Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô đặt trước các đảng cộng sản sự lựa chọn không thể thoái thác : hoặc là chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin, hoặc là chủ nghĩa xã hội cách tân đi về phía dân chủ ?
Lê Duẩn, nhà lãnh đạo toàn quyền vào những năm đó, không cần suy nghĩ nhiều, chọn tư tưởng Mao và mô hình Trung Quốc làm nền tảng cho cách cai trị. Ðó là sự lựa chọn duy nhất có thể có đối với Lê Duẩn, sự lựa chọn bẩm sinh, thích hợp nhất. Có anh nhà quê ra tỉnh nào mà lại thích thú những sự phiền toái, những cái đòi hỏi phải động não trong đời sống thành thị. Vốn là một nhân viên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tàu quốc gia chạy theo hướng mình muốn.
Nhưng hoàn cảnh Việt Nam lúc ấy buộc ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam, bất kể xu hướng của nó thế nào, phải khôn khéo giữ bề ngoài trung dung, không dám ngang nhiên chửi bới Liên Xô, chửi bới trào lưu dân chủ đang dâng cao trong thế giới cộng sản.
Thế là vào cuối năm 1963(1) xuất hiện Nghị quyết 9, một nghị quyết nửa dơi nửa chuột, không có lập trường rõ ràng đối với cuộc xung đột tư tưởng đang diễn ra gay gắt trong lòng phong trào cộng sản quốc tế. Trong nghị quyết này Ðảng Việt Nam vừa nói chống chủ nghĩa xét lại hiện đại vừa nói chống chủ nghĩa giáo điều(2), với câu chữ kín kẽ, rất kinh viện, trong một hệ khái niệm độc đáo, khó mà hiểu được người viết nghị quyết muốn gì. Liên Xô đọc cũng không thể bực mình, Trung Quốc đọc cũng không thể tức giận. Theo lời đồn thì tác giả của cái nghị quyết nước đôi này, hay nói cho đúng hơn, người chấp bút nó, là nhà kinh viện Trường Chinh, đã nhoài người ra giúp rập chủ soái Lê Duẩn đóng thật đạt màn kịch “em chã, em chã” với cả hai bên tranh chấp.
ấy thế mà cái Nghị quyết 9 lươn lẹo, được nhào nặn bởi chủ gánh xiếc ngôn ngữ Trường Chinh, lại ra đời không được thông đồng bén giọt như các nghị quyết khác, theo thông lệ bao giờ cũng được “nhất trí” thông qua bằng những cánh tay giơ cao. Khốn thay, trong giai đoạn này đã xuất hiện làn sóng ngầm của xu hướng dân chủ trong Ðảng, được cả một số ủy viên Trung ương tán thành. Nghị quyết 9 là cái Lê Ðức Thọ và đàn anh Lê Duẩn cần có để trấn áp trào lưu dân chủ nọ. Nó phải được ra đời, bằng bất cứ giá nào. Và, về đại thể, Duẩn-Thọ đã thành công.
Trong Nghị quyết này, mặc dầu lời lẽ mù mờ, lập trường mao-ít của liên minh Duẩn-Thọ, là rõ ràng đối với bất cứ ai không mù.
Sợ các đảng viên hiểu lầm, Trường Chinh giải thích thêm trong một cuộc họp phổ biến Nghị quyết 9 cho các cán bộ cao cấp vào tháng giêng năm 1964 rằng “Cần lưu ý các đồng chí một điều là Nghị quyết 9, do tình hình phức tạp trong phong trào cộng sản quốc tế không thể viết hết ra những điều cần nói. Cần đặc biệt lưu ý rằng thực chất của Nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là : đường lối đối ngoại và đối nội của Ðảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối ngoại và đối nội của Ðảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc”. Cách phổ biến bằng miệng, sợ hãi sự ghi ra rõ ràng trong văn bản chứng tỏ tính nội kín của ban lãnh đạo Ðảng thời kỳ ấy. Làm ra vẻ có sự phân công quốc tế trong việc đánh xét lại, Lê Ðức Thọ nói cho rõ hơn nữa trong một cuộc họp khác: “Chống chủ nghĩa xét lại hiện đại về mặt lý luận ta để cho Ðảng cộng sản Trung Quốc làm, còn về mặt tổ chức thì ta tự làm lấy”.
