa hồn cố quốc tít non đoài.
Ðoá hoa huyểt người ta bừng thức giấc,
Sao Viêm Phương chói lọi mọc trên đài.
4824 T.V. (1945)
Vạn Niên Thư
Việc muôn năm trước lắm ngưòi đương,
Việc muôn năm sau nhiều kẻ nối.
Non sông không thiếu khách trì trương,
Vận mệnh phần tay ai giềng mối.
Ngày ngày tháng tháng đi dòi dõi,
Tốn ích trong cơ mối thế thường
Lao lực trần ai thương lặn lội,
Con thoi nhật nguyệt nắng đòi sương.
Bởi chút thiên sinh liệu dưỡng phương
Lòng tằm, ruột lúa nhường nông nổi.
Tự thuở tương tri những vấn vương,
Nguyện đem hương lửa ràng công tội.
Khúc hát non Côn làn suối dội.
Bài thơ mây trắng gió am trường,
Sáu năm cung kiếm tinh nửa gối,
Kẻ trước người sau đều đoạn trường.
Bởi chút tinh hồn của cố hương.
Cỏ gai mù mịt đi tìm tòi
Vạch đường tinh vệ bể Uổng Dương
Viếng núi Thu Tinh trời vòi vọi.
Con thuyền lon Lã thách chìm nổi,
Tắc kiếm thần Rùa dẹp nhiễu nhương.
Ngồi lại đem thi thánh chắp thành nối,
Ði ra lên ngựa mở hoàng vương.
Tấm lòng để chúc muôn năm trường,
Sự nghiệp làm dây các vận hội.
Năm trăm năm nữa gíó Nam Dương.
Chớ bảo ta trong hàng trăm tuổi.
4823 T.V. (1944)
Bạch Vân Đàn Họa
Mây lành hiện về cát xây ngai
Ðiền phá ai người dễ biêt ai?
Ðủng đỉnh Thái Nguyên ngay trước mắt.
Dập dìu Ba Thục chính mang tai.
Thần cơ dẫn dắt đường tam hiểm.
Y bát trao truyền vận thất khai.
Ngày đến Tiểu Văn Lang sẽ thấy.
Ngẩng nhìn sao Tất sang phai phai.
4824 T.V. (1945)
Hồn Cố Quốc
Hồn ngược sóng ba sinh.
Hồn về núi Thu Tinh.
Chợ Cao Ðang đồng vọng,
Cố quốc biết bao tình!
4823 T.V.
Nam Thi Tháo
Những nguồn thơ bất tuyệt như thiên cổ,
Bằng mồ hôi, máu lện chảy đời đòi.
Cả nòi gióng trên tiến hành lao khổ,
Vần Nam Thi lên mỗi dịp bời bời.
Cuộc chiến đấu đem hồng hoang mang mở.
Ðám trần ai hồn sáng tác chan chan.
Bằng muôn miệng, muôn lòng buông sáng nở
Vần Nam Thi lên mỗi giọng nồng nàn.
Tự giác lại sống còn đã đến độ.
Sóng đáy thàng hùng vĩ sủi ngạt ngào.
Cả nòi giống trên độ trình rầm rộ.
Vần Nam Thi lên mỗi điệu dạt dào.
Gió nồm đem nắng Viêm hòa rực rỡ,
Gậy tre lau trở lại huyền hoàng,
Sợi nâu lam mối Hồng Bàng tết gỡ,
Vần Nam Thi lên mỗi phố sang sang.
4822 T.V.
Nhàn Ngâm
Kinh luân chút nợ chửa yên tuyền.
Nên liệu ba sinh phải báo nguyền,
Thiết huyết thiên thu nhiều lao đảo.
Bạch vân tể tướng mới thần tiên.
Như không gặp gỡ ngày Ngô Thát.
Thì đã du nhàn chốn phố viên.
Một chiếc hồ lô mươi hoàng quyển.
Tiêu dao mây nội hạc chân huyền.
4822 T.V.
Thiên Cổ Thông
Khối tình yêu thiên cổ dòng kim cương.
Ngày thai sinh nhưng chọn chốn quê hương.
Hèm núi Trắng sông Xanh của nòi Việt,
Cỏ hoa còn gìn giữ mặc tang thương.
Mà muôn thuở như mỗi ngày thêm sáng.
Ðược một người đáng mến đáng chìu thương,
Vết Tiên Rồng ai khắc qua mưa nắng?
Ðể tâm tư lo lắng mối cương thường.
Hồn lịch sử sóng trong dây nguyện ước.
Vẫn chu lưu ồn tại xá phong sương!
Bừng tỉnh ngộ bằng đồ thư đất nước.
Kín uyên nguyên sầu thẳm đáy cửu trường.
Tất cả bởi cháu con bền bỉ mãi.
Nền kế khai đạo thống dãi Viêm Phương
Dẫu thiên cổ nhân duyên nhiều cảnh thái.
Khối tình yêu khôn nói hết tơ vương.
4822 T.V.
Tự Hào
Chàng thiếu niên chí thành, hành chữ Vương
Sinh ra đời gặp lúc đại nhiễu nhương.
Dân muôn nhà trầm luân trong nước lửa.
Chàng thiếu niên gầm thét động bi thương.
Phấn hùng tâm gọt mài tìm lẽ sống.
Ðặt tấm thân dày dạn giữa gió sương;
Ngày công thành hẹn trước như cứu chúa.
Cầm trong tay vận mệnh và kỷ cương.
Chàng thiếu niên gốc cháu con Hồng Lạc
Máu nóng sôi, hồn nóng lửa Viêm Phương.
Năm nghìn năm trong mạch sống chan chứa.
Hoa thiên tài bừng nở nức Ðông Dương.
Lòng trong trắng như vầng trời cao sáng.
Ðức uy nghi nên cách khác ai thường.
Tình yêu thương những ngày thiên mệnh sớm
Vì giông nòi trút lại chẳng tơ vương.
Vết phấn đấu như rồng bay tuyệt cắng
Tài lược thao cái thế có ai đương;
Lưỡi gươm thề quyết mở đường Vạn Thắng
Gồm một nhà trăm giống Việt Kinh Dương.
Chàng thiếu niên rượu thần thơ lại thánh.
Nét tâm đan mở miệng có văn chương,
Bước Duy Dân dòng Xuân Thu tha thiết.
Uống Năm hồ, ngâm trăm thuở cương thường.
Trang bất tử bước chân hùng khảng khái.
Vê hồn nhiên linh nhạc nẩy cung thương.
Thường than câu “Thiên hạ thùy nhân khấp”
Thoắt xem mình đầu tóc đã pha sương.
Gánh tài tình tự hẹn thời mưa gió.
Dẹp cuồng lan xấy đắp cõi kim cương,
Thân lui về tiêu dao không ngày tháng.
Muôn nghìn đời tài tử nhất danh trương!
Chàng thiếu niên tự hào thân lầng lậng,
Ðáng cháu con Hồng Lạc mặt dương dương
Cũng doanh hoàn đua chen với kim cổ,
Hỏi xem đời mấy kẻ dám tương đương?
