ĐÒ DỌC (Chương 4)
Quá nhảy lên cỏ một cái thật lẹ, rồi day mặt ra đường sừng sộ hét:
– Người ta đã nhảy lên lề rồi mà còn muốn cán người ta à?
Người tài xế như nghe lời phản đối ấy, cúi đầu chào bốn chị em một cái, vừa chào vừa mỉm cười như nói:
– Biết rồi, các cô là gái Sài Gòn mà! Bảnh lắm mà, lỡ một chút cũng làm dữ.
Thỉnh thoảng chiều chiều bốn chị em lại dắt nhau đi trên đường nhựa, khi thì xuôi về hướng Thủ-Đức, lúc lại ngược lên hướng Biên-Hoà.
Trên đường xe qua lại ai cũng lấy làm kỳ, sao ở xó quê lại có gái xem ra người tỉnh thành. Họ mặc bà ba thì tức là người trong xóm chớ nào phải người Thủ-Đức lên.
Họ đi dạo mát nhưng riêng Hoa, cô lại có mục đích thứ nhì nữa là gặp Quờn con của hương cả Quan.
Quờn là một công-tử nhà quê, hạng người mẫu.
Vì ở gần thành phố quá, mặc dầu thành-phố ấy chỉ là một quận-lỵ, công-tử Quờn lại mang thêm một cố tật dĩ-nhiên là muốn thành người thành thị.
Thành không được, Quờn lai căn một cách dị-hợm với những bộ bi-da-ma màu hường, màu xanh lá cây mà cậu mặc mãi từ sáng đến tối, từ trong buồng ra đến quận lỵ.
Nếu anh Xòn nhìn các cô Thái Huyên trang như một con trùng si-tình một ngôi sao trên trời thì công-tử Quờn có thái-độ của một con gà lôi trống tò-vè mấy con công mái trong sân nhà.
Từ ngày xóm tiếp nhận nữ-khách mới thì cậu xức nước hoa chế-tạo ở chợ lớn và nhét mù-xoa nhỏ có thêu chéo xanh xanh đỏ đỏ trên miệng túi bi-da-ma.
Cậu diện thêm một cây đàn băng-cầm, cứ chiều chiều xách nó ra đường, không khảy vì chưa biết chơi nhưng cắt nghĩa lu bù về nhạc cụ ấy với đám trẻ con bu quanh cậu.
Lần đầu chạm mặt, cô Hoa rắn mắt của chúng ta nghĩ ngay đến việc biến công-tử thành nạn nhơn của tánh nghịch-ngợm của cô.
Anh Xòn là người cô mến nên cô đùa anh ta, cô cũng chỉ đùa hiền hiền chơi vậy thôi. Đến như gã bi-da-ma hường này thì cô quyết không tha.
Trong cái lần đầu ấy, thấy Quờn liếc lén mấy chị em, Hoa tấn công ngay:
– Chào cậu hai, đi dạo mát với mấy chị em tôi chơi, cậu.
Họ thấy nhau lâu rồi, nhưng mới trao lời đây là lần thứ nhứt.
Được nói chuyện với các cô có lẽ là cái mộng to thứ nhì trong đời cậu Quờn (Cái mộng to thứ nhứt là được yêu một trong bốn cô) nhưng mộng ấy không bao giờ Quờn dám biến nó thành sự thật. Nay cô Hoa nổ súng thình-lình, cậu chưa kịp chuẩn-bị gì cả thì biết có thái-độ và lời-lẽ nào. Vả lại cậu xửng-vửng vì lời mời-mọc nầy mà cậu nghe ngược-ngạo quá.
Quờn đứng chết sững và ngậm câm, còn hai cô Hoa và Quá thì rũ ra cười, cô Quá cười no rồi nói:
– Hay là cậu mặc áo hường rồi chê áo đen của chị em tôi mà không muốn đi chăng?
Hương véo em rồi kéo cả bọn đi thẳng, qua khỏi đó một đỗi, người chị cả nói:
– Mình tới xứ lạ không nên mích lòng người địa phương.
– Đáo xứ tùy dân, nếu có ba ở đây ba sẽ đọc câu chữ nho đó.
