Thoạt nhìn, có vẻ sự đổ vấy cho đối thủ tội âm mưu đảo chính là kế hay, nhưng xét kỹ thì thấy nó không vẹn toàn.
Trong bối cảnh cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, nếu như có một âm mưu đảo chính ắt người ta phải nghĩ tới bàn tay nước ngoài. Trung Quốc không đảo chính một chính quyền thân hữu. Nước ngoài đây chỉ có thể là Liên Xô. Một sự vu vạ có thể gây ra rắc rối to với nước đang là nguồn viện trợ lớn nhất cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Không ai biết trước được Liên Xô sẽ phản ứng thế nào.
Cho nên khi đặt vấn đề có âm mưu đảo chính do Liên Xô xúi giục, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ, về thực chất, đã cả gan đặt vận mệnh đất nước lên chiếu bạc. Hơn nữa, họ còn coi thường ý dân. Lẽ ra họ phải biết, mà có lẽ họ biết nhưng không thèm quan tâm, rằng mô hình xã hội trại lính kiểu Trung Quốc chưa bao giờ là hấp dẫn đối với nhân dân Việt Nam.
Tuyên bố xử lý nội bộ đối với nhóm xét lại chống Ðảng là việc không có chủ định trước. Nó là cái được nghĩ ra trong lúc bấn, để đối phó với dư luận. Không một nhà cầm quyền nào coi âm mưu đảo chính là chuyện vặt. Cách nói xử lý nội bộ cũng vô duyên. Tất cả đều tầm phào, như chuyện con nít. Nhưng hậu quả của nó lại không tầm phào chút nào.
Âm mưu dựng vụ không phải bắt đầu cùng với vụ bắt bớ. Nó được nghĩ đến từ lâu, nhưng nghĩ chưa được chín, cho nên làm được tới đâu hay tới đó. Chỉ nhìn vấn đề theo cách ấy ta mới hiểu vì sao tin đồn Nikita Khrusov gửi thư riêng cho Võ Nguyên Giáp được loan truyền từ mấy năm trước. Trong bối cảnh quốc tế hồi ấy một bức thư như thế, nếu nó có thật, phải được hiểu là sự khuyến khích, là lời cam kết ủng hộ tướng Giáp trong mọi hành động, không trừ cả việc lật đổ chính quyền(1).
Tôi đã nhận xét trong một đoạn trên rằng trong thời gian ấy những người bị coi là thuộc “nhóm xét lại hiện đại chống Ðảng” không hề hướng về tướng Giáp. Về đường lối đối ngoại thậm chí họ còn ủng hộ Lê Duẩn, tin tưởng ở lập trường trung dung mà ngoài miệng ông ta tuyên bố. Ðổ cho họ về phe tướng Giáp, cùng tướng Giáp mưu mô lật đổ là hết sức bậy, là nói lấy được.
Sau khi ra tù tôi được biết hồi ấy phần lớn dư luận cho rằng Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ đồng tình dựng ra vụ này. Nhưng cũng có người nói Lê Duẩn bị lừa, Lê Duẩn trông gà hóa cuốc, rằng ông ta bị đánh lạc hướng. Mà kẻ đánh lạc hướng Lê Duẩn, chủ trương vụ trấn áp không phải ai khác ngoài Lê Ðức Thọ.
Những người bênh vực Lê Duẩn nói rằng hồi ấy còn đang bận bịu với đại sự : ông ta đang rắp ranh trở thành lý thuyết gia mác-xít, nếu không đạt được cỡ quốc tế thì cũng cỡ khu vực. Luận điểm ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít – lê-nin-nít ra đời cùng một lúc với các chủ thuyết ba dòng thác cách mạng, làm chủ tập thể là trong giai đoạn này.
Có thể là như thế.
Ngành tuyên truyền hồi ấy bơm Lê Duẩn lên hết mức. Ðồn rằng trong một cuộc hội đàm Việt-Xô, Lê Duẩn đập bàn quát mắng Khrusov. Tôi hỏi Khamiđulin Rashit(2) thì Rashit cười ầm nói rằng làm gì có chuyện ấy, chính anh dịch trong cuộc hội đàm ấy mà.
Chưa hết. Người của Thọ nói Thọ có đủ bằng chứng rằng chính đại sứ Liên Xô Sherbakov đứng đàng sau cuộc đảo chính bất thành(3).
Tôi không tin Liên Xô có ý muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Ðại hội XX trước hết là công việc của những người cộng sản Liên Xô, chống sùng bái cá nhân Stalin cũng là công việc của Ðảng cộng sản Liên Xô, chứ không nhằm chống sự sùng bái lãnh tụ ở các nước khác. Phản ứng dây chuyền trong việc chống sùng bái cá nhân là phản ứng đương nhiên, được cổ vũ bởi sự kiện Ðại hội XX mà thôi. Trong những năm 60 Liên Xô có đủ chuyện trong nhà để mà đau đầu.