Chàng thét rượu, mở tờ buông bút sử,
Tự hào mình, mình hát lại mình thương,
Rằng nghìn trước, nghìn sau, nghìn năm nữa,
Có ai cùng Thái Dịch hú hồn thương?
4822 T.V.
Thánh Đồng Ngâm
Trứng rồng nở ra rồng.
Hạt thông mọc cội thông.
Nối dòng và mở dõi
Bởi con cháu Lạc Hồng.
Tre già măng lại mọc
Ðông hết tất sang Xuân.
Nóng lạnh tình như dục.
Bao nhiêu nỗi xa gần.
Tạo hóa như không cả.
Nên chăng bởi tự người
Thánh hiền sao vắng vẻ
Trong mong lũ trẻ tươi!
Nước suôi đi đi mãi,
Trời quay đến đến đâu!
Mỗi thoáng đời thêm mới,
Thương thay lứa bạc đầu!
Trúc lụa ngày thêm cũ
Son xanh mỗi giũa thêm,
Hưng vong đem gột rửa;
Vàng đá cũng ngao mềm.
Lòng người xưa ta biết,
Tái sinh còn hận dài.
Vì không chi chi hết,
Cát bụi phải dùi mài.
Ðoái lại tuy không kịp,
Trông theo đuổi vẫn còn.
Phím đàn tuy nhỡ dịp,
Ðiệu tri âm chưa mòn.
Lúa tơ trong bùn lội,
Cát vẩn lọc nên vàng,
Có đem thân chìm nổi
Mới biết ánh vinh quang.
Sống chết bao nhiêu ngả.
Chung quy một lẽ đời.
Ðầu tóc xanh óng ả,
Rằng tóc răng, lưng vời.
Giung giẻ trong vui sướng,
Chi chành với gió mây,
Trắng răng nào đã tưởng
Cuộc ú tim sau này!
Lăn lóc trường trác táng,
Khổ lạc chất bao chồng.
Muốn ngơ ngơ ngãng ngãng.
Tìm phương thuốc hoàn đồng.
Ấy chết đi còn sống,
Mỗi sống mỗi phôi pha
Mà hắt hiu một đống
Làm bè với cỏ hoa!
Ai đem giày nát mãi?
Ai đem vần vò ai?
Nắng mưa dạn rầu dãi,
Một tấm lòng thoát thai.
Còn người trong trời đất,
Còn bao giờ hết sầu!
Chiếc dây cùng muôn vật
Cởi thắt tự dâu đâu.
Thăm dò nơi nguyệt quật,
Cầm nắm lấy thiên căn.
Giày cũ đi đi mất,
Còn đây vết trục trần.
Giọt nước xuyên lỗ mỗ
Dây ràng kín góc gai,
Nước non hồn Ðỗ Vũ,
Giằng lối vấn vít hoài.
Vạch lối muốn năm trước.
Tìm đường muôn năm sau,
Thái Bình làm Sách Ước
Xây đắp cỏi thần châu.
Chở oán chi vũ trụ.
Cũng đùng trách người ta,
Tấm băng ngà bóng rũ,
Dòng suối cuộn cành hoa.
Ngày tháng như thoi lẩy,
Cương thường nặng ngàn cân.
Chỉ xin đem chút mẩy
Báo đáp cùng ba xuân.
Công tội, Xuân Thu hiểu.
Long Hoa mấy vận lành?
Áo vải đời nhương nhiễu,
Thủy hỏa luyện nên mình.
Ðầu xanh học làm Thánh,
Ðược cả học làm Vương
Vì muôn sinh chấp mánh.
Cho toại chí mười phương.
Thánh Vương như học được.
Nguyện bạc đầu đọc kinh,
Chỉ vì chưng thao lược
Không ngoài trong tự mình.
Giàu sang như dép rách.
Non Côn có suối rừng
Ðất trời ai cởi ách,
Hơn Thánh Vương ngàn từng.
Chỉ những người tác giả.
Làm thầy cho mọi đời!
Áo cơm là đạo cả
Kinh doanh đủ hộ người.
Khói mây kín mù mịt
Như Không, như sáu Như.
Anh hùng đâu mất hết;
Như thiếu, như có dư!
Ðẻ ra ai đã biết?
Hun đúc trong trường trần,
Chỉ những người cô nghiệt
Hiểu được thức kinh luân.
Cha mẹ công huân dưỡng.
Non sông phí tưới vung,
Máu chảy đức vô lượng.
Xin thề vì kiền khôn.
4822 T.V.
Xuân Thu Ngữ
Khi bán than ẩn, khi đan sọt ra,
Ðược nghĩa được nhân, phải thời phải thế.
Biểu trừ gian một lá thuở về nhà.
Lòng riêng đau nghìn cổ cõi Ðông Á.
Thuở còn trời, còn đất còn ta.
Gánh cương thường nhắc lên vai ai để.
Ðể đời đời nghĩ, nghĩ lại xót xa
Rằng mỗi đời sao chẳng mỗi thánh nhân ra.
Bóng trăng soi tịch mịch
Nước suối reo,
Cây thông hò.
“ Tri ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ”
“Tội ngã giả kỳ duy Xuân Thu hồ”.
4823 T.V.
Tơ Đồng
Mai không trên núi.
Quế không trên non,
Ðào không trên nương.
Phong trần lặn lội xót hoa hường,
Tìm người đồng tình dạ vấn vương.
Buồn theo gió đông gửi bốn phương.
Lân ẩn trong nội,
Phượng ẩn trong ngàn,
Rồng ẩn trong ao.
Lều gianh cỏ rậm vùi anh hào.
Tìm người đồng chí dạ khát khao.
Trong theo cánh buồn hỏi mây sao!
Cầm không có sắt.
Uyên không có ương,
Cưu không có thư.
Thu dài Xuân ngắn hận nắng mưa.
Tìm người đồng tâm dạ tương tư,
Ngóng theo tăm bóng nhắn tin tờ.
4822 T.V.
Ruộng và Nương
Nắng bay lúa đỏ mấy miền.
Lần xem bờ cõi Lạc điền những đâu?
Hai tay cuốc bẫm cày sâu,
Một bồ thóc gióng ngả màu giang san.
Bóng dâu min mít đồi ngàn,
Gió đèo Ngũ Lĩnh, mây qua Chà Bà.
Con tầm chấp nối bao là,
Nên dư đồ đó giữ nếp nhà áo khăn,
Nắng mưa tắm trải bao lần,
Trăng thu Lương Thủy, hoa xuân Kiếm Hồ,
Lưng trời con nhạn lơ thơ,
Tấc sinh cây cỏ còn chờ nước non.
4823 T.V.
Dương Tử Giang Âm
Mây Năm Núi, gió Năm Hồ,
Nghìn xưa bến Sở, sông Ngô thế nào?
Mây bay gió cuốn ra sao,
Non kia, nước ấy thấp cao những gì?