Cuộc đánh xét lại bằng nước bọt bắt đầu. Khắp nơi người ta chửi bới thằng trọc(3), chửi Liên Xô hèn, Liên Xô sợ Mỹ, Liên Xô phản bội. Một việc mua bán bột mì thông thường của Liên Xô trong khi nước này thiếu hụt lương thực được coi như một thất bại thảm hại trên mặt trận nông nghiệp. Những cổ động viên bóng đá quên bẵng tinh thần thể thao, gào khản giọng trên sân cỏ trong một trận đấu giao hữu :”Oánh bỏ mẹ bọn xét lại đi !”. Những người không đồng tình, lỡ miệng nói câu nào không giống lập trường của Ðảng lập tức bị chụp cho cái mũ xét lại hiện đại.
Với Nghị quyết 9 Ðảng cộng sản Việt Nam phân hóa thành hai cực – một bên là những người chủ trương chủ nghĩa xã hội dân chủ pháp trị, đòi kiến tạo một xã hội công dân có nhân quyền, bên kia là Ðảng cầm quyền kiên trì một chủ nghĩa xã hội chuyên chế.
Ðó là những ngày không thể nào quên.
Dương Bạch Mai, con hổ dữ chống lại đường lối thân Trung Quốc đột tử khi ông đang dự cuộc họp Quốc Hội tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Vào lúc giải lao, các đại biểu kéo nhau đi uống bia ở bar, ông Mai thết trước các bạn một chầu bia mừng sinh nhật ông hôm sau. Ông ngã xuống. ly bia chưa cạn. Khi xe cấp cứu đến, bác sĩ Tôn Thất Tùng định nhảy lên cùng đi tới bệnh viện thì hai thanh niên lực lưỡng áp sát ông :”Mời bác sĩ quay lại tiếp tục cuộc họp Quốc Hội, việc nước quan trọng hơn”. Chiếc xe cấp cứu phóng đi trước khi Tôn Thất Tùng hiểu chuyện gì xảy ra với ông, hai thanh niên kia là ai và tại sao họ lại ngăn cản ông đi cùng xe để săn sóc bạn ông ?
Cái chết của Dương Bạch Mai gợi nên một nghi vấn. Ông ngã xuống đúng vào lúc ông sắp sửa đọc một diễn văn nảy lửa chống lại đường lối xây dựng xã hội trại lính kiểu Mao Trạch-đông, đòi Ðảng phải cải thiện đời sống cho dân chúng, đòi thực hiện dân chủ trong nội bộ Ðảng, trong xã hội, và hàng loạt vấn đề khác. Bài diễn văn ông đút trong túi áo để đọc trước Quốc Hội biến mất. Nhà báo Thái Hồng, rất thân với Dương Bạch Mai, được đọc bản thảo diễn văn mấy hôm trước đó nói rằng đó là một tuyên ngôn cháy bỏng, hùng hồn và cực hay. Ðược tin ông Mai mất đột ngột, bà Mai từ giã các cháu học sinh miền Nam ở Thủy Nguyên về Hà Nội để làm ma cho chồng. Ngôi nhà của ông bà bị công an gác. Bà phải làm dữ mới vào được nhà mình. Trong nhà đồ đạc bị lục soát tung tóe.
Dương Bạch Mai là một trong những nhà lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam(4). Ông cũng là một trí thức yêu nước của đất Nam bộ. Ông từng du học Pháp, gia nhập Ðảng cộng sản Pháp năm 1926. Trong cuộc nổi dậy mang tên Nam kỳ Khởi nghĩa ông được ủy ban khởi nghĩa dự kiến làm thủ tướng chính phủ cách mạng. Năm 1935 Dương Bạch Mai trúng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn trước sự bực bội của chính quyền thuộc địa. Dương Bạch Mai cũng là một trong những nhân vật chủ chốt của tờ La Lutte, tờ báo cách mạng đầu tiên có sự bắt tay giữa những người cộng sản và những người tờ-rốt-kít thuộc nhóm các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch(5).
Tính cương trực, nóng nảy, chịu ảnh hưởng nặng những tư tưởng dân chủ của Ðại cách mạng Pháp, đã quen với cách xử thế bình đẳng kiểu phương Tây, ông không được lòng những nhà lãnh đạo gốc Bắc. Chính Dương Bạch Mai chứ không phải ai khác đã vực dậy cả Ban chấp hành Trung ương bạc nhược sau thất bại Cải cách ruộng đất.Hội nghị cán bộ Trung ương kiểm điểm công tác Cải cách ruộng đất diễn ra trong bầu không khí ảm đạm trước viễn cảnh một miền Bắc tiêu điều, thù hận. Dương Bạch Mai đã đứng lên, cao giọng hát bản Internationale(6), mọi người hát theo ông, và Hội nghị lấy lại được tinh thần.