Việc tra hỏi ngầy ngà về âm mưu đảo chính kéo dài cả tháng. Tôi phát mệt với những câu hỏi của Huỳnh Ngự. Thế rồi lại thấy im.
Tưởng đến đó là xong, nhưng không phải. Ðùng một cái, Huỳnh Ngự quay lại với đề tài cũ. Giữa một buổi hỏi cung bình thường, y bỗng nổi cơn quát nạt ầm ĩ. Khi quát tháo, giọng y bốc cao, the thé như giọng một tên lại cái :
– Anh còn muốn ở Hỏa Lò nầy tới bao lâu nữa hử ? Tui hớt kiên nhẫn với anh rồi. Tui tưởng đâu anh đã hiểu ra tội lỗi của anh trước Ðảng, anh sẽ thành khẩn khai báo, hóa ra không phải. Anh vẫn chó đen giữ mực, vẫn ngoan cố… Không muốn về nữa hử ?
Chao ôi, quát thì quát, anh chàng thư lại này vẫn còn ảo tưởng có thể thí dỗ tôi bằng một cái bong bóng xà phòng. Y muốn tôi nghĩ y cáu với tôi chỉ vì trên nóng lòng nóng ruột muốn thả tôi lắm rồi, còn tôi thì quá ngu ngốc nên không hiểu, cứ trơ trơ như gỗ. Huỳnh Ngự có cái dễ thương của y. Trong những ngày lao đao nhất của tôi, thỉnh thoảng y lại cho tôi một trận cười.
– Tôi chỉ có thể nói sự thật và chỉ có sự thật mà thôi. Nếu tôi nhớ không lầm chính bác đã nhiều lần nói với tôi rằng Ðảng không đòi hỏi gì hơn ở tôi ngoài sự thật…
– Ðừng có chơi chữ với tui, hiểu chửa ? – Huỳnh Ngự vỗ mạnh xuống bàn. Cái vỗ của y quá yếu, nó gây ra một tiếng bẹt thảm hại – Tôi đi guốc trong bụng các anh đó. Ðừng có thấy Ðảng đối xử tử tế với anh mà tưởng bở, tưởng Ðảng buộc phải nương nhẹ còn kiêng nể bọn xét lại hiện đại quốc tế … Lầm to ! Lực lượng mác-xít – lênin-nít trên thế giới là vô địch, anh hiểu chưa ? Vô địch. Sự thật ?! Một khi anh đã không chịu thừa nhận những lỗi lầm của mình thì cái sự thật của anh chẳng bao giờ giống được sự thật của Ðảng. Mà chỉ có sự thật của Ðảng mới là sự thật, là chân lý. Cái sự thật của anh ấy à, nó không đáng giá một đồng xu keng…
Tôi nổi khùng :
– Nếu chỉ có sự thật của Ðảng mới được các anh coi là sự thật thì hà tất các anh phải hỏi tôi làm gì cho mất thời giờ. Các anh cứ việc viết cái sự thật ấy ra mà lu loa rằng tôi đã thú nhận. Mà có lẽ các anh đã lu loa với mọi người như thế rồi, bây giờ các anh muốn tôi tự tay viết, tự tay ký, để chìa ra làm bằng chứng, phải không ? Ðừng hòng !
Bên cạnh Huỳnh Ngự có thêm một người lạ mặt. Ðó là một người đứng tuổi, tầm thước, với cặp mắt thông minh trên gương mặt sáng sủa của một trí thức thành thị. Anh ta lẳng lặng theo dõi cuộc đấu khẩu, không tỏ thái độ rõ ràng.
– Thế thì để tui nói cho anh hay cái sự thật Ðảng biết về anh ! – Huỳnh Ngự gầm lên – Anh là một-tên-gián-điệp-của-bọn-xét-lại..
Huỳnh Ngự giúp tôi bình tĩnh trở lại. Tiếng gầm của con mèo làm tôi bật cười :
– Sao ? Anh nói cái gì, tôi không hiểu. Thật mà, tôi không hiểu khái niệm này. Ra còn có một tội danh như anh nói kia đấy… Thường trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia người ta nói tới tội làm gián điệp cho một quốc gia khác, chứ không ai nói gián điệp cho bọn này hay bọn kia…
– Anh muốn nói cho rõ hơn hả ? Ðược, tui sẽ nói rõ : anh là gián điệp-của-bọn-xét-lại-hiện-đại-Liên-Xô, anh làm gián điệp cho Liên Xô. Thế nào, anh có đủ can đảm nhận tội nớ không ? Hay cái nớ cũng không phải là sự thật của anh ? Cơ quan an ninh có đủ bằng chứng. Chính thằng Rasiđ đã thú nhận tất cả, tại phòng nầy nầy, cả thằng thầy nó nữa, thằng Sherbakov… Bọn xét lại Liên Xô đã phải xin lỗi vì thọc tay vào công việc nội bộ của Việt Nam. Các anh ngu dốt không biết, chớ cơ quan an ninh Việt Nam biết hớt mọi âm mưu của bọn xấu người nước ngoài. Lần này đến cả tên trùm lật đổ Mikoian cũng phải rợn tóc gáy. Chúng nó đều không ngờ…
Tôi muốn cười phá lên. Ghê chưa, bọn tiểu quỷ bây giờ nhảy bàn độc, nhổ bọt vào những đấng bậc mà trước mặt họ chúng khúm núm.