Mệnh ngày suy chửa hết suy,
Biết đâu Cai Hạ mà vì Mịch La?
Gió mưa ta cũng một nhà,
Mây quang gió tạnh đã là nghìn xưa.
Cây non thức dậy hay chưa,
Tấm lòng Dương Tử đợi đưa tin hồng.
4823 T.V.
Chính Khí Việt
Một ngày lạnh nước nguời không tri kỷ.
Ta vỗ án hét thành chúng ta chính khí.
Ðông thê thê như gió thổi u hồn,
Thấu buốt tận lòng ngưòi trong cốt tủy.
Lòng sống chết buồn vui bừng nổi dậy,
Thoát lăm le như dục người chọn lấy,
Năm nghìn năm, làm máu bén dạt dào.
Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy.
Tiếng vang vang như thần kêu quỷ hét.
Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét,
Gọi quá khứ vị lai những u hồn
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.
Nước Mê Linh trăng thu còn vằng vặc,
Sông Bạch Ðằng sóng vỗ thuyền cắc cắc.
Non Chi Lăng gió cuốn rừng cung đao,
Ðồng Ðống Ða xưong người phơi man mác.
Buổi Sát Thát chàm vai thề đầu mất,
Ngày Bình Ngô nổi cờ không khuất tất,
Khi Cần Vương nhổ mặt lũ gian hùng,
Lúc Cứu Quốc vòng bôn lao uất uất.
Thà làm ma nước Nam không vua Bắc,
Ðầu chẳng còn quyết không đương cắt tóc,
Lửa đốt mình không phụ nợ non sông
Dây thắt cổ cho tròn trung xã tắc.
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết.
Những trung hồn xưa, nay, mai oanh liệt
Mở nguồn sống xưa, nay, mai nước nòi,
Muôn nghìn đời dạt dào chính khí Việt.
Chính khí Việt suốt đất trời bàng bạc,
Chính khí Việt trong máu người Hồng Lạc.
Gió thê thê quất dậy hồn phục hưng
Gươm Vạn Thắng cứu nước nòi giết giặc.
Chính khí Việt là hồn gươm Vạn Thắng,
Sắt tôi với máu đào hun lửa nóng,
Và Ðại Việt muôn năm! Cả toàn dân
Vượt đau nhục lên sống còn hùng tráng.
Liễu Châu 4821 T.V
Xuân Tráng Sĩ
Tráng sĩ hãy ngâm câu:
“ Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỳ nhân hồi”.
Cũng bởi vì:
Lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi,
Hai bàn tay thề phục lại sơn hà.
Thái Bình Dương lấp lánh san bằng sầu nhục tủi,
Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma.
Thế cho nên:
Tráng sĩ hãy cùng ta tay cầm tay,
Thu Năm Hồ dốc lại một hô say
Ðem Xuân đầu với rượi hòng pháo nổ
Hãy vui cho đỡ buồn xa đất tổ.
Rồi ngày mai, từ ngày mai.
Lý tưởng Việt như trời Xuân sáng tỏ,
Chép sử Việt ánh dương phơi máu đỏ
Tráng sĩ cầm thanh gươm của ông cha,
Phấn hồn xưa giết giặc đòi lại nhà.
Tráng sĩ hãy lên:
Những xâm lược, bóc lột hại sinh linh.
Những buôn dân bán nước cầu tư vinh.
Hãy giết sạch chớ gờm tay sợ ác.
Cho trong trắng nòi con Hồng cháu Lạc.
Rồi ngày kia:
Một ngày kia Thắng Nghĩa ca
Sẽ vang lừng đây đó quốc gia.
Và lúc đó:
Tráng sĩ sẽ lại cùng ta
Ta cầm tay cùng hát câu
Sát Thát Bình Ngô của ông cha từ thuở nọ.
“ Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử Quan”
Súng nổ ran
Phảo nổ ran
Cùng hân hoan.
Liễu Châu 4821 T.V
Lưỡi Gươm Việt
Thép Văn Lang lò Viêm hồng nung đúc.
Búa Lô Truy rèn giữa bể dâu từng.
Góp ba núi, năm sông dày tẩm dục.
Sấm sét nhoàng chớp nhoáng giữa gươm cung.
Thuở Vạn Kiếp tiên trao khét oanh liệt,
Ngày Lục Niên đã hiện thét quang vinh,
Rửa lấy máu gột màu bằng xương thịt,
Chém muông Hồ, thú Hán nức uy linh.
Như Bình Trọng nhơn nhơn giữ một mực.
Tựa Lê Lai ngặt ngặt xung chín lần,
Rửa lấy khí gọt mài bằng trung trực,
Sờn gai người, chém đảo sóng ba quân.
Ví binh phù ngư long bay xào xạc.
Bằng phiến minh tuyết lửa thổi chập chành
Rửa ấy óc gọt mài bằng sáng tác,
Nổi phong trần cuốn quét khắp đan thanh.
Thép Văn Lang toàn tinh thần tái luyện,
Thép Văn Lang sắc lên nhường bay biến,
Lưỡi gươm Việt lại là gươm Duy Dân
Thế hệ mới mở văn minh hùng kiện.
Lưỡi gươm Việt Vương đấu gồm Thánh Chiến.
Lưỡi bảo kiếm, kiếm khí và tuệ kiếm.
Quy Long trận vung lên áp cổ kim,
Vào hình sắc ra không huyền ảo biến
Hỡi con nhà Lạc Âu nước Trăm Việt,
Hãy đúng dậy vung gươm khoa nửa triệt.
Nổi mây mù sấm sét gió mưa ran,
Cả vũ trụ hét lên ca kỳ tuyệt.
Quy Long trận,
Kỳ tuyệt ca.
Lý tường Việt chan chan ánh sáng loà,
Lưỡi gươm Việt phơi phơi hồn ông cha.
Tráng sĩ Việt đường đường chí đạp ba.
Kỳ tuyệt ca,
Quy Long trận.
Ðứng núi Tu Di, cắm giuồng Nam Bắc.
Chém sắt Côn Ngô, thu đồ Hà Lạc,
Cắt búi Kim Chiêm, bắt tiêm y thát.
Cùng một lưỡi gươm vẫy nên Vạn Thắng,
Cũng một lưỡi gươm trỏ đến Thái Bình,
Muôn muôn năm còn mãi mãi chân hình,
Vóc tình thân thiết diện, quỷ thần kinh.
4822 T.V
Hứng Ngâm
Sao được tráng sĩ vài nghìn muôn,
Cùng ta dong ruỗi khắp doanh hoàn.
Lập lại non sông xưa Bách Việt.
Dựng nên thế giới mới DUY DÂN
Chèo sang một bến cực lạc.
Vớt lấy năm bể trầm luân.
Làm tròn giấc mộng tiền sinh ấy.
Trở lại non sâu nhập Niết Bàn
4822 T.V
Xuân Thu Ngâm
Lùn lụt khi lá rụng
Ngùn ngụt lúc mầm phô,
Nắng mưa trong thiên hạ
Tâm sự ngày xuân thu.