– Không nên mích lòng bất kỳ ai, huống chi người ta là QUAN QUỜN chớ phải dân dã chi đâu. Quá lại tiếp lời răn của người chị cả…nhưng lại chơi chữ ở đoạn sau.
Hồng nói:
– Làng Linh-Chiểu nầy ngày xưa chắc có một vị hương chức hay một ông cai tổng gì đó tên là Quyền.
– Sao chị biết?
– Nếu không, ông cả Quan ổng đâu có kiêng cữ chữ Quyền mà đặt tên cậu ấy trại ra là Quờn.
Bốn chị em đã đi gần tới nhà ông cả Quan.
Mọi khi sau ngày sượng trân lần đầu, Quờn bỏ chạy khi thoáng thấy mấy chị em đàng xa. Lần nầy cậu ta bận gỡ chiếc gai dính vào dép Nhựt-Bổn mới mua nên không thấy bọn Thái Huyên trang đến.
Chừng nghe động, day lại đã trễ quá rồi không cút kịp nữa.
Quờn mặc bi-da-ma bằng vải ú màu xanh lá cây, đầu chải brillantine chợ lớn sực nức mùi chanh, cổ đeo dây chuyền vàng khè, tay nặng trĩu nào lắc vàng, cà rá vàng và đồng hồ cũng bằng vàng.
Anh công tử vườn chào bốn cô theo lối kẻ dốt, nghĩa là hất hàm lên như muốn hỏi:
– Ê, đi đâu đó?
Cô Hoa nói:
– Lạ quá, cậu hai! Cũng thời một nước một non mà chúng tôi thì cúi đầu xuống để chào, còn cậu thì lại hất đầu lên. Không biết lối chào nào trúng cách đó cậu?
Quờn không thấy là bị hỏi vặn, tự nhiên đáp:
– Dân chào quan, nữ chào nam thì cúi đầu là phải, còn ngoài ra…
– Vậy chị em tôi phải cúi đầu đến hai lần vì cậu vừa là nam vừa là quan, hay con quan cũng thế.
– Tía tôi đã từ chức rồi.
– Từ thì từ, cái gốc quan vẫn còn chớ.
Cậu Quớn sung sướng quá khi nghe cô gái còn nhận mình là con …quan, mặc dầu cha cậu chỉ là quan trong xóm thôi.
– Độ rày cậu làm gì, cậu hai? Hoa lại hỏi.
– Cũng hổng cần làm gì. À, tôi có tự túc một bầy gà Huê Kỳ, coi bộ tương lai quá khứ.
Cả bốn chị em đều ngạc nhiên, không hiểu cậu ta nói cái gì mà lại tự túc gà và có tương lai quá khứ?
– Tự túc là gì cậu? Hương hỏi thật tình.
– Tự túc là nuôi chớ là gì.
– Vậy hả, còn tương lai quá khứ?
– Tương lai là tương lai còn quá khứ là quá sá, tiếng mới mà. Tôi nghe họ nói hay quá nên tôi bắt chước dùng theo. Đời bây giờ họ bày ra nhiều tiếng mới hay lắm. Thí dụ phạm tội họ nói phạm vi, thù vặt họ nói cá-nhân, nghe hay quá khứ.
Hoa và Quá núp sau lưng hai chị mà cười đến chảy nước mắt. Cô Quá, mặt mày còn đỏ rần bước ra khỏi chỗ núp nói:
– Hôm nay cậu mặc đồ xanh, trông đẹp trai quá khứ nhưng cậu lại phạm vi về đôi dép. Dép phải quai đỏ nó mới ăn với màu xanh nầy. Tôi tình thiệt nói ngay, cậu đừng có cá nhân tôi nhé.
– Tôi người quân tử mà, ai lại cá nhân cô.
Cả bọn Thái-Huyên trang thấy trò đùa đã kéo dài quá rồi nên chào cậu công tử để đi nữa.
– Hôm nào rảnh mời cậu lại nhà chơi, nếu cậu không cá nhân thì cậu sẽ lại.
*
* *
Con gái xóm thuốc làng Linh Chiểu là những chị phụ nữ an phận. Họ không dám muốn được như những cô Thái-Hyên trang nên không cô nào đua đòi bắt chước ăn mặc từ ngày các cô lên đây.