– Anh không tin ? Anh muốn biết bằng chứng ?
– Sao lại không tin ? – tôi cười vui vẻ – Tôi tin lắm chứ. Tôi tin rằng cơ quan an ninh phải có bằng chứng trong tay mới dám nói thế, còn bằng chứng ấy thế nào lại là chuyện khác. Trong những việc hệ trọng thế này đâu có thể xưng xưng nói ra cho sướng miệng mà được … Những lời buộc tội không dựa trên bằng cớ xác đáng có thể dẫn tới những hậu quả tai hại vì chúng liên quan tới một quốc gia trước nay vốn không phải thù địch, hơn nữa lại là một nước anh em viện trợ cho ta nhiều hơn bất cứ nước nào khác…
Huỳnh Ngự chồm tới, ghé sát vào mặt tôi. Lòng trắng mắt y đỏ ngầu, vằn lên những tia máu. Tức giận không làm cho mắt y đỏ cạch như thế, tôi nghĩ. Thôi chết, y bị nhiễm dịch đau mắt đỏ rồi. Nạn dịch ghê gớm hoành hành dữ dội từ mấy tháng trước, tôi cũng đã bị. Nhưng trận dịch đã tắt, không hiểu sao y còn mắc. Lẽ ra y không nên ở đây lý sự lằng nhằng với tôi mà đến khám ở Viện Mắt.
– Ðược, tui sẽ cho anh biết những bằng chứng ấy. Ngay bây chừ. Ngay lập tức. – y rít lên – Chỉ vì Ðảng nhân đạo khoan dung cho những đứa con lầm đường lạc lối nên tui mới còn kiên nhẫn làm việc với anh mà thôi …
– Có nghĩa là nếu Ðảng không khoan dung thì tôi đã bị bắn bỏ ? Tôi phải hiểu như thế chứ gì ?
– Nè đừng có chọc giận tui nghen. Sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Nhơn tiện tui cũng nói cho anh hay : không phải vô cớ Ðảng lịnh cho bắt anh ở giữa đường…
– Tôi không hiểu. Bắt giữa đường hay bắt tại nhà thì có gì khác nhau ? Bắt ở đâu cũng là bắt. Hẳn phải có lý do nào đó khiến Ðảng phải dùng cách bắt cóc…
– Anh lầm. – Huỳnh Ngự lửng lơ – Cái đó có nguyên nhân của nó, mà nguyên nhân ấy không nằm ngoài lòng tốt của Ðảng đối với gia đình anh. Anh cứ nghĩ kỹ khắc hiểu(4)…
– Tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn lượng bao dung và tình thương rộng lớn mà Ðảng dành cho gia đình chúng tôi – tôi cố ý chọn những từ ngữ khách sáo nhất để có thể mai mỉa nhiều nhất – Nhưng với tư cách người bị buộc tội tôi cũng rất muốn biết những bằng chứng kết tội mình. Biết đâu đấy, những bằng chứng ấy lại là ngụy tạo, do những tên bất lương cung cấp cho Ðảng nhằm mục đích tâng công thì sao ?
– Ðừng có láo ! – vừa dịu giọng được vài phút, Huỳnh Ngự lại sửng cồ – Anh bảo ai bất lương ? Anh bảo ai tâng công ?
– Những kẻ chạy theo thành tích bằng bất cứ giá nào ấy. Chẳng lẽ trong hàng ngũ cách mạng hết sạch những tên cơ hội rồi sao ?
Huỳnh Ngự ngớ ra một giây. Trong các tài liệu tuyên huấn Ðảng không ngớt chửi rủa bọn cơ hội. Tôi có chửi bọn cơ hội cũng là chửi phụ họa theo Ðảng mà thôi.
Người đàn ông ngẩng mặt lên nhìn tôi.
– Ðược, lúc ni tui không thèm đôi co với anh chuyện đó. Ðể đó sau. Chừ anh trả lời tui : ngày nớ giờ nớ (y giở sổ tay và đọc rõ ngày giờ với vẻ đắc ý) anh gặp thằng Rashit tại quán An Thái kế bên rạp Tháng Tám(5) để bàn chuyện chi ? Anh có chối rằng anh không gặp hắn không ?