Tâm sự bí mật của muôn đời
4822 T.V
Hoài Cảm
Hồng Bàng truyện cũ có bao điều.
Tái thế duyên xưa những bấy nhiêu.
Ba chén rươi tham ngày tháng ít.
Một xoang tình ẩn cổ kim nhiều.
Chín mươi huấn cáo quỷ thần khóc
Mười vạn quy mô thù địch xiêu
Tin tức Ðộng Ðình ai mối lái?
Muốn nơi vết tổ dạm người yêu.
4823 T.V
Quốc Sỉ
Nhấp chén rượu mài gươm giận chém đá.
Tấc cô thần nghịch tử có ai chia?
Buổi Âu phong Á vũ vẫn còn mê.
Chưa thức giấc cùng ta tuyết quốc sỉ?
Vuông nhiễu đỏ chờ chờ hoen nét rỉ.
Thẹn những phường tranh chấp mượn tay ai.
Gương Minh vào Thanh đến, đến Tây lai.
Ngai vàng nặng để ê chề non nước.
Thẹn những kẻ quyền gian cướp xã tắc,
Bêu sống thửa, thác nhục chốn tha hương,
Dâng sổ đồ quỳ gối chốn biên cương,
Tiếng sét đánh hoảng hồn quân biếm chúa.
Thẹn những kẻ sinh ra con lợn chó.
Thân ăn nằm còn nghĩ đến ông cha.
Gác cửu trùng đau thảm chẩt muôn nhà,
Ðem dân nước phó cho làng sóng cả.
Thẹn những đứa cân đai mang xóng xả.
Chí đội trời đạp đất đã bù nhìn.
Chạy trước hưu, gớm lũ chó săn nền!
Chi trách được mụ Cù tâm dạ Hán!
Thẹn những kẻ miếu đình ngồi tướng tán.
Chén thanh trà, bôi hoàng tửu đỉnh chung,
Mặt diện tường sao biết chuyện ô long!
Con thuyền đổ sóng bèo ai giữ lái?
Thẹn những bác y ô chi lải nhải,
Mãi sân Trình, cửa Khổng, mãi Ba Lê!
Mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê.
Quê nước ở trong hồn người tự chủ.
Thẹn đất nước dưới chân giày uế sú.
Người Lâm Thao, Bến Ngự luống tâm cơ.
Mà bướm hồn, xuân nửa não lòng thơ.
Ðể đàn nhạn Cô Tô đài thoi thóp!
Thẹn dân nước trong sống còn ngoi ngóp.
Cũng vua quan, phẩm sắc, cũng giàu sang,
Miếng thịt sôi luồn lọt mà đỉnh đang,
Luống để thẹn nghìn năm người da ngựa.
Thẹn những phường thất phu xanh đỏ khố,
Cúng vênh vang ra phết bậc thầy cô.
Ðoái chăng ai Sát Thát lại Bình Ngô,
Quân hồn để sượng sùng gươm Vạn Thắng.
Thẹn những bậc yếm khăn chi lẵng đẵng,
Chẳng xem người mũi chỉ dục chinh nhân.
Cũng theo đòi những vãi Hậu Ðình Ngâm,
Ðể bứt rứt ánh trăng trầm cửa Hảt.
Nghĩ đến sự nước nòi lòng tan nát.
Có ai còn nhớ chữ trượng phu chăng?
Núi Lam Sơn còn sống lại Thánh Vương
Ðể mở lại nước non nòi Ðại Việt.
4824 T.V (1945)
Vong Quốc Nô
Thương ngọn cỏ xanh xanh,
Thương bờ tre xanh ngắt.
Bờ tre lấn mặt thành,
Ngọn cỏ lan nền đất.
Bán đất đi làm tôi.
Bán trời để đậy thuế,
Sống không cửa không nhà.
Vong quốc nô là thế.
Rước voi về giày mồ,
Nhận ma làm tổ vãi,
Sống không cửa không lò,
Vong quốc nô đầy ải.
Kìa ai lẩn suối rừng.
Vì đâu lời hát trẻ
Há dám xuống Thú Dương,
Ði tìm bát cơm tẻ.
4821T.V (1942)
Chim Mồi
Hỡi chim mồi trong lồng
Tịch mịch có thương không?
Tháng tháng ăn mấy đấu,
Ngày ngày giả mấy công?
Ví thung thăng ngoài nội,
Ðâu phản bội đồng tông.
Gáy hót đau hoa lá,
Xun xoe chạnh cánh lòng,
Ðem thân ngưòi bú mớm
Làm gương lắm kể trông.
4821T.V. (1942)
Thi Hồn
Mấy năm trời lênh đênh không bờ bến .
Ta đem thân ký thác ngoài cố hương,
Bầu nhiệt tình trong bãi tuyết hoang đưòng,
Vết chinh đồ bao nhiêu người sai lạc!
Những lối cũ, người xưa đã khai thác.
Trong vô vời tỏ rõ dấu trăm năm.
Ðường quay về gió đáy tự xa xăm.
Thổi dồn dập máu sống còn Vạn Thắng.
Ðem muôn cõi chập chờn những ánh nắng,
Thúc đọng lại nhào lọc qua hồn Viêm.
Trí thiên tài chưa định của Rồng Tiên,
Nở thơm ngát đài hoa lý tưởng Việt.
4822 T.V. (1943)
Thi Nhiệt
Ta đã về đứng bên bờ Pắc Nậm,
Mặc heo may quần quít hồn cố hương,
Thấm hàng cây lấp ló những ven tường.
Hoà làn khói mơ màng bao nhớ ước.
Cách dòng nước ta là người mất nước,
Nước non ta, ai ngăn trở ta về?
Thấy người quê không được tỏ tình quê,
Rõ trước mắt mà tìm đâu cho thấy?
Hãy hét lớn hai bàn tay nắm lấy,
Hãy khua tan quân địch của Rồng Tiên
Hãy làm cho giống Việt lại đoàn viên,
Quê nước ở trong đáy dòng sống máu!
Quê nước ở trong đáy dòng sống máu!
4822 T.V. (1943)
Chiến Sĩ Tư
Chợt thức mình một gối.
Xào xạc lá sương mai,
Lạnh lùng con quẹt rối,
Nao lòng nhớ những ai
Những thanh niên Lạc Hồng,
Lăn mình chốn tang bòng,
Từ bỏ nơi yên ấm,
Gian khổ vì non sông.
Ngày kia khói ải bay,
Giũ áo ra đi ngay,
Từng bao thừa sống chết,
Son sắt dạ khôn lay.
Vào ra hang hùm beo,
Bạt thiệp chốn hiểm nghèo,
Ðói rét thân gầy rạc,
Lẩn lút mệnh cheo leo.
Các anh cúi đầu nghĩ,
Cứu vớt đời đau thương;
Quên mất ngừng mắt lệ,
Từng mây bạc vấn vương…
Các anh nắm tay quyết,
Tiêu diệt quân địch thù
Ôn ấp bầu tâm huyết,
Quên phắt chốn phòng thu.