Ông Phạm Ngọc Thạch(7), trong một câu chuyện vui tại nhà tôi hồi đầu thập niên 60, nói với ông Dương Bạch Mai :
– Mấy chả không ưa mầy, vì mầy thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói dzậy, làm mấy chả mếch lòng, mới lôi cái vụ mầy hợp tác với đám tờ-rốt-kít ra mà rêu rao.
– Thì mầy cũng bị mấy chả rêu rao là có thời thân Nhật đó thôi. Chơi với tờ-rốt-kít thì mầy cũng chơi chớ bộ. – ông Dương Bạch Mai cười ngất – Nè, cẩn thận đó, sổ đen của mấy chả chỉ có ghi thêm vô chớ không có xóa đi đâu nghen”,
Theo cha tôi, thái độ của những người lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam đối với những người tờ-rốt-kít là không thể hiểu được. Họ có thể đoàn kết với bất cứ ai khác, trừ những người tờ-rốt-kít, thậm chí cả trong những hành động cụ thể chống lại nhà cầm quyền thuộc địa. Ðể giải thích thái độ bất cộng đới thiên này, người ta dẫn ông Hồ Chí Minh : “Ðối với bọn tờ-rốt-kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát-xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị” (trích báo cáo của ông gửi Quốc tế Cộng sản cuối năm 1939). Quả ông Hồ có viết như vậy. Lập trường cứng rắn này của ông được những người nghiên cứu tiểu sử ông giải thích bằng sự cần thiết phải thanh minh trước một Quốc tế đa nghi dưới sự chỉ đạo của Stalin sắt thép. Hồi ấy Quốc tế nghi ngờ lập trường cách mạng vô sản của ông Hồ, cho rằng nó không vững chãi. Ông cần sự ủng hộ của Quốc tế cho mục đích giải phóng dân tộc hay ông cần tiền để sống qua ngày trong khi còn lang bạt nơi đất khách quê người, mà Quốc tế là nguồn cấp đỡ ? Ðó là điều không ai biết.
Ông Dương Bạch Mai nói với tôi rằng ông không được lòng ông Hồ Chí Minh. Dương Bạch Mai có cái tật sống quá thẳng. Ông ngang tàng, không chịu gò mình vào tôn ti trật tự phong kiến, ông bạt mạng trong lời ăn tiếng nói. Ðã quen với những lời tâng bốc, xưng tụng, ông Hồ Chí Minh có không ưa ông cũng phải.
Trường Chinh cũng không ưa Dương Bạch Mai. Ðiều này không khá hiểu. Trong Trường Chinh có mặc cảm của kẻ ngã ngựa. Sau sai lầm Cải cách ruộng đất ông đinh ninh ai cũng coi thường mình. Dương Bạch Mai phản đối Nghị quyết 9 thì Trường Chinh lại coi là ông phản đối mình.
Lê Duẩn đặc biệt không ưa Dương Bạch Mai. Theo nhận định của những người từ Nam bộ ra Bắc tập kết thì sự không ưa này không phải vì nguyên do chính trị. Cái chính là Lê Duẩn biết mình chẳng bao giờ có được cái mà Dương Bạch Mai có – sự nổi tiếng với tư cách một thủ lĩnh có trí tuệ. Dương Bạch Mai nói về Lê Duẩn : “Cháu để ý tới cái thằng cha ấy làm chi ! Tâm trí bậc nam nhi là để cho sự nghiệp, thằng này thời chỉ lo kiếm chác vinh quang và quyền lực, lúc nào cũng nơm nớp sợ người khác hơn mình. Sự nghiệp và vinh quang là hai thứ khác nhau, như ngôi nhà với nước vôi phủ bên ngoài nó, cháu à !”
Dương Bạch Mai, nếu còn sống chắc sẽ chịu chung số phận với chúng tôi. Không phải chắc, mà chắc chắn.