– Việc gì phải chối ! – tôi nhún vai – Chẳng lẽ tôi lại không được phép gặp gỡ bạn bè là công dân một nước anh em sao ?
– Không được phép. Ðảng đã nghiêm cấm tiếp xúc với người nước ngoài.
– Rất tiếc, tôi chưa được biết Ðảng đã ra một sắc lệnh như thế.
– Anh xỏ lá hả ? – Huỳnh Ngự dậm chân quát – Ðừng tưởng tôi không hiểu cái lối xỏ lá của anh. Ðảng không bao giờ ra sắc lệnh. Nhưng Ðảng là Ðảng lãnh đạo, Ðảng quyết và Nhà nước thực hiện.
– Kể cả sắc lệnh của Nhà nước, xin lỗi, của Quốc hội, tôi cũng chưa được đọc.
– Không phải sắc lệnh, mà là chỉ thị. – Huỳnh Ngự nhăn nhó – Nó đã được phổ biến đến từng cơ quan…
– Tôi hiểu rồi. Chỉ thị này là chỉ thị mật, không được đăng báo, nếu đăng tôi đã biết. Không thấy cơ quan tôi nói gì về chuyện này. Mà cũng có thể khi chỉ thị được phổ biến thì tôi lại không có mặt ở tòa soạn. Chả là tôi thường xuyên đi công tác địa phương…
Tất nhiên, tôi biết cái chỉ thị mật sặc mùi bế quan tỏa cảng của Phạm Văn Ðồng. Cái chỉ thị nhà quê này làm cho những người trước kia học tại Liên Xô và các nước Ðông Âu phải chạy trốn các bạn học cũ khi vô tình chạm trán họ trên đường phố Hà Nội.
– Ta trở lại vấn đề : anh gặp Rashit bàn những chuyện chi ?
Cách của Huỳnh Ngự là thế – vừa mới quát nạt phút trước phút sau y đã chuyển ngay sang giọng bình thường để quay lại với câu hỏi bỏ dở.
– Bàn chuyện gì ? – tôi nhún vai – Chúng tôi chẳng bàn chuyện gì hết.
– Anh nói dối !
– Nếu cái gì tôi nói cũng bị coi là nói dối thì còn nói nữa làm gì, vô ích.
– Ðược, anh nói gì cũng được. Tui nghe.
– Tất nhiên, bên ly cà phê chúng tôi cũng nói chuyện tào lao, không thể không có chuyện đó. Nhưng đó là chuyện trời đất nắng mưa, không đáng kể ra đây…
– Tui cũng muốn nghe cả những chuyện nớ.
– Ðược thôi, đại loại tôi hỏi thăm Rashit về các bạn cũ – chả là chúng tôi có những người bạn chung…
– Hừm, chi nữa ?
– Chuyện mấy năm nay Moskva xây dựng thêm nhiều, Rashit nói, bây giờ tôi sang chắc không nhận ra nơi tôi ở cũ.
Huỳnh Ngự cười nửa miệng.
– Có vậy thôi ư ?
– Ðáng tiếc, hôm ấy chúng tôi lại chẳng nói chuyện gì khác…
Tôi biết hôm ấy có cá chìm theo. Khi tôi và Rashit ngồi trong quán cà phê, chúng lảng vảng bên ngoài. ê vị trí đó chúng không thể nghe được chúng tôi nói gì với nhau, giả định rằng chúng biết tiếng Nga. Ðể có thể nghe lén ở khoảng cách xa, bọn cá chìm phải được trang bị tốt. Nhưng đám phái khiển(6), được chọn từ những mối quan hệ huyết thống của gia đình Hoàn, chỉ thạo buôn lậu chứ ra nước ngoài chẳng những đã không thu thập được tin tức tình báo cần thiết, mà còn không mua sắm được phương tiện hiện đại cần cho hoạt động nghiệp vụ. Ðiều này giải thích vì sao về sau này Trần Quốc Hoàn mất hai năm không bàn giao nổi công tác tình báo cho bộ trưởng mới Phạm Hùng. Lịch sử còn ghi nhận thêm hai sự kiện đáng xấu hổ cho Hoàn : đó là khi quân Polpot vượt biên giới Tây Nam đánh vào Tây Ninh, khi quân Trung Quốc tràn qua biên giới phía Bắc. Trong cả hai biến cố lớn ngành an ninh đã không báo trước được cho Trung ương lấy một ngày.
Tôi lấy làm tiếc đã không kể được cho Huỳnh Ngự nghe câu chuyện giữa tôi và Rashit. Y không đủ trí tuệ để hiểu được sự thật. Tính đinh ninh, cố chấp làm y mù lòa.