Họ cũng chẳng lân-la để học ăn học nói, học những điệu bộ thị thành. Đó là những người bằng lòng số mạng và không mơ một cuộc đời khác hơn là cuộc đời họ thấy từ lúc lọt lòng.
Phụ nữ ở những làng khô cháy, nghèo khổ vẫn thế đấy. Họ cằn cỗi cả ngoài mặt lẫn trong lòng và sống co lại trong gia đình, ít dám giao-thiệp.
Thành thử bốn cô Thái-Huyên trang không thể có bạn gái được. Các cô tìm đến họ, họ vẫn vui vẻ đón tiếp các cô nhưng rồi thôi, cảm tình của họ đối với các cô không dài hơn cuộc gặp gỡ ngoài mương thuốc, trên bờ tre.
Cảnh đồng khô cỏ cháy nầy lại bị tiết cuối mùa nực cộng với lòng người hàng xóm thờ ơ làm cho nó trở nên buồn một cách tuyệt-vọng.
Trò vui độc nhứt của các cô là xem lũ kên-kên vào lúc chạng vạng.
Thỉnh thoảng trong làng có một con trâu chết và chủ nó len lén vứt xác nó ra đồng. Kên-kên đáp xuống xơi thịt thúi ấy rồi say mồi, không buồn bay lên nữa.
Vài anh dân làng rắn mặt đợi quá chiều, lấy nùi giẻ cột vào chơn của mấy chú ăn thây ma nầy, rồi tẩm dầu hôi mấy nùi giẻ ấy. Xong đâu đấy họ đánh diêm lên mà đốt giẻ.
Kên-kên bị lửa đốt kinh hoảng bay cuồng loạn, mang theo mỗi chú một cục lửa đỏ lòm trong bầu trời đen của đêm vừa xuống.
*
* *
Dân làng Linh Chiểu cứ lặng-lẽ làm nghề thuốc, xe hơi cứ lướt qua trên đường Thiên lý mà không bao giờ ghé lại và bốn cô gái Thái-Huyên trang cứ lặng lẽ đợi chờ một việc gì nó không bao giờ xảy ra cả.
Hôm ấy là chúa nhựt thứ ba từ ngày dọn nhà lên đây.
Cũng như hai chúa nhựt trước, Hương, Hồng, Hoa, Quá nhìn mãi đám xe đạp, xe gắn máy, xe xi-cut-tơ của những thanh niên thiếu nữ trốn thị thành đi tìm mát , lũ lượt nối đuôi nhau qua trước nhà. Họ như mang theo hương vị Sài Gòn mà các cô vẫn nhớ chưa nguôi. Tuổi trẻ lại gợi nhớ tình yêu mà các cô thấy mình đang thiếu thốn. Nhìn xe, các cô bồn chồn mong ngóng một người, một người có thể đưa đến vài tia nắng ấm trong cảnh lạnh lẽo này, người đó là Bằng.
Sao đã ba tuần rồi mà không thấy Bằng lên chơi? Thì ra, người ta quên kẻ đi vắng mau lẹ quá. Nếu kẻ ấy qua thế giới bên kia, không mong trở lại nữa thì người ta sẽ quên họ chóng đến bực nào?
Bốn cô tủi thân quá, nghe như mình bị cả thế-gian bỏ quên. Thế-gian cứ vui chơi, thương yêu, không biết rằng nơi một xó quê kia có những người còn trẻ, còn ham vui đang vào tuổi thương yêu bỗng vì gia-thế phải lùi về ở ẩn như một công-chức mãn kỳ phục-vụ và không biết bao giờ ra khỏi chốn nầy.
Bằng đi mô-bi-let nên hễ mỗi lần nghe tiếng động cơ nhỏ nào nổ là bốn cô ngóng cổ lên mà dòm ra đường.
Họ mừng hụt đến sáu lần và có một bận họ suýt chạy ra cửa ngõ vì người cưỡi mô-bi-let ấy sao mà giống Bằng quá.
– Hay là anh Bằng tìm nhà không được, rồi chạy luôn lên Biên Hoà hoặc lên Lồ Ồ, Châu Thới. Cô Quá đặt nghi vấn như vậy
– Ừ, Hoa họa theo, có thể lắm.