Từ khi có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, ông chống lại việc đưa nước Việt Nam vào quỹ đạo chủ nghĩa Mao. Ông gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù(8) của thổ phỉ. Giữa lúc ngành tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch-đông lên hàng thánh sống thì ông ngang nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc. Ông giải thích tình hình loạn lạc hiện tại ở nước láng giềng bằng lập luận rằng vào đầu thập niên 30 giai cấp công nhân Trung Quốc chủ yếu tập trung ở các thành phố duyên hải, trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng những đại biểu ưu tú của giai cấp này đã chết dần chết mòn trong Vạn lý trường chinh, và thay vào chỗ của họ là bọn cường đạo thảo khấu thu nạp ở dọc đường. Cho nên khi biên khu Thẩm-Cam-Ninh, Tân-Ký-Sát hình thành thì về thực chất Ðảng cộng sản Trung Quốc đã là một đảng thổ phỉ, đứng đầu là thành phần vô sản lưu manh. Những người cộng sản bị Mao Trạch-đông và Khang Sinh thủ tiêu dần. Người còn sống sót thì bị ám hại trong những “cuộc vận động cách mạng” thường trực. Chính cái đó dẫn tới tình trạng bất ổn liên miên trong nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định ngược đời của Dương Bạch Mai làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam hết hồn. Sở dĩ ông chưa bị đụng tới là vì ông có danh tiếng, có uy tín lớn trong quần chúng.
Dương Bạch Mai qua đời khi đang là ủy viên Ban Thường vụ Quốc Hội, phó chủ tịch Hội Việt-Xô hữu nghị. Sau này, nhân vụ tướng Hoàng Văn Thái rồi tướng Lê Trọng Tấn thay nhau đột tử đúng lúc chuẩn bị nhậm chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng dư luận lại nhắc tới cái chết đáng ngờ của Dương Bạch Mai nhiều năm về trước.
Ngày đưa tang ông, văn nghệ sĩ và trí thức nghèo của Hà Nội chung nhau một vòng hoa để bày tỏ lòng thương tiếc ông, Người của mọi người. Vũ Huy Cương và Dương Tường(9) đứng ra thu tiền phúng.
Tôi thay mặt anh em văn nghệ sĩ có xu hướng dân chủ mang vòng hoa tới trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở ngã tư Tràng Thi – Quán Sứ. Anh em cử tôi làm việc đó vì tôi là loại vua biết mặt chúa biết tên rồi, có muốn giấu cũng không được, còn người khác thì không nên lộ mặt làm gì. Khi tôi ngồi xe xích lô chở vòng hoa đến đấy thì đã có cả một đám đông cá chìm lăng xăng ở ngoài đường và trong sân. Thấy vòng hoa lớn quá, lớn hơn nhiều so với vòng hoa của chính phủ viếng ông, với dải băng chạy ngang “Kính viếng hương hồn đồng chí Dương Bạch Mai, người cộng sản suốt đời trung thành với lý tưởng” bọn cá chìm ập tới. Hai tên lực lưỡng xăng xái xông tới khiêng giúp tôi, không phải để đặt vòng hoa trước linh cữu mà để đưa thật nhanh vào một chỗ khuất nẻo. Tôi còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao thì Bửu Tiến(10) xuất hiện. Anh cùng tôi đưa vòng hoa ngược trở lại, đặt nó bên những vòng hoa khác. Trước linh cữu Dương Bạch Mai anh nghẹn ngào đọc bài thơ chia tay :”Hoa mai mừng sinh nhật. Hôm nay đành viếng anh….” Trở ra, Bửu Tiến mắt đẫm lệ : “Chúng nó trắng trợn quá ! Tởm quá !”.
Khi xe tang chuyển bánh, tôi đi ngay sát linh cữu, lòng tràn ngập niềm thương tiếc bác Mai của tôi, mà tôi được biết từ những ngày Tháng Tám sôi nổi(11). Ði sau tôi là Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, hai cái mặt nạ đóng cứng nét vĩ đại tự tạo. Quần chúng tràn ngập ngã tư Quán sứ, lặng lẽ tiễn chân ông, làm thành một dòng người kéo dài cả cây số(12)
Bửu Tiến những ngày sau đó trầm lặng hẳn. “Cái chết bi thảm của ông Mai là dịp cho tôi rà soát lại mình, anh nói. Mình có nên cứ hèn mãi để mà sống dai không ?”.
Tôi với Bửu Tiến gần nhau nhiều trong những ngày chỉnh huấn chuẩn bị đi học nước ngoài, đầu năm 1954. Mọi người nằm trong danh sách cán bộ của Tuyên giáo Trung ương lựa chọn cho đi học vẫn phải trải qua sự sàng lọc. Bửu Tiến đã không qua được cửa ải thành phần – anh là người trong hoàng tộc.
Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân, Lê Ðăng Thực, Nguyễn Quang Tuấn, Trường Nhiên(13) và tôi vượt qua được cửa ải đó. Chúng tôi tiếc thay cho Bửu Tiến. Anh là một nhà biên kịch tài hoa, một diễn viên xuất sắc. Trong bữa sôi sắn đạm bạc thay cho tiệc chia tay tại Khu học xá (nay là khu tập thể sinh viên trường Ðại học Bách khoa) Bửu Tiến dặn tôi :”Cố mà học. Chúng mình có mắt mà sờ soạng như sẩm, hiểu biết thì bằng cái óc chim sẻ, không có học không làm nghệ thuật được đâu”. Anh là người rất hồn nhiên, rất cả tin. Năm 1956 anh cũng hăng hái theo Ðảng đánh các bạn đồng nghiệp trong vụ Nhân văn – Giai phẩm, nhưng vào những năm 60 anh sám hối: “Mình ngu như bò. Lẽ ra phải nghĩ bằng cái đầu của mình, thì lại tin rằng đã có sẵn những cái đầu sáng suốt của các vị ấy, chẳng cần phải suy nghĩ nữa. Còn hơn bò”. Tôi ra tù, Bửu Tiến lo lắng tìm mọi cách giúp đỡ tôi trong những ngày đầu tiên trở lại với cuộc sống bình thường.
Huỳnh Ngự không quên nhắc lại tội của tôi trong đám tang Dương Bạch Mai, nhưng với giọng độ lượng :
– Thằng Mai chết rồi, thôi để cho hắn mồ yên mả đẹp, không nói tới nữa. Nhưng tội khiêu khích của anh trong đám tang hắn thì không thể bỏ qua. Thằng chống Ðảng mà các anh làm như là anh hùng, rõ không biết dơ. Mà anh có biết hắn bị khai trừ khỏi Ðảng ngay cả khi hắn đã chết rồi không ?
Tôi biết. Cả Hà Nội đều biết. Tôi còn nhớ ngày ấy đã có bao nhiêu lời dè bỉu dành cho hành động đê mạt của Ðảng cộng sản đối với một đảng viên đã khuất. Bọn Duẩn-Thọ khai trừ ông khi nắp áo quan chưa đóng lại. Vì sợ ông. Và vì căm thù ông.
Trong những ngày học tập Nghị quyết 9, tôi không rời mẩu băng đen được gắn trong đám tang Dương Bạch Mai trên ngực. Những tên cơ hội không bỏ lỡ dịp hỏi kháy :
– Anh để tang ai vậy ?
– Một người thân. – tôi nhìn thẳng vào mặt họ.
Nhưng có những người đến nắm tay tôi, nói khẽ :
– Xin chia buồn cùng anh. Ðó là cái tang chung cho tất cả chúng ta.
Trong phòng vệ sinh, một người mà trước đó tôi không hề chú ý tới giả vờ đi tiểu để được đứng gần tôi.
– Tôi xấu hổ. – anh thì thầm – Tôi hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin anh thông cảm cho tôi – tôi có bốn đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật…Nếu không tôi đã không xử sự như vậy.
Trong buổi học tổ trước đó anh ta hùng hổ lên án “bọn phản bội xét lại hiện đại”, như một người “mác-xít – lê-nin-nít” chính cống.
Cái chế độ làm cho con người hèn đi không thể là chế độ xứng đáng với con người. Con người cần phải được sống trong tư thế đứng thẳng, đầu ngẩng cao. Lời thú nhận của người bạn tự nhận là hèn nhát cho tôi thấy chúng tôi không đơn độc. Nhà cầm quyền có thể làm cho người ta sợ, nhưng không thể làm cho người ta vì sợ hãi mà yêu họ.
Không hề có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối ở nước ta, tôi nghĩ. Về thực chất nó là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa cái Ðẹp và cái Xấu, giữa ý muốn đề cao Con Người và mưu toan hạ thấp Con Người, đẩy con người xuống hàng trâu ngựa, hàng robot, hàng “cái đinh ốc không rỉ của cách mạng”.
Lớp học Nghị quyết 9 dành cho chúng tôi là lớp cho cán bộ ngoài Ðảng, phần lớn là trí thức trong các cơ quan văn hóa. Lác đác có một số đảng viên do bận công tác còn rớt lại từ những đợt học trước và một số nữa tuy đã học rồi cũng vẫn đến không hiểu để làm gì. Chúng tôi được phát mỗi người một cuốn nghị quyết có đánh số, được đọc tại chỗ, không được ghi chép, không được mang ra khỏi phòng.
Lưu Quý Kỳ, hướng dẫn viên, vui vẻ bắt tay tôi :
– Có định phát biểu gì không ?
– Mọi sự đã quyết định rồi, còn gì mà phát biểu ?- tôi nói.