Câu chuyện hôm ấy đáng được kể lại ở đây, vì nó liên quan tới cái gọi là tình quốc tế vô sản. Rashit hỏi ý kiến tôi về một số yêu cầu viện trợ đang làm anh băn khoăn. Chẳng hạn, phía Việt Nam đưa ra con số tổn thất về phương tiện vận tải quá lớn. Theo thỏa thuận, Liên Xô phải đảm bảo cho Việt Nam một số đầu xe hoạt động trên toàn chiến trường Nam Bắc, Mỹ bắn hỏng bao nhiêu phải lập tức bù lại bấy nhiêu cho đủ. Cầu cũng vậy, Mỹ đánh gục cầu nào là phải có ngay sắt thép lắp lại ngay lập tức để bảo đảm vận chuyển bộ đội và súng đạn cho chiến trường. Theo tinh thần này Việt Nam yêu cầu Liên Xô cung cấp một lượng thép cầu rất lớn, tính theo loại có kết cấu trung bình thì đủ để xây dựng một cây cầu có chiều dài tổng cộng … 80km (!)
Rashit nói :
– Nhiều quá ! Của cải Liên Xô đâu phải vô tận. Cũng phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được. Tôi không biết sẽ phải giải thích với chính phủ tôi ra sao đây, mà đó là công việc tôi phải làm…
Tôi hiểu : con số không khiêm tốn. Nhưng trong tôi tư tưởng bản vị thắng lẽ công bằng. Tôi không muốn Liên Xô giảm số sắt thép viện trợ.
– Nếu chỉ nói riêng về cầu không thì quả có quá đáng. – tôi trả lời – Trong con số này chắc người ta đã tính gộp cả những nhu cầu khác thuộc cầu đường, chẳng hạn làm thanh chắn cho các đường ngầm qua suối, làm pông-tông(7). Việt Nam, cậu biết đấy, có quá nhiều sông suối…
Rashit vốn nhiệt tình với Việt Nam. Anh gật gù rồi nói có thể tôi có lý.
Câu chuyện hôm đó là thế. Nhưng có nói ra với Huỳnh Ngự cũng vô ích. Trong khối óc bã đậu của y những người xô-viết có mặt tại Hà Nội đều là những tên xét lại hiện đại, những tên địch, và y đang vênh vang tự hào về chiến thắng của quan thầy y trong cuộc chiến tưởng tượng.
ê đây kể cũng nên mở ngoặc đơn để nói về một sự bất công. Dư luận thế giới nói nhiều về những mưu toan bá quyền của Liên Xô. Người ta dẫn ra các thí dụ về việc Liên Xô
hy sinh một số nước láng giềng như Tiệp Khắc, Ba Lan trong thế chiến thứ hai, việc can thiệp vào nội bộ các nước ở Ðông Âu để đàn áp những cuộc nổi dậy của dân chúng tại các nước đó, tham gia cuộc chiến dai dẳng tại Afganistan(8), can thiệp vào cuộc chiến tại Việt Nam, Angola…
Những việc đó có thật. Nhưng bên cạnh và bên trong những toan tính vị kỷ của các nhà lãnh đạo xô-viết còn một sự thật khác bị cố tình không nhắc tới, nhất là sau khi Liên Xô tan rã. Sự thật đó là : trong những người xô-viết bình thường có thật một niềm tin ở tinh thần quốc tế vô sản. Họ tự hào thực hiện nghĩa vụ người cộng sản đối với phong trào giải phóng dân tộc, với nhân loại. Vì một chủ nghĩa bá quyền xô-viết mà phủ nhận công lao của các chiến sĩ Hồng quân đã hy sinh mạng sống để tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít là vô ơn.
Cũng như vậy, không thể vì những mưu toan của một Lê Duẩn, một Lê Ðức Thọ mà xóa sạch những hy sinh của các chiến sĩ Việt Nam trong cuộc chiến chống bọn diệt chủng Polpot. Trong chuyện này quốc vương Sihanuk còn công bằng hơn những người căm thù bất cứ cái gì là cộng sản. Mặc dầu không bằng lòng chính quyền Hà Nội trong nhiều vấn đề ông vẫn ghi nhận sự thật là : nếu không có người Việt Nam thì thảm họa diệt chủng ở Camphuchia còn lớn hơn nhiều.
Những vấn đề lịch sử thường rất phức tạp, không thể suy nghĩ theo cách đơn giản : có không có, phải không phải.
Mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa hiện tồn, sự xuất hiện cũng như sự tan rã của nó, để lại cho nhân loại nhiều điều suy ngẫm. Ước mơ về một xã hội công bằng trong tình thương yêu không mất đi cùng với sự mất đi của một mô hình. Chủ nghĩa cộng sản, với tư cách một ước mơ, sẽ còn tồn tại. Loại ra ngoài những hành động tàn bạo xảy ra trong điều kiện những thành quả cách mạng bị tước đoạt, xã hội mang tên cộng sản với nghĩa một xã hội tự do và công bằng, không còn cảnh người bóc lột người, bốn biển là anh em, chẳng lẽ không phải và không được phép là một xã hội mong muốn ?