Các anh tung gót bước,
Ðâu không là chiến trường,
Không quên đằng sau trước,
Người sợ, người kính thương.
Tất cả có DUY DÂN
Tất cả bởi nhân quần.
Chúng ta vì lý tưởng,
Con đường sáng vô ngần.
Những người bạn thiên cổ,
Yêu nhau chịu đựng nhau,
Ðồng chí là nghĩa đó,
Phú quý mà chi đâu.
Cùng tôi ngậm ngùi than,
Hãy tìm trong gian nan
Một nền triết học mới,
An ủi tấc bàng hoàng.
Trầm mạc trong rừng rậm,
Còn tinh thần tre lau,
Ánh vinh quang lẫm lẫm,
Trong mình phải tìm đâu,
Nghĩa DUY DÂN phấn đấu,
Máu giống nòi nung nấu,
Thiên cổ anh em ta,
Chút vị vì mắc mấu.
Cách biệt đầy nhớ nhung.
Phong quang ít lúc chung,
Ðàn chim từng ríu rít,
Cất cánh đã bay tung.
Một ngày mai chiến sĩ,
Một văn minh hùng vĩ
Một triết học đẩy nên.
Nghĩa DUY DÂN đồng chí.
4822 T.V. (1943)
Lục Niên Thành
Thành Lục Niên gai liếc kiếm rùa thần,
Bóng ngàn u thiên nhận dấu kinh luân.
Qua lặn suối, lên ghềnh gian khổ ấy,
Ngày Lam Lương rạng thấy bóng quân thần.
Muôn muôn binh ngàn ngàn tướng oai hùng.
Non sông xưa pha máu đỏ bao trùng.
Một tấc báu trong hang rừng tịch mịch.
Quyết hơn thua trên vũ trụ khôn cùng.
Ðợt phong trần gọt giũa mãi khôn mòn.
Buổi yên hà nửa gối ngẫm vuông tròn,
Quất roi ngựa tung hoành trong thiên hạ.
Ðể quay về chốn cũ dạ nhưng còn .
Nhà Lục Niên trai giới tấc tinh thần.
Trong bốn phương mưa nắng dấu kinh luân
Nơi thăm thẳm mười lăm năm rạng rỡ,
Nếp Phong Châu y bát thuở thông thần.
4823 T.V. (1944)
Thăng Long Điếu
Ðất cũ Thăng Long nếp sắc son,
Nomn sông gìn giữ lấy vuông tròn,
Hưng vong thách để cho trời đất.
Chủt dạ Thăng Long cũ vẫn còn.
Lang sói đi về thuở Ðại La,
Anh hùng chểt ruột khói quan hà.
Trên trốc bàn tay cầm vận mệnh,
Sơn xuyên thu lại cả trong tờ.
Thua được đành hay số nước non.
Anh hùng nát ruột trí lo toan.
Can qua khôn lấy thiên hạ rửa,
Cao thấp khen chê miệng chẳng mòn.
Ðế Thích cao tay chấp nối xe,
Thương đòi lo tính thấp le te,
Dù thêm học lấy trang Mai, Quất,
Tài chỉ huy xem vẫn cập kè.
Mấy cột thông già gió vi veo,
Ðầu nguồn ngọn nước đỏ tí teo.
Ðá vàng gan dãi cùng cây cỏ.
Nghẫm chuyện đần khôn nghĩ chán phèo.
Lỗ lãi trần ai giũ áo đi,
Bàn tiên, cán búa mãi tiêu mi,
Thiên thai chốn ấy lâu ngày tháng.
Thành bại ngoài tai xá kể chi!
4823T.V
Xuân Cảm
Trời Nam lẻ tẻ bóng vàng đưa,
Tý chút xuân phong khéo hững hờ,
Kiếm cũ lọt tang thương còn sắc,
Mình nay chem thời thế vẫn trơ!
Ỳ òm nhỉ! Phuờng khôn đế bá,
Nhen nhóc thay! Ðàn dại bất bơ,
Ờ ỡm xuân phong thêm nhái hận,
Ði đi lại lại khéo lơ ngơ.
4825 T.V.(1946)
Hận Mế Châu
Ðứa Trọng Thủy tham gì sắc Mế Châu,
Vì linh quang thần nỏ chút nhiệm mầu,
Vì Cổ Loa thành cao hào lại rộng,
Vì non sông gấm vóc nòi Viêm Âu.
Biết thân em duyên đó nợ nần đâu?
Dấu đoạn trường đem rắc lối giặc Tàu?
Gan bách chiến nổi sầu cha cô tức.
Giá băng ngời em hối để thằng Ngâu.
Máu oan em đọng lại ngọc trân châu.
Khối oan em thề rửa máu thằng Ngâu,
Sóng oan em thề tát bầu bể ác.
Hồn oan em chẳng bỏ cõi Viêm Âu.
Ấy năm năm nòi Hán mấy hạ cầu,
Ðường Quế Lâm, Nam Hải ngất mây sầu,
Hôn Việt Thường còn hú nuối Mế Châu.
4822 T.V. (1943)
Hận Mế Hê
Cát Ðồ Bàn còn hận dài Sạ Ðẩu,
Sông Hoàng Giang ngậm cười mãi Mế Hê.
Chàng vì chưng chí Khu Lân thì dẫu.
Thiếp vì chưng tình phu phụ nào hề.
Nực cười thay cuộc đấu tranh ảo não,
Của những người một tổ mà hai quê,
Hận dài thay đường đời ai phên giậu?
Giống Việt Thường đất cũ ai đòi về?
Thiếp cỏi Bắc hồn mài sương giang khẩu.
Giải lụa đào nguyện bắc giống ô thê,
Chàng phương Nam thập thè chuôi Nam Ðẩu,
Nguyện dêm đêm nhòm thấu cõi thầm nê.
Thiếp nghĩ thảm bao nhiêu đời xương máu.
Chí anh hùng hay chinh chiến đam mê,
Chàng rằng muối muôn năm thù nghịch khẩu.
Vì ông cha nèm rủa cháu con thề.
Nòi giống Hán nên non sông phụ mẫu,
Từ muôn xưa giày xéo bao ê chề,
Vết sỉ nhục Giao Châu đầy đẫm máu,
Cỏ cây cùng ai oán dục hồn quê.
4823 T.V. (1944)
Ðường Vua Ðinh
Ðưòng vua Ðinh tre già măng lại mọc,
Máu sống còn nòi Việt tiếp muôn xưa,
Hồn Vạn Thắng tràn lan tờ gấm vóc,
Mỗi cung còn ghi mỗi nắng và mưa.
Ðường vua Ðinh người nay nhưng lối cũ,
Nếp cựu hoài phẫn nộ mạch tân sinh,
Thành Tràng An rập rình cơn khói lửa,
Mỗi phong trào sắp sửa mỗi trùng rinh.
Ðường vua Ðinh người rày mà nếp trước,
Hội Thái Bình mang mở cuộc rồng mây,
Cờ Bông Lau dập dìu dầy non nước,
Ánh huy hoàng sáng rực khắp Ðông Tây.