– Không đâu, cái anh đó thì xó nào ảnh tìm cũng ra hết, Hương cãi thế vì cô bình tĩnh được hơn ba em của cô. Chắc ảnh bận việc gì.
– Anh đó mà bận việc gì! Ảnh bận với các cô em của ảnh. Nhưng nếu thế ảnh lại phải đưa họ đi ra đồng ngày chúa nhựt, mà đi đâu cho hơn lên đây?
Bỗng Hoa kêu rú lên rồi nhảy xuống đất một cái đụi, bỏ chơn không mà chạy ra sân.
Họ mải bàn cãi mà quên để ý lắng nghe tiếng xe, quên dòm khách ra đồng quê ngày chúa nhựt nên Bằng lên tới cửa mà chỉ có một cô thấy thôi.
Ba cô kia cũng chạy theo cô Hoa, kêu la như em nhỏ.
– Anh Bằng lên ê, anh Bằng lên!
– Hoan hô anh Bằng!
– Đả đảo anh Bằng lên trễ!
Bằng đẩy xe vào sân và ứng khẩu hai câu thơ lục bát:
Nghìn trùng Thiên lý bên đường
Thái Huyên trang ấy dễ thương quá trời
– Hay!
– Để em chép.
– Đọc tiếp đi anh.
– Muốn có thơ ra thì phải có rượu vào. Có nước dừa không?
– Nhà không có trồng dừa nhưng chị Hồng có mua trữ sẵn buổi đi chợ hôm qua.
– Vậy có nước dừa vào, thơ mới ra tiếp được.
Quá giựt xe người anh rồi thót lên cho chạy vòng vòng trong sân , len-lỏi qua mấy cây bưởi, mấy cây vú sữa mới đặt xuống đất vài tuần.
Con trích đang đi thơ thẩn thấy khách lạ, làm thinh chạy bay tới mổ vào ống quyển khách. Bằng không để ý dưới chơn, bị mổ đau la oái oái rồi nhảy tréo một bên. Ba chị em cười ngất. Bằng phản đối:
– Sao không để bảng “Attention trích méchant“ ngoài cửa.
Ba chị em lại cười lấy làm ngộ nghĩnh vì ý nghĩ của họ hôm trước, nay được Bằng lập lại y hệt.
Bằng vào nhà chào dì dượng rồi thoát ra ngoài ngay để xem cảnh nhà. Cả bốn chị em đều theo chàng như một đoàn hộ tống đắc lực.
Thấy cảnh khô cháy, không có lấy một bóng cây nhỏ cho con mắt nghỉ ngơi, người con trai đi tìm mát nầy hơi thất vọng than rằng:
– Còn lâu lắm ở đây mới được. Hiện giờ chỉ có đá banh hoặc rượt bắt nhau mới hợp. À, còn trái cây đâu các cô?
– Khách chỉ có một người thì trái cây mua ở chợ ăn cũng đủ no nê rồi, cần gì trái vườn.
Hoa biết Bằng hỏi mỉa mấy chị em, ám chỉ lời hứa đãi trái cây của các cô hôm tháng trước nên đáp thế. Lối đáp của cô lại sẽ giúp cô biết được vì sao Bằng chỉ đi chơi có một mình thôi, trái với thói quen của anh ta là hay tùng-tam tụ-ngũ.
Quả thế, Bằng cắt nghĩa:
– Cũng may là hai thằng ấy gãy giò hết, không thôi phải trơ mặt ra mà ngó bọn đó. Chúng tôi đi ba mạng, qua khỏi cầu Băng Ky xuống dốc, lại đường quanh mà thằng Kỳ với lại thằng Hưng nó cho chạy thả máy. Chúng nó văng vô một cái trại cưa ở giữa dốc, chắc phải hai tháng nhà thương mới lành xương được. Tôi gởi chúng nó theo xe quen về nhà thương Bà Chiểu rồi lên đây một mình. Bị vậy mà tới hơi trễ.
Hai cô gái nhỏ thất vọng ngay khi thấy Bằng đến một mình. Giờ nghe Bằng kể câu chuyện tai nạn xe, họ càng tủi thân thêm.