Nhưng thôi, ta hãy quay lại với cuộc khẩu chiến của tôi trong Hỏa Lò.
Huỳnh Ngự đi đi lại lại một lát rồi đột ngột dừng bên cạnh tôi, ngọt nhạt :
– Tui hiểu, anh muốn tôi phải chìa bằng chứng ra rồi mới chịu nói hớt chớ chi ? Nè, cái đó, tui báo trước cho anh biết, chỉ có hại cho anh chớ không có lợi đâu. Anh không tin hử ? Anh coi thường đối thủ của mình hơi nhiều đó. Bây giờ đã là năm 1967 rồi, đâu có còn là năm 1945. Ngành an ninh của ta đã lớn mạnh. Anh thấy đó, cho dù anh có được chúng nó huấn luyện kỹ tới mấy, kết cục anh vẫn thua tụi tui như thường.
Thì ra trong cái đầu cằn cỗi của y Trường Ðại học Ðiện ảnh Moskva một lần nữa lại nổi lên như một Trung tâm huấn luyện tình báo. Chẳng thế mà y cứ hỏi đi hỏi lại về chương trình học ở trường này, bắt tôi nói kỹ, bắt tôi viết, về từng môn học, về từng giáo sư. Tôi hiểu : bằng những câu hỏi triền miên Huỳnh Ngự muốn tôi bị rối trí lộ ra những cái không nhất quán để y thọc sâu, khai thác tiếp.
Tự nhiên tôi thấy mệt. Có lẽ do áp huyết tụt. Tôi mắc chứng áp huyết thấp, nhưng chẳng bao giờ tôi tìm cách chữa nó. Tôi còn trẻ, bệnh tật chưa làm phiền tôi bao nhiêu. Cái mệt mỏi bất thần ập đến làm tôi không muốn kéo dài cuộc đấu khẩu. Tôi chán ngán cúi xuống. Im lặng tràn ngập căn phòng.
Không nhìn lên, tôi nghe Huỳnh Ngự cao giọng :
– Bây chừ anh còn muốn cãi nữa không ? Tui sẵn sàng nghe anh cãi. Còn cái sự thật nào nữa thì đưa ra đây coi thử ? Tui chẳng cần phải dối anh làm chi, tui nói có bằng chứng là tui có bằng chứng. Ðủ cả : muốn hình chụp có hình chụp, muốn băng ghi âm có băng ghi âm… Nào, chừ anh muốn coi hay muốn nghe ? Hay muốn cả hai.
Tôi chẳng muốn gì hết. Tôi chỉ muốn có một phép mầu nào đó giúp tôi biến khỏi nơi này, để khỏi phải thêm những lời xuẩn ngốc của một tên mắc chứng chuyên chính cuồng.
Huỳnh Ngự tưởng đã chế ngự được tôi. Y vênh vang như một kỵ sĩ cuối cùng đã thuần phục được con ngựa bất kham.
– Có vậy chớ ! – y thở phào – Chẳng lẽ anh cứ ngoan cố mãi.
Y tưởng tôi gục rồi, tôi sẽ nhận cái tội y muốn tôi nhận.
Ai cũng biết rằng đối với nhà cầm quyền ngoài cái tội tuyên truyền chống chế độ mơ hồ, chỉ còn có tội làm gián điệp cho nước ngoài là tiện lợi hơn cả. Chẳng cần phải vất vả chứng minh, cứ có lời nhận tội là đủ, là đã có thể mang tội nhân ra xử rồi.
Tôi không được trực tiếp nghe những thông báo nội bộ của Lê Ðức Thọ. Văn Cao dự họp Ðảng ở Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật, được nghe phổ biến về những thông báo trên. Anh kể lại cho tôi không những nội dung mà cả cách dùng từ ngữ trong những thông báo nọ. Chúng là sự sáng tạo ở cấp độ cao lối nói mơ hồ, tạo ra những khoảng không bao la cho sự hiểu ngầm.
Trong thông báo số 1, Lê Ðức Thọ nói rằng Ðảng (chứ không phải Nhà nước) đã quyết định bắt giam một số tên cầm đầu của một nhóm phản bội. Bản thông báo kêu gọi những ai có liên hệ với nhóm này đến báo cáo với Ban tổ chức Trung ương Ðảng (hãy mau mau lập công, hỡi các đồng chí !). Thông báo số 2 có vẻ cụ thể hơn. Lê Ðức Thọ cho trích một số lời thú tội của những người bị bắt, nhận có liên hệ với người nước ngoài, lạy lục van xin Ðảng khoan thứ. Sự bịa đặt quá lố, làm mẹ tôi phải kêu lên :”Bọn mất dạy, bố của các con không bao giờ nói những lời hèn hạ như thế ! Các con chớ tin lời chúng nó”.