Ðường vua Ðinh đã bước,
Nghiệp vua Ðinh còn đây.
Hang luồn, giốc Sỏi, mấy ghềnh mây,
Giặc Tống, quân Hầu nép móng vây.
Sông Hoàng Long dạt dào sóng vỗ,
Ðộng Hoa Lư rầm rập bào bay;
Phục lại nghìn năm giờ phút ấy.
Ðường vua Ðinh cũ lại là đây.
4823 T.V. (1944)
Vết Bô Cô
Người anh hùng cứu quốc đứng lên hô,
Quyết đem thân sống chết với quân Ngô.
Tiếng Cần Vương vừa hầm hè bến Mộ.
Sóng ba quan đã cuồn cuộn non Bô.
Ðây non Bô sừng sững bên Huyền Hà,
Biết bao vàng với máu đất đem pha,
Bao sĩ tử hồn oan ngậm cây cỏ,
Vì quân Ngô giày xéo nước non nhà.
Lòng phẫn hận một đêm sấm sét hô.
Trong ngoài kênh dàn dụa máu quân Ngô.
Oai Tuyên Ðức bạt theo hồn Trương Phụ.
Ðầy thành mà sụp đổ dưới non Bô,
Thành đây xây sừng sững bến Huyền Hà.
Sắc dòng thu lẫn sắc luá mùa pha.
Công Nguyễn, Ðặng giống nòi ai biết cả.
Bà A Ðào thành ấy ruộng riêng nhà.
Bà A Ðào muôn năm công vẫn còn,
Máu Trưng Vương gái Việt hồn sắt son.
Kiếm nương tử, mưu anh thư nào khác,
Giết quân thù lặn lội vì nước non.
4823 T.V.(1944)
Ðịch Lộng Dư Âm
Lòng hang không lồng lộng gíó trúc đầy,
Nhịp hưng vong nghìn xưa không vẳng nữa.
Tiếng sáo cao, cao vút trên từng mây,
Nàng tiên xa, xa tít tận ngàn tây.
Mà giăng trôi nước cuốn tháng ngày chầy.
Hận hưng vong trào lên từng thế thứ.
Tai không nghe, nghe thấu tới từng mây.
Mắt không trông, trông suốt đến ngàn tây.
Hồn tái sinh,
Bằng ngẫm nghĩ,
Sống cả nghìn năm những phút này.
4822 T.V. (1943)
Túy Tường
Có nàng tiên nào cùng ta tri âm.
Cùng ta chuốc chén cùng ta ngâm?
Cùng ta chắp cánh lên cao vút,
Xa đời muôn dặm bụi âm thầm.
Nhớ chốn Ðộng Ðình sóng gíó trường,
Nhớ trên Cung Quảng khúc nghê thuờng,
Nhớ thuở Văn Lang lầu kén rể,
Nhớ chàng giai tế Thúy Vân Hương.
Men đưa hào hứng bút tài hoa.
Miệng đọc như châu mặt gấm sa,
Nàng tiên chẳng thấy, thấy gió thổi.
Ngoài hiên ngọn trúc uốn la đà.
4825 T.V. (1946)
Xuân Thu Hoa
quốc miếu tụng
Chi Hồng Bàng chín vạn mở Kinh Dương,
Bọc trứng ngày trăm con chia núi bể.
Giống Tiên Rồng văn hóa cực Viêm Phương,
Nước Ðại Việt xuân thu hùng vạn thế.
……………..Ðại Việt chi ký,
……………..Xuân Thu chi hương.
Ðinh Tiên Hoàng khi Cờ Lau Vạn Thắng,
Trần Hưng Ðạo khi Vạn Kiếp di cơ,
Lê Văn Hưu khi chép thành sử thặng.
Hàn Nguyễn Thuyên khi đọc tế ngư tờ.
……………..Ðại Việt chi ký,
‘…………….Xuân Thu chi hoa.
Lê Thái Tổ khi bình Ngô đại cáo,
Còn non sông anh khí vẫn bàng bàng
Lê Hồng Ðức khi vườn quỳnh chính giáo,
Còn muôn năm nắng hóa vẫn chang chang.
……………..Ðại Việt chi ký,
……………..Xuân Thu chi quang.
Nguyễn Quang Trung khi bình Thanh thệ chúng,
Nguyễn Văn Thành khi chén rượu điếu tang,
Phan Sào Nam khi viết pho vơng quốc,
Còn là hồn Ðại Việt sống vô cương.
……………..Ðại Việt chi ký,
……………..Xuân Thu chi dương.
Chi Hồng Bàng chín vạn mở Kinh Dương,
Bọc trứng ngày trăm con chia núi bể.
Giống Tiên Rồng văn hóa cực Viêm Phương,
Nước Ðại Việt xuân thu hùng vạn thế.
4822 T.V. (1943)
Ðại Việt Âm
tấu nhạc
Ðại Việt vinh quang nhất thế giới,
Như con em Tổ Tông công đức mãi lưu dành;
Kìa những ngày Nông phục, Phiên bình,
Lại những thuở cầm Hồ, đoạt sáo.
Nhạc Bình Ngô ca Quỳnh Uyển rập rình,
Vàng chảy, bạc sinh, gió tơ, mưa lúa.
Cờ Vạn Thắng, công Thái Bình,
Hội rồng mây, cơ hiền thánh.
Cực vũ công , văn trị cảnh vinh quang.
Há một ngày nên được nghiệp vương hoàng?
Bao gan nát óc lầy, đan thanh hàng huyết lệ.
Thưỏ Hồng Bàng rẽ nước rạch hoang,
Vận nhiễu nhương nằm gai nếm mật.
Thái Tổ nhân như trời đất,
Thánh Tông trị đọ đời vàng.
Dám khoe khoang công giá huy hoàng,
Trước xã miếu hãy ưng đường Tông Tổ.
Vạn ngôn thư,
Thất trảm sớ,
Chúc Hưng Ðạo,
Sử Lê Hưu,
Khóc quỷ thần oanh liệt khí sung tiêu,
Lòng sáng thư ấy bao nhiêu lao khổ.
Cành Nam chim đỗ,
Ma Việt người thà.
Nhẽ tam thế hy sinh là quốc phổ.
Như con em nên gắng gỏi rạng non sông,
Vinh quang muôn thuở Tiên Rồng.
4824 T.V. (1945)
Kinh Đô Hành
…….Từ cổng trời đến cửa trời,
Chập-trùng nột giải núi trời cao cao,
…….Năm năm nước ngược chấy vào,
Ba ba đinh giáp cũng bao bên mình,
…….Sóng cồn nhớ núi Thu-Tinh,
Chín đầm nhớ tới Ðộng Ðình đấy đâu.
…….Lạc Hồng ấy cõi Tiên Châu
Muôn năm vạn vật thương dau còn rành.
…….Văn Lang xây lại đô thành,
Ánh sông Ngân xoáy mấy vành pha lê.