Lùi về xó quên nầy, họ chỉ mong có khách đến chơi, bất kỳ ai, để không khí đỡ phẳng lỳ. Nhưng mỗi một lần khách đến, họ lại bị gãy cẳng dọc đường.
– Sài Gòn có gì lạ, anh? Quá hỏi.
– Thì cũng đại-nhạc-hội, đại-siêu-phẩm xanh xanh đỏ đỏ, chớ có gì đâu. Còn ở đây có lạ hơn không?
– Có cậu hai Quờn mặc bi-da-ma hường, ôm đờn băng-cầm suốt ngày và có anh Xòn lần nào thấy em là cố chui trốn bất kỳ ở kẽ rào nào.
– Thành ra không ở đâu có gì giựt gân cả. Thế này thì còn biết chạy đi đâu cho đỡ buồn nè?
– Anh buồn lắm hả? Anh bạn gái nhiều lắm mà.
– Bạn gái chán bỏ mẹ, mà bạn trai lại càng chán hơn.
Đó là luận điệu của kẻ giàu sang đâm chán tiền bạc. Riêng các cô, các cô thấy bạn gái rất dễ thương, mà bạn trai lại càng thích hơn.
Cô Hồng bỗng nhớ sực ra rằng mình chưa kéo nước tưới cây nên hốt hoảng nói: “ý chết!“ rồi bỏ chạy mất.
Cô Hương cũng đứng lên nói là đi lo cơm nước.
Bằng và hai cô còn lại thấy hơi buồn nên đi lần ra giếng là nơi họ thấy Hồng xách thùng tới đó.
Bằng hỏi:
– Các cô làm lụng túi bụi như vầy sao còn kêu buồn?
– Ấy, nhờ có công việc suốt ngày nên chỉ buồn vừa thôi. Nếu bị ở không, chắc tụi em trốn mà trở về dưới hết.
– Sao hồi ở dưới, cũng ở không mà không buồn?
– Dưới ấy ồn quá còn buồn sao được. Cảnh vật chung quanh ta thật là ảnh hưởng mạnh đến tâm trí ta anh à. Ở đây dầu mỗi ngày mỗi có án mạng, mỗi đêm mỗi có xi-nê cũng vẫn buồn như thường.
– Lạ quá!
– Lạ gì mà lạ. Chính anh, anh cũng kêu buồn kia mà.
– Tôi thì khác, tôi buồn vì tôi sầu tình.
Quá cười dòn như nhạc ngựa.
– Còn em, em buồn vì không có tình để mà sầu.
Quá nói nửa đùa nửa thật nhưng nếu ai biết tâm sự của mấy chị em của cô thì đó là một thú nhận chua chát.
Bằng cũng cười rồi kết luận:
– Thành ra mối sầu của tôi là niềm vui…
– Không phải vậy. Nhưng thà là sầu như chị Hồng chớ còn trống không như chị Hương thì chết được chớ không phải chơi đâu.
– Nhưng sao tôi thấy cô Hương rất bình thản. Chỉ có hai cô là kêu buồn liền miệng.
– Bình thản à? Có lẽ buồn quá hóa chai chăng? Còn em kêu là kêu giùm chị ấy,không biết chị Hoa thì kêu dùm ai.
– Tao kêu dùm mầy đó, con bé nhiều chuyện.
Bằng lên chơi không mang theo gì mới lạ cả. Nhưng chiều lại anh ra về, cả nhà buồn hiu. Cả đến thức ăn trong trã tiên liệu cho ba bốn người khách ăn bữa cơm trưa, cũng buồn vì chỉ được có mỗi một ông khách rờ đến.
Sáu người tiễn Bằng một đỗi xa trên đường nhựa rồi bốn cô gái nhìn mãi theo chiếc mô-bi-let nó đem người anh họ của các cô về một nơi mà các cô nhớ đến nỗi héo hon gan ruột.
*
* *
Ánh trăng tráng ngà.
Có cây da to.
Có thằng Cuội già.
Ôm một mối mơ.
Gần hai mươi đứa trẻ vừa trai vừa gái, đứa nào cũng rất hôi mùi mồ hôi muối và khét nắng, rập nhau mà hát giữa sân bài hát do bốn cô Thái-Huyên-trang dạy chúng từ một tuần lễ nay.