Mặc kệ Huỳnh Ngự nỉ non, tôi ngồi im. Cơn buồn ngủ ập đến làm tôi ngáp chảy nước mắt.
Huỳnh Ngự lại hiểu sự im lặng của tôi theo nghĩa khác.
– Chừ anh hiểu cả rồi chớ ? Hiểu thiệt chớ ?
– Vâng, tôi đã hiểu… – tôi ngán ngẩm đáp và nghe thấy y cười ré trên đầu tôi.
Thằng đần, tôi rủa thầm. Từ khi vào tù tôi thích nói những câu hai nghĩa. Tôi nói hiểu là theo cách của tôi, không phải theo cách của y.
Huỳnh Ngự tự thưởng cho mình một điếu Ðiện Biên bao bạc.
– Tui biết, tui biết chớ, chẳng chóng thì chầy anh cũng sẽ hiểu ra. Ngoan cố là vô ích, bởi vì Ðảng biết tất, biết từng hành động sai trái của anh, bởi vì tai mắt của Ðảng ở khắp mọi nơi…
Biết rồi, khổ lắm, nói mãi ! Ðảng là Chúa Trời “ở khắp mọi nơi thông biết mọi sự”. Ðảng là Phật nghìn tai nghìn mắt. Ðảng quyền lực vô biên !
– Ðảng còn hỏi anh là để cho anh có cơ hội phản tỉnh, để cho anh do đào sâu suy nghĩ mà hiểu thấu lỗi lầm, rồi tự mình trình bày với Ðảng…Thành khẩn khai báo là thước đo lòng trung thành với Ðảng… Ðánh kẻ chạy đi chứ ai đánh kẻ chạy lại…
Tội nghiệp cho Huỳnh Ngự. Y quá vội sung sướng.
– Mừng cho anh hôm ni đã vượt qua được bản thân để thú nhận tội lỗi của mình với Ðảng. – y độ lượng mỉm cười, đặt tay lên vai tôi – Xét cho cùng, cũng chẳng con đường nào khác. Vả lại, anh theo Ðảng từng ấy năm, được Ðảng giáo dục dạy dỗ, chẳng lý nào anh lại không tiếp thu được điều chi. Trong thời gian tới tui hi vọng anh sẽ tiếp tục khai báo với Ðảng những chi mà bọn xấu người nước ngoài mưu toan gây hại cho nước ta…
Tôi ghê tởm cảm thấy trên vai mình chất nhày trên da loài bò sát. Ðể Huỳnh Ngự không nhận thấy mặt tôi nhăn nhó, tôi lí nhí đáp lại một câu không rõ.
– Bác Ngự ạ, cảm ơn bác chí tình khuyên răn, nhưng…
Huỳnh Ngự chững lại :
– Còn nhưng cái chi ?
– Thế này, tôi sẵn sàng nhận tội trước Ðảng… – tôi cố ý nói chậm, từng tiếng một, bằng giọng thật điềm đạm – bởi vì, thú thực, cái mà Ðảng coi là tội thì trong quan niệm của tôi …, ồ không, xin bác đừng ngắt lời, xin hãy nghe tôi đã…
Huỳnh Ngự nuốt nước bọt. Y nhìn xoáy vào mắt tôi :
– Nói đi, đừng có vòng vo Tam quốc.
– Tôi sẵn sàng nhận tội làm tình báo cho Liên Xô…
– Tốt ! – Huỳnh Ngự phán.
-… bởi vì trong khái niệm của Ðảng tôi đã dại dột mắc vào tội đó…
– Tốt !
– Tôi nhận còn vì một lẽ nữa : tôi coi sự được đứng trong hàng ngũ các chiến sĩ tình báo xô-viết là một vinh dự.
– Hừm !
– Vâng, đúng thế, tôi coi là vinh dự. Với tôi, không có cách nhìn khác. Những chiến sĩ tình báo xô-viết đã lập chiến công to lớn trong cuộc chiến đấu của loài người chống họa phát-xít. Họ xả thân vì quyền sống của nhân loại, họ ngã xuống như những anh hùng…
– Hừm !
– Nhưng nếu như tôi không nhận mình là người trong hàng ngũ những người anh hùng ấy, mặc dầu lòng tốt và sự khó nhọc của bác, thì xin bác đừng giận : ở đây không phải chuyện chạy tội hoặc giả tôi không dũng cảm nhận việc mình làm… Nguyên nhân ở đây khác : tôi là một con gà lương thiện không thích được cắm lông công.
Tôi đứng lên, tỏ ý cuộc nói chuyện đến đấy đã chấm dứt.