…….Chợ Trời đi lại gần kề,
Nước non chung đúc của quê nhà trời
…….Ấy nơi hiểm yếu đời đời,
Mà trong tai mắt đợi người nước non.
…….Bể Nam trời đất vuông tròn.
Trăm con giống Việt một hòn máu tươi.
4824 T.V. (1945)
Tiên Long Châu Hành
Non Kỳ, nước Nhuế, mấy thu trường,
Ði lại tìm noi dấu cố hương.
Ðỉnh dốc Bòng Bong nhiều ái ố,
Lưng đèo Cắc Cớ lằm tang thương.
Kinh luân vận mệnh là văn vũ,
Doanh dưỡng thiên dân ấy Thánh Vương,
Máy hoá muôn xưa nhà Hồng Lạc,
Thực hư ai biết khách cương thường?
Máy thiêng thủ quốc vẫn còn chân.
Hồng Lạc muôn xưa dấu đỉnh phân.
Mình ngự ngôi thần làm đế cực,
Tay vẫn chuôi Ðẩu bả thiên luân
Nước non Lạc Nhuế cơ hiển thánh.
Con cháu Rồng Tiên buổi chấn xuân
Ðại địa từ xưa không huyệt táng,
Ðan thanh một điểm tại thông thần.
Rồng Tiên vốn có chủ trương nhà,
Lục Lục, Hồng Hồng chẳng phải xa,
Núi Tản, sông Thao guồng đất đạp,
Xuân Kỳ, Thu Nhuế trạm thời thoa,
Cơ thiêng núi Ngự tầng non Ngọc;
Trẫm triệu đùn xây cửa động hoa.
Nam Bắc không ngừng xoay Tý Ngọ,
Ngàn năm ta lại biết là ta.
Bác ngư lạc lối nhập đào nguyên,
Hốt hoảng trông vời một cảnh tiên.
Ấy phủ Ðộng Ðình ngày đản noãn,
Hay gò Bồng Ðảo lúc chiêu duyên?
Ba sinh nợ cũ tình cố đế.
Một tấc oan hồn dạ Ðỗ Quyên.
Nhắn có Long chương, phiền tý chút,
Lên xem nước Thủy của Huyền Thiên.
Cổ kim chơi xóa tựa do cờ,
Non nước còn ta đến tận giờ!
Buổi đóng Phong Châu, hôm Lãng Bạc,
khi quân Lam Thủy, lúc Hoa Lư.
Vận thần thụy ứng ngày chân mệnh
Khi chính thâm tàng chốn hóa cơ.
Nguyệt quật, thiên căn ai biết được?
Văn minh ta chẳng thiếu đồ thư.
Guồng máy lung linh độ chuyển vần.
Non xanh nước biếc có kinh luân.
Truyền danh đã hẳn là linh dị,
Ứng thụy rồi ra mới tác dân.
Hư thực anh hùng trông rõ thực,
Giả chân, hào kiệt biết rành chân.
Xưa nay bất trắc, cơ khôn nói,
Ðể hỏi đời ai bất thế nhân?
Hình hài thấp thoáng bóng tinh anh.
Dâu bể tìm ai trúc sử xanh?
Ðụn thóc, cây tiền , kho giáo dưỡng
Gậy thần, sách ước, vốn kinh doanh,
Sồng Hằng, nước Hán đêu quy lại,
Ðảo Úc tầng A cũng phục quanh,
Ruộng đất muôn xưa nhà Bách Việt,
Hồng Bàng còn để mối tân canh.
Chuông vàng đại báo dậy rèn đồng,
Dớp máu oan oan chửa nhạt hồng.
Ngán núi Kinh Thiên bao nắng hạ,
Thương dòng nước ngược mấy mưa đông,
Hai tư giáo hóa giềng cương kỷ;
Mưòi tám Hồng Bàng mối tổ tông,
Tháp cuốn Chà Bà, mây Ngũ Lĩnh,
Qua sông ta lại trở sang sông.
Bước chân cao thấp mãi không cằn,
Chỉ vị đan thanh chủt nhọc nhằn,
Trở lại hồng hoang khơi nguyệt quật;
Dò vào cửu cực nằm thiên căn.
Cương thường không ngoại guồng thân mệnh,
Giáo đường gồm trong trục vũ văn,
Giữ được Xuân Thu tròn vẹn mãi,
Còn nhờ tri kỷ, tấc băn khoăn.
Ðất đỏ, trời xanh, giữa một ta,
Chunh quanh vẫn của nước non nhà,
Theo đường tiên mở đem chiêng xuống;
Vạch lối rồng xây, lấy ngọc ra.
Tim óc xoay vần được tuế nguyệt,
Tay chân tạo tác nổi sơn hà,
Ðấy ai suốt hết thần cơ nhỉ?
Tảng đá đầu ghềnh chốc nở hoa!
Vận hội ngàn năm dễ mấy lần,
Quét thanh lang sói mở canh tân,
Anh hùng dậy khắp vùng lau lách,
Tuấn nghệ ra đầy chốn giáp lân.
Ðại cáo lại ban lời Bách Việt,
Quỳnh ca luôn tấu khúc DUY DÂN.
Trời Nam chung bọc Rồng Tiên cả.
Nhắc để lên đài sống Vạn Xuân.
Một lối vô danh há dễ bàn!
Ðem nguồn cảm hứng nói non ngàn
Cơ trong vật lý, nên thần dụng,
Ðạo ở nhân tình, chớ dị đoan.
Một nếp DUY DÂN cầm chính trị,
Trăm con Hồng Lạc hết gian nan.
Tiên Long Châu ấy nơi hùng thắng,
Ðể lại năm sau chốn ẩn nhàn.
4822 T.V. (1943)
Bạch Sơn Hành
Bồng hồ trong chốn thiên thai nhà,
Cảnh cảnh, tình tình dễ nói ra
Hồn cũ giấc hương quan khi đã,
Mình nay cơn thế sự đương là…
Ba ngàn năm lại xuân đào lý,
Một tấc thiêng bằng sáng cỏ hoa,
Trời đất còn mưa mưa, nắng nắng.
Sông Xanh núi Trắng vẫn dành ta.
Phất trần toan cỡi gíó hiu hiu.
Ngoảnh lại Nam Ðàn sấm Mã Ngưu.
Nội bái tọa muôn quân tấp nấp.
Giòng phong quanh quẩn tá dập dìu.
Ðào hoa cửa động cơ hành chỉ.
Bích ngọc đầu non nghĩa khứ lưu.
Biết chiếm một đồ thơ nhập hải.
Trăm dân cùng thiên mưu quỷ mưu.
Doanh Châu mới biết là chủ nhân,
Núi Tản sông Thao rút nhỏ gần.
Biệt nước non đi, thiên cổ hận,
Về giang sơn lại vạn niên xuân,
Thài lài ngấn cũ rồng bay vết,
Danh trúc nền nayViệt hiện thân.
Hồng lạc tính linh ta bất tử,
Ngoảnh trông kiếp trước dạ tần ngần.