Vì bà thầy nhạc cũng không giỏi lắm, nên chúng hát sai bét. Tuy thế mẹ chúng và chị chúng, đang ngồi với các cô tại thềm nhà cũng thấy làm hay vô cùng.
Phụ nữ ở đây nghèo khổ quá, bận tay bận chơn suốt ngày nên không hề vui chơi việc gì cả. Ngồi lê đôi-mách là tật cổ truyền của đờn bà mà họ cũng từ bỏ được thì biết đời họ khô-khan đến bực nào.
Bốn chị em thương-lượng với các người nghèo nhứt xóm để họ cho con em đến học chữ với các cô một tuần năm buổi, trừ thứ bảy và chủ nhựt.
Thật ra làm việc đó, các cô chỉ vụ-lợi thôi, để cho công việc chiếm hết thì giờ cho khỏi buồn ấy mà! Chớ các cô không có lý tưởng gì ráo, không có một băn khoăn xã-hội nào cả.
Nhưng dạy được mười hai đứa khá thông minh các cô lần lần thấy thú-vị thật tình trong việc phá ngu mười hai bộ óc, chớ không phải vừa dạy, vừa nghĩ vơ vẩn đâu đâu như những hôm đầu nữa.
Thứ nhứt là biến đổi những đứa con gái đầu bù và ăn nói thô-lỗ ra những em bé gái biết chải gỡ vén khéo và thuộc một nhúm lễ phép sơ-đẳng.
Thỉnh thoảng các cô nài nỉ một số đờn bà và con gái lớn đến nhà chơi vào những đêm trăng như đêm nay cũng chỉ cốt đỡ buồn. Cái trò hợp ca là để quyến-rủ họ đến cho thường và cho đông.
Ánh trăng sáng ngà thật. Trời trong và sâu thăm thẳm khiến cảnh ở đây lại càng trống-trải trơ-trọi thêm. Nếu trăng núp sau tàu dừa, hoặc rớt dưới sông rồi tan vỡ ra từng mảnh thì còn ngắm được, còn thưởng-thức được vẻ thơ-mộng của nó. Đằng nầy đến không có lấy một sợi mây mỏng vắt ngang qua cái mặt tròn vo kia thì trông bầu trời và cảnh đất trơ-trẽn đến bực nào.
Cuội ơi, ta nói cho cuội nghe.
Ở trên cung trăng mãi làm chi.
. . . . . . . . . . . .
Có con dế mèn.
Suốt đêm canh thâu.
Hát xẩm không tiền.
Nên nghèo xác-xơ.
Thím hai Nếp ngẫm-nghĩ nói to:
– Ngày xưa hồi còn nhỏ dại, chúng tôi đêm trăng thi chơi nhảy chán châu, chơi u bắt mọi, vui lắm. Không hiểu sao từ hơn hai mươi năm nay, trẻ con không chơi các trò chơi ấy nữa. Thành ra tối tối trong xóm buồn hết sức.
– Trò chơi nào lâu đời quá cũng dễ chán, cho nên…
– . . . Cho nên trẻ con nó bỏ? Hoa nói hớt câu nói của người chị cả của cô. Nhưng nàng tiếp: bỏ cái nầy, phải tìm cái khác thay vào chớ.
– Thì mầy giỏi tìm đi. Trẻ con nó đang buồn đó, không riêng gì trẻ con ở đây, mà cả khắp nước kìa.
– Thách hả ? Được, em sẽ tìm, và sẽ tìm ra.
Cô Hoa quả quyết điều đó rồi bỗng thấy cái rỗng không của những ngày quê của cô hết đáng sợ nữa. Cô thoáng thấy sẽ có một cái gì để đeo đuổi theo.
Ba cô khác thì chưa gặp may mắn đó.
*
* *
Sau ba bốn ngày nóng bức, gió nồm thổi dữ. Trái sao trái dầu có cánh ở đâu bay tới như mưa, quay tròn như con vụ trên không trung rồi rơi xuống đầy sân.
Không khí buồn tẻ ở Thái-huyên-trang nhờ thế, đỡ lạt phần nào.