– Còn thắc mắc thì cứ nói. – Lưu Quý Kỳ cười hề hề – Các anh ấy cho bảo lưu mà.
Bảo lưu tức là được phép giữ lại ý kiến mà không bị trừng phạt, là sự chiếu cố của Ðảng. Tuy nhiên, phải ghi nhận rằng dù sao mặc lòng sự xuất hiện danh từ bảo lưu cũng đã là một cái mới trong sinh hoạt xã hội dưới sự lãnh đạo của Ðảng, một dấu hiệu dân chủ. Có điều sau đó những người bảo lưu nếu không bị bắt thì cũng bị trù dập, trừ những ai vội vã xin rút lại ý kiến và lập công chuộc tội.
Tôi giơ tay xin phát biểu. Từ trên bục giảng Lưu Quý Kỳ hấp háy một con mắt nhìn xuống. Anh có cố tật nháy một mắt, nó thường gây ra hiểu nhầm, làm cho người ta nghĩ rằng anh tán thưởng hoặc khuyến khích.
– Tôi có thắc mắc, đề nghị hướng dẫn viên giải thích…
Lưu Quý Kỳ lại nháy mắt với tôi. Hình như anh còn mỉm cười. Nhưng hội trường im phăng phắc. Những nhà mác-xít chân chính vênh váo nhìn tôi.
Tôi nhũn nhặn trình bày rằng trong nghị quyết có ghi : ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít lê-nin-nít, coi như đó là một luận điểm sáng tạo của Ðảng. Ðiều này tôi không hiểu.
Lưu Quý Kỳ giang hai tay, nhún vai. Anh ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như thế. Tôi đề nghị được lên bục trình bày – ở đó có cái bảng đen, tôi nói tôi viết ra thì anh sẽ hiểu vì sao tôi thắc mắc.
Tôi viết lên bảng bằng chữ to câu định nghĩa của Lênin về đảng cộng sản : “Ðảng cộng sản là chính đảng của giai cấp vô sản”, và hỏi Lưu Quý Kỳ :
– Tôi nhớ câu này của Lênin có đúng không, anh Kỳ ?
Lưu Quý Kỳ gật đầu. Anh lại nháy mắt liên hồi nhưng tôi cảm thấy mặt anh căng thẳng.
– Anh không phản đối Lênin trong định nghĩa này chứ ?
Lưu Quý Kỳ ngúc ngắc cái đầu rồi đáp :
– Tất nhiên là không.
Tôi quay xuống lớp học :
– Có ai phản đối Lênin không ?
Mọi người ngơ ngác. Phản đối Lênin ? Có mà điên.
Tôi nói tiếp :
– Ðồng chí Lênin có nói : trong mọi cách chứng minh, chứng minh bằng toán học là con đường ngắn nhất. Tôi xin phép được dùng cách hoán vị trong toán học để các đồng chí thấy vì sao tôi thắc mắc. Như vậy, khi giai cấp vô sản không có, tức là nó không hiện hữu, tôi hoàn toàn có thể hoán vị nó bằng một ký hiệu toán học biểu thị sự không có là số không.
Khi con số không được thay vào cụm từ giai cấp vô sản thì định nghĩa của Lênin trở thành rất quái dị : Ðảng cộng sản là chính đảng của 0 (con số không)”.
Một tràng cười rộ lên. Nhưng nó cũng tắt ngay, rất nhanh. Lưu Quý Kỳ tái mặt. Những tên xét lại nháy mắt với tôi, rạng rỡ. Lưu Quý Kỳ cho nghỉ giải lao. Về sau có người cho tôi biết Lưu Quý Kỳ lật đật đi gọi dây nói cho ai đó, có lẽ cho Tố Hữu.
Hôm sau, Lưu Quý Kỳ gọi tôi ra một chỗ khuất :
– Cậu dại quá ! Những cái như thế không nên nói ra chỗ đông người. Mình không kịp ngăn cậu lại…
Anh nói chân tình. Với tôi, Lưu Quý Kỳ bao giờ cũng chân tình, kể cả trong lúc gay gắt nhất của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối. Tại sao lại như thế, tôi không hiểu. Cảm tình cá nhân là cái không phải trong trường hợp nào cũng giải thích được.
– Thì anh bảo được bảo lưu mà. – tôi phân trần – Huống hồ tôi có dám nói ý kiến ngược nào đâu, tôi chỉ nêu một thắc mắc.
Anh nhìn tôi, một bên mắt lại nháy liên hồi.
– Thắc mắc chết người thế thà đừng thắc mắc.