Hoàng Long bán củi chợ Tràng An,
Hồng Lạc tên ta gọi Tản Ngàn.
Ðạo ở thiên căn kình độc lập.
Cơ trong nguyệt quật đỗng chu hoàn.
Nhất nguyên tóm lại ngôi hoàng cực,
Vô hạn trùm ra khoảng thế gian.
Xuất nhập cứ theo đường thượng kính,
Nghìn năm ta ký chốn thanh nhàn.
4823 T.V. (1944)
Nga My Hành
Quá quan hôm sớm cũng là vửa,
Ngoảnh lại Nga My ngẫm mộng thừa.
Lặn lội dễ đâu cơn trời bể,
Y quý có chốn tạnh mù mưa.
Nhân duyên vốn đã ba nghìn trước,
Ðồ kính còn từ một vạn xưa,
Phá hết trần ai canh giáp lụy
Nhàn trong thăm thẳm thủ say sưa,
Chia phôi đã rắp buổi đề huề,
Thanh sằc không từng cánh gián khuê;
Xích điểu đem tin hồng nộng nguyệt,
Huyền đàn dõi vết bóng hương thề.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lửa hương trong đất nước giờ giây;
Hồng Lạc xuân thu người lại đây,
Hèm nhân quốc hồn y bát cũ,
Sấm trao thần khí vận cơ nay.
Kỷ hà sử vạch ngày lau trúc,
Phả ký truyền trao tích gió mây.
Một cõi Tiểu Văn Lang, Thao, Tản
Ðồ thần rộn rã việc chi hay.
Loa thành đài chói lọi linh quang,
Quan lũ từ đây mới sửa sang,
Một khoáy đã yên ngôi tử cực.
Ba sao liền nối sợi ô giang,
Hoàn nguyên tứ hướng về nam hộ
Thống nhất tam tài ở Việt Làng
Tiến thoái cứ theo đường ngọc trục
Cơ trong chỉ hoạch khéo thần tàng.
Nhập quan khi xuất thấy văn minh.
Tiểu Ðại Phong Châu đúc dạng hình,
Núi Trắng đọng tinh thần cố quốc,
Sông Hồng tràn huyết mạch dương sinh.
Rùa Rồng gọt giũa hoa thuần túy,
Gậy sách tiêu dao nhẽ trị bình,
Ai biết rằng ta, ta dễ biết,
Tò tin hiểu xiết mới tài tình.
4824 T.V. (1945)
Nga My Nguyệt
Nguyệt giãi Nga My nguyệt ý dài
Nguyệt tình thiên cổ nguyệt vì ai?
Nguyệt đưa chiến sĩ lên non Thục,
Nguyệt dẫn anh hùng đến suối Thau,
Nguyệt dõi ba sinh hồn cố quốc,
Nguyệt treo tái thế niệm tương lai
Nga My đêm tỏ soi vầng nguyệt,
Nguyệt với ta chung một cảm hoài.
4824 T.V. (1945)
Nguyên Tử Đạn
O horror; O horror; O horror;
Một chiến tranh ác sát tám trùng dương,
Suốt nhân gian quằn quại dưới đau thương,
Cuộc giáp đấu thư hùng tranh khí họa,
Trang hoà bình quyết liệt gíá vô đương.
Một sáng kiến phi thường thép nở hoa,
Ðảo Phù Tang áp phục giải can qua,
Ngày thắng trận như kinh hoàng vũ trụ,
Sức dã man tàn hiệu đã bùng ra.
Một văn minh tiếc hận tự ngàn thu ,
Cỏi Sa Ba đường hạnh phúc mịt mù,
Những kỹ nghệ hùng hồn thôi chớ nữa;
Nhân gian còn phấp phỏng giữa khi khu.
Một trách nhiệm ghê hồn trước kỷ nguyên,
Ðòi nhân luân chinh phục được đương nhiên,
Dẫu cao ngất oai hùng qua trí dũng.
Thiếu hòa bình chiến thắng cũng nguy điên.
Một phán đoán sau cùng đến chửa chăng?
Từ muôn xưa gió bụi đã trối trăng;
Phải giác ngộ bằng hởi ôi! Ðảo lộn.
Trong tái sinh, hò hẹn chốn siêu đăng.
Một siêu đăng hiện địa trổ ngành hoa,
Phải đem nền Nhân Chủ đắp xây ra.
Phải đã thắng, bằng thắng qua, thắng trận.
Phải nhân gian bốn bể lẫn một nhà.
4824 T.V. (1945)
Ðồi Nga My
Ðồi Nga My, mối hận chĩu bề bề.
Ðồi Nga My, tin ngục bổng Ðông về,
Ðồi Nga My, vàng thau đà thử thách,
Ðồi Nga My, làm trọn DUY DÂN thề.
Hởi tráng sĩ DUY DÂN đầy khổ ải;
Hãy trao giồi thể nghiệm những đau thương,
Ðông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái,
Hận du du đúc ngọc trí phong sương.
Lịch sử Việt đã tới giờ quyết liệt.
Hãy kín trong trì định đáy muôn xưa;
Những năng tử thấm tàng nuôi cảnh tiết,
Ðể đợi giờ tối hậu đột giông mưa.
Ðồi Nga My sẽ chút hận bề bề,
Ðồi Nga My tin ngục sẽ Xuân về.
Ðồi Nga My vàng thau còn thử thách.
Ðồi Nga My làm trọn DUY DÂN thề.
4824 T.V. (1945)
Khai Bút
……..Lô hoa trình VẠN THẮNG,
,,,,,,,,..Trúc biểu kiến THÁI BÌNH.
Nay mừng Lạc vận tái sinh,
Hỏi bốn bể ai kinh luân chăng tá!
……..Những gắn bó chi chi sắt đá,
……..Khối u tình nhường đã vơi vơi;
……..Tản Viên Sơn nghê hiện chi thời
……..Ðỉnh Nhĩ Thủy tinh phi chi tế.
Gặp tân niên lại nguyên niên là thế,
Chấm hết câu hưng phế cựu văn chương
……..Vạn Xuân thử hội cương thường.
Xuân 4825 T.V. (1946)
Ðà Giang
Ngày Ðà Giang mưa nắng xóm Chiên Ðào
Hoa mai trên ghềnh đá nở giờ nào!
Ðông đã hết, xuân mong tin chờ đợi,
Vẳng tai nghe hồn mộng sự Nam Giao.
Sự Nam Giao văng vẳng phía non ngoài
Khúc đoạn trường chẳng kém lối kinh đài;
Gió phất bóng quân nhung nhường động tĩnh
Dòng sông Ðen nước chảy tận u hoài.
Tận u hoài dăm dắp tiếng thề xưa,
Dội ngàn trùng muôn sóng gọi hò đưa;
Khảm thôi Thục, lên Ba Vi chốn cũ,
Chuyển giang sơn hình thể lại cho vừa.
4825 T.V.(1946)
(Nguồn: http:// daotruongngam.blogspot.com)
…