Chiều chiều bốn cô con gái đợi gió. Hễ gió nổi lên là họ vui như các thứ quả có cánh ấy là những bức tâm-thơ của người xứ xa gởi đến.
Trái sao, trái dầu bay đẹp mà rơi cũng đẹp. Nhưng trái trác bay trông lại buồn cười. Cánh của thứ trái ấy không chia ra hai nhánh, hoặc bốn nhánh mà lại bao quanh tròn cả trái. Trái trác, nếu gió to thì bay cuồng loạn lộn nhào, còn nếu gió nhẹ, thì bay như dĩa bay mà các cô thấy trong chiếu bóng.
Thú nhứt là rượt bông lồng mức. Bên kia đường , một cây lồng mức già trụi lá đứng đó bồi thêm vài vệt buồn vào cảnh khô hạn ở Xóm Thuốc nầy.
Trái lồng mức tròn mà dài như trái đậu bắp. Chiều chiều, vỏ cứng như vỏ sô của trái ấy nổ tách ra làm hai rồi thả ra muôn ngàn cái bông trắng, bay như tuyết đổ.
Bông gồm một hột vàng nhỏ như hột lúa, trên đầu hột lòng trắng, mọc tua tủa ra, lông mịn như tơ, mà cong như lông mi, dùng làm cánh, đưa hột vàng về những nơi xa lạ.
Nhiều bông quá nặng, cánh chở không nổi, sa xuống trên sàn, nhưng vẫn bay là là ngang đầu người chớ không chịu rơi xuống đất.
Các cô rượt bắt mớ bông ấy, ai bắt được một chiếc thì sung sướng vô cùng. Chỉ vò mớ lông trắng mịn giữa hai ngón tay cũng đủ vui vẻ một buổi chiều trống rỗng.
Cái thú thứ nhì là xem trẻ trong xóm giành nhau mà lượm xoài non, trái nhỏ bằng ngón tay cái: Ở nhà quê ít bánh hàng nên thứ gì trẻ nhỏ cũng thích ăn: me non, dái mít, xoài non, và những trận lượm xoài thì hào hứng như cuộc tranh sống thật sự.
Người gia-trưởng Thái-huyên-trang thấy con vui thì mừng, nhưng không vui được với con.
Trong bữa cơm chiều nào ông cũng nói:
– Cảnh ở dây khác dưới mình nhiều quá. Mỗi mùa có màu sắc, có mùi vị riêng của nó. Nhưng màu sắc, mùi vị nầy không giống màu sắc mùi vị ở quê ta. Nhớ nhà quá đi thôi.
Ông Nam Thành dùng tiếng mình[1], nhưng ông quên rằng chỉ có ông là nhớ nhà. Con ông lớn lên ở Saigon, nếu có nhớ thì nhớ đô-thành.
Nếu chúng không bận bịu với đô-thành vì ở đó thiếu cảnh đẹp thì chúng vui với cảnh ở đây là hợp lý, không thể kéo chúng vào phe nhớ quê hậu-giang được.
*
* *
Cả nhà nghe như có một cái nắp đậy lên đầu họ trong những ngày đầu mùa. Nắp ấy ban đầu vô hình, sau rồi hiện ra thành một tốp mây đen.
Những trận mưa đầu mùa ồ ạt như bão tố, đã đánh vỡ được cái nắp kia, khiến họ nghe giải thoát.
Cô Hồng nghe nhẹ người hơn ai cả vì khổ-dịch kéo nước tưới cây khỏi phải làm nữa.
Ông Nam Thành thì bận túi bụi sửa lại chuồng heo, chuồng gà dựng sơ sịa hôm còn nắng.
Hai cô con gái sau thì lo ngại nhiệm-vụ của hai cô từ đây biến thành khổ-dịch; nuôi heo, nuôi gà trong mùa mưa là một công việc cực nhọc: cho heo ăn phải bị ướt át, gà lăn ra chết toi vào lúc đầu mùa mưa nầy thì nội cái việc đào lỗ chôn xác để tránh sự truyền nhiểm cũng đủ hụt hơi rồi.