Lưu Quý Kỳ là người không dễ hiểu. Những anh em tập kết kể trong miền Nam Lưu Quý Kỳ là đệ tử ruột của cả Ba Duẩn lẫn Sáu Búa. Khi Ba Duẩn lên án cải lương ủy mị, đã không có tác dụng động viên bộ đội chiến đấu thì chớ, còn làm họ yếu lòng, Lưu Quý Kỳ nhanh nhảu lập tức ra lệnh nghiêm cấm không cho hát cải lương nữa. Chuyện những nhà mác-xít nay cấm cái này mai cấm cái kia không phải là chuyện lạ. Các nhà lãnh đạo miền Bắc cấm tranh hội họa siêu thực, đa đa, lập thể, cấm nhạc trữ tình, nhạc buồn, gộp chung vào thành “nhạc vàng”, cấm viết văn có “biểu tượng hai mặt(14)” thì ở miền Nam các bậc thế thiên hành đạo cấm có một thứ nhạc cải lương thôi còn ít. Khốn nỗi, ai cũng biết nhân dân Nam bộ yêu mến cải lương như thế nào, và lệnh cấm cải lương gây ra một phản tác dụng dữ dội. Nhiều người bỏ kháng chiến trở về thành chỉ vì ở vùng kháng chiến không có cải lương. Người ta còn kể khi nhận được các tài liệu lý luận văn nghệ nào từ miền Bắc gửi vào Lưu Quý Kỳ đọc xong, ghi chép xong là đốt ngay, không cho ai được đọc nữa. Thế là anh độc quyền những lý luận văn nghệ xã hội chủ nghĩa để dạy dỗ các văn nghệ sĩ không bao giờ được tiếp cận những tài liệu nọ. Ai cũng nghĩ rằng với quan điểm mao-ít cực đoan, Lưu Quý Kỳ phải trù tôi lắm, phải ghét tôi lắm, nhưng hoàn toàn không phải thế, trước sau Lưu Quý Kỳ vẫn dành cho tôi những tình cảm tốt.
Chính Lưu Quý Kỳ có lần rủ tôi ra một tờ báo châm biếm kiểu như tờ Crocodile (Cá Sấu) của Liên Xô :
– Mình đã trình bày dự kiến với các cụ rồi. Về cơ bản các cụ tán thành, nhưng chỉ cho phép đánh tới cấp tỉnh thôi, không được phép đánh lung tung. Trung ương thì chừa ra, các cụ bảo thế, đánh cả Trung ương có mà loạn. Có một tờ báo như vậy ở nước mình thì những tên cơ hội, những tên lạm quyền mới sợ, không dám mặc sức tung hoành. Mình nhắm cậu làm thư ký tòa soạn…
Giám đốc Sở Báo chí Trần Minh Tước (nhà báo Xích Ðiểu) tán thành sáng kiến của Lưu Quý Kỳ, nhưng không mặn mà cho lắm. Làm một tờ báo châm biếm có nghĩa là đặt mình vào một hiểm họa – bất cứ kẻ có tật nào cũng sẵn sàng giật mình. Mà những kẻ có tật thì lại quá sẵn. Chẳng may tờ báo có câu nào nhằm trúng, hoặc không nhằm mà trúng, một vị lãnh đạo thì chết. Bên cạnh Trần Minh Tước khôn ngoan, tôi thấy Lưu Quý Kỳ thật thà và ngây thơ trong chính trị (hiểu theo nghĩa mưu mô). Tôi không nhận lời. Một tờ báo như thế ra đời là hay lắm, sẽ được hoan nghênh lắm. Nhưng tôi không nhận vì tôi không chịu được sự nửa vời.
Tôi cảm ơn Lưu Quý Kỳ đã nhắc nhở tôi về cái dại của tôi. Tôi nói tôi lấy làm tiếc đã nêu ra một thắc mắc dở hơi, chẳng để làm gì, chẳng có ích cho ai. Nhưng đã trót rồi, có muốn cũng chẳng vớt vát lại được. Lưu Quý Kỳ an ủi tôi, anh nói anh sẽ tìm cách ỉm nó đi, hoặc trình bày nó theo cách khác, sao cho đỡ gai góc.
Trong cách nói của Lưu Quý Kỳ tôi hiểu anh muốn cho tôi biết tôi phải cẩn thận, phải biết giữ mồm giữ miệng. Bắt bẻ Trung ương là tội khi quân, tội tầy đình, và tôi sẽ khốn đốn vì nó.
(1) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9, họp vào 11.12.1963.