Huỳnh Ngự trợn mắt, đờ đẫn nhìn tôi. Y không chờ đợi một phản ứng đầy miệt thị như thế. Người của bộ máy chuyên chính vô sản quen đè bẹp mọi kẻ thù bàng hoàng trước một tên tù non choẹt nhưng không thể bẻ gãy.
Người đàn ông mỉm cười, hoặc tôi có cảm tưởng anh ta mỉm cười.
Huỳnh Ngự run bắn lên. Trong cơn tức giận ập tới không tìm được lời đối đáp. Y còn tức giận hơn nữa vì trong phút ấy y không chỉ mất mặt với mình tôi – sự mất mặt lần này lại diễn ra trước thuộc cấp.
– Ðưa hắn vô trở lại xà lim ! – y hét lên, trở lại nguyên hình – Hắn muốn chết rục xương trong Hỏa Lò ni thì cho hắn toại nguyện ! Không có nương nhẹ chi với hắn hớt ! Từ mai các anh cắt hớt cho tôi ! Cắt ! Cắt hớt !
Vơ vội vã những tài liệu trên bàn, những ngón tay nhợt nhạt run lên, y nhét tất cả vào cặp, đùng đùng bỏ ra ngoài.
Còn lại người đàn ông và tôi. Giữ nguyên nụ cười khó hiểu trên môi, anh ta lững thững đưa tôi đi qua sân Hỏa Lò vắng vẻ tới cái tiền phòng, từ đó tôi trút bỏ áo quần đời thường để bước vào cuộc sống tù ngục.
Sau buổi làm việc không vui vẻ ấy cái bánh mì bộ tuyệt trần cũng vĩnh viễn ra đi. Cái chữ “Cắt hớt ! Cắt hớt !” của Huỳnh Ngự té ra có nghĩa là như vậy.
Thành không oán tôi về sự ra đi đột ngột của cái bánh mì đáng yêu. Anh an ủi tôi :
– Cậu lại gây gổ với họ rồi ! Thời tiết Hỏa Lò thay đổi như thế này là chuyện thường. Ðừng ngạc nhiên. Mà cũng đừng lo lắng.
(1) Trong hồi ký của mình ông Khrusov không hề nói tới một mối quan hệ riêng nào với ông Võ Nguyên Giáp, ông cũng chẳng đả động gì đến một bức thư nào gửi cho đại tướng Võ Nguyên Giáp. Võ Nguyên Giáp, trong những hồi ký lẻ tẻ của ông, cũng không thấy nói tới một bức thư như thế. Trong chuyện bịa ra bức thư này, chủ yếu cho nó chạy trong luồng dư luận ngồi lê đôi mách, ác ý của Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ là rõ ràng.
(2) Bí thư thứ hai đại sứ quán Liên Xô tại Việt Nam vào những năm 60. Sau, Khamiđulin Rashit giữ chức đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại Phnôm Pênh, rồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô, rồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Hà Nội.
(3) Mãi tới Hội nghị Trung ương lần thứ 20, khóa III (tháng 1.1972) Trung ương Ðảng mới có kết luận về “nhóm xét lại hiện đại” như sau : “Ðây là một vụ án rất nghiêm trọng, có mục đích, có biện pháp tiến hành, nhằm lật đổ cơ quan lãnh đạo của Ðảng, đồng thời họ tổ chức hoạt động tình báo cho nước ngoài và được nước ngoài chỉ đạo chặt chẽ…” (Trích Nghị quyết số 219A ra ngày 27.1.1972. Tôi gạch dưới.V.T.H.) Như vậy là hơn bốn năm sau khi bắt người Lê Ðức Thọ mới lợi dụng Trung ương tuyên bố tội trạng (!), mà là tội trạng bịa đặt. Cũng không nói tới đảo chính nữa, chỉ nói tới lật đổ ban lãnh đạo Ðảng mà thôi.
(4) Cho đến nay tôi vẫn còn bán tín bán nghi : rất có thể hồi ấy Lê Ðức Thọ không chủ trương bắt tôi thật, mà chỉ định bắt dọa thôi. Thế mới biết Thọ tùy tiện đến mức nào trong việc đối xử với công dân.
(5) Rạp Majestic cũ.
(6) Tình báo viên được cử ra nước ngoài dưới những vỏ bọc khác nhau để thực hiện nhiệm vụ.
(7) Phao ghép làm cầu qua sông, suối.
(8) Trong những năm 1979-1989 Liên Xô đã mang quân chiếm đóng Afganistan (con số được công bố là 118.000 lính) “theo yêu cầu của nước bạn” để ủng hộ chính quyền thân Liên Xô, với những nhân vật lãnh đạo được lần lượt dựng nên và truất bỏ : Noor Taraki, Hafizullah Amin, Babrak Karman, Muhammad Najibullah.
hết: Chương 21, xem tiếp: Chương 22
|