(2) Vào thời gian đó thông thường nói chống chủ nghĩa xét lại được hiểu là chống Liên Xô (theo cách nói Trung Quốc), chống chủ nghĩa giáo điều được hiểu là chống Trung Quốc (theo cách nói Liên Xô).
(3) Chỉ bí thư thứ nhất Ðảng cộng sản Liên Xô Nikita Khrusov.
(4) Dương Bạch Mai (1904-1964), nhà cách mạng nổi tiếng của Nam kỳ. Thời thực dân Pháp cai trị Ðông Dương Nam kỳ được đặt dưới sự cai trị trực tiếp của Pháp, Trung kỳ được mẫu quốc cho tự trị, Bắc kỳ thuộc chế độ bảo hộ (protectorat). Những điều kiện của cuộc vận động cách mạng trong từng kỳ có khác nhau.
(5) Cả ba ông này đều bị Việt Minh sát hại vào tháng 9 năm 1945. Nói chung, chủ nghĩa Trotsky (theo tên của Lev Trotsky, tên thật là Lev Davidovich Bronstein, một nhà mác-xít, bạn chiến đấu của Lênin) không có ảnh hưởng trong phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Trên thực tế không ai hiểu chủ nghĩa Trotsky là gì, kể cả những người cộng sản. Họ chống chủ nghĩa Trotsky hùa theo Quốc tế 3 chứ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa Stalin với chủ nghĩa Trotsky nằm bên ngoài và quá xa mục tiêu giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
(6) Quốc tế ca, bài ca của phong trào cộng sản quốc tế, mở đầu bằng câu :”Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian !”
(7) Trong Cách mạng Tháng Tám ông Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu phong trào Thanh niên Tiền phong ở Nam bộ. Sau khi ra Bắc họp Quốc Hội nước Việt Nam thống nhất năm 1946 ông ở lại làm công tác y tế. Ông giữ chức bộ trưởng bộ Y tế trong một thời gian dài. Một bộ trưởng giản dị, làm việc hết mình, được phong Anh hùng lao động. Người ta thường gặp ông trong các quán phở bình dân vào những giờ khuya, một mình, không có bảo vệ, lái xe (ông tự lái), cần vụ…như các bộ trưởng khác.
(8) Món hổ lốn, gồm nhiều thứ linh tinh, không theo một kiểu cách nào.
(9) Dương Tường, nhà thơ cách tân, bạn thơ của Trần Dần. Trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” anh bị nghi ngờ có liên quan với những người bị bắt, nhưng người ta chỉ thẩm vấn anh vài lần rồi tha.
(10) (1918-1992) Nhà viết kịch, nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng, bắt đầu từ Ðoàn kịch kháng chiến Liên khu 4. Trong thời kỳ có vụ Nhân văn – Giai phẩm anh đứng về phía chính quyền phê phán các văn nghệ sĩ bị dính vào vụ này, sau đó anh tỉnh ngộ, thẳng thắn xin lỗi anh em.
(11) Ngay sau cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám dẫn tới sự thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một phái đoàn các nhà lãnh đạo Nam Bộ đã ra Hà Nội. Hầu hết những người trong phái đoàn đều ở nhà tôi, ở ngã tư Trần Hưng Ðạo (Gambetta) và Phan Chu Trinh (Rialand).trong đó có các ông Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Công Tường, Cao Hồng Lãnh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tây…Năm 1946 gia đình tôi
(12) Trong một buổi giỗ ông Dương Bạch Mai tại Sài Gòn, thiếu tướng Tô Ký nói :”Thành phố này phải có một con đường mang tên Dương Bạch Mai. Trong khi người ta lấy tên những kẻ không xứng đáng với một ngọn cỏ để đặt tên cho một phố thì người ta lại lờ đi những con người đã kéo theo mình cả khối quần chúng đông đảo đấu tranh cho độc lập dân tộc”. Những người có mặt hôm ấy hiểu ông muốn nói kẻ không xứng đáng với ngọn cỏ là Nguyễn Chí Thanh, mà tên được đặt cho một con đường lớn tại thành phố Hồ Chí Minh.
(13) Những văn nghệ sĩ đầu tiên được cử đi học nước ngoài. Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Trường Nhiên học nghệ thuật sân khấu (Trung Quốc), Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân học hội họa (Liên Xô). Ngô Y Linh về sau trở thành một nghệ sĩ lớn của ngành sân khấu Việt Nam với tên hiệu Nguyễn Vũ.
(14) Cách nói bóng gió, không rõ ràng.
hết: Chương 15, xem tiếp: Chương 16
|