Trời mưa liên tiếp mỗi ngày cho đến suốt tuần lễ mà chưa thôi, làm như là nước đọng cả nửa năm nhiều quá, bây giờ đổ xuống được là nó cứ đổ tràn trề.
Thôi, từ giã rượt bông lồng, từ giã đi thăm anh Xòn, thăm cậu hai Quờn, và đi dạo mỗi chiều trên đường nhựa.
Bốn chị em ngồi đó mà nhìn mưa xa chạy về như ai kéo màn trắng đến. Mưa trắng xóa, xóa mờ cả chơn trời, cả cánh đồng trống trước nhà, cả những đoàn xe hơi cứ nối đuôi nhau mà chạy.
*
* *
Mùa mưa buồn nhưng lại giúp bốn chị em tìm được thêm bạn mới.
Chiều hôm ấy cô Hồng mắc mưa ở xóm trên. Không muốn làm rộn ai, cô chạy vào lò rèn của thợ Hổ là nơi gần như là công cộng: người đi lỡ đường ghé lại đó nghỉ chơn, những ông già rỗi rãi trong xóm, đến đó để đánh cờ tướng, trẻ nhỏ bán quà vặt cũng hay lân la nơi đó để tìm khách hàng.
Cô Hồng chạy vào tới lò thì giọt tranh đã to bằng ngón tay út rồi. Để tránh tạt, cô vào đứng giữa lò, gần bếp lửa.
Ông thợ Hổ không thể dừng tay vì sắt đang đỏ, vừa tiếp tục đập vừa nói:
– Coi vậy mà không sao, cô ba cứ đứng yên đó.
Nhưng những đóm lửa bay tua tủa ra khiến Hồng sợ hãi nhảy lui ra ngoài, bị tạt ướt cả ống quần.
– Hay là cô lên ghế ống thụt mà ngồi, ông tư Hổ đề nghị.
Sau bếp lửa đứng lên hai ống bễ to tướng. Một thằng bé con ngồi trên một con ngựa cao đặt sau đó, thụt mãi không thôi.
Ống bễ thở khò khè như mệt hổn hển, mỗi lần nó thở ra một cái là than trong bếp lại đỏ tươi lên.
Mừng được nơi ngồi yên chỗ, Hồng chạy ra sau bếp rồi trèo lên ngựa mà ngồi chung với thằng bé. Mặt ngựa khá dài để hai người ngồi mà người nầy không ngăn trở công việc làm của người kia.
Bây giờ thoát khỏi lửa. Hồng sung sướng mà nhìn nó, nhận thấy nó đẹp lắm! Thằng bé mỏi tay lơi thụt, than lu mờ, tư Hổ nạt nó, nó vội thụt lia lịa, than hồng lên, xem trong trẻo lạ. Những thanh sắt đã nướng, đỏ lần lần như lửa đã rửa được cái đen đúa dơ dáy của nó. Đẹp nhứt cố nhiên là mưa lửa bắn ra mỗi lần búa nện xuống đe. Giò ông tư Hổ bộ bằng sắt sao ấy, mà lửa văng vào đó tới tấp, ông vẫn đứng yên mà đập sắt.
Ở đây có cái mùi ngồ ngộ như mùi hơi đất xông lên sau trận mưa đầu mùa. Đó là mùi sắt đỏ trui trong nước lạnh, nghe khen khét một cách thật dễ chịu.
Ấm lạ! Mặc dầu gió vào tứ phía, bụi mưa bay khắp nhà, Hồng cũng nghe thấy ấm, nhứt là ấm trong lòng cô, giữa sự xúm xít nầy, ông chủ lò rèn, hai ông lão đánh cờ, ba nông dân trai tráng, và hai đứa con gái bán bánh ích trần, bánh cam.
Bỗng trời chớp một cái rồi tiếp liền theo một tiếng sét nổ long trời.
Thằng bé thụt ống lửa, giựt mình ngừng tay lại. Ông tư Hổ không mắng nó như mấy lần trước, mà trái lại chính ông cũng thôi đập.
Ông gỡ kiếng ra, ngó ra cánh đồng trước nhà rồi nói:
– Có quỉ núp đâu gần đây…
Hai ông lão đánh cờ cũng vừa xong một ván, ngửng mặt lên và một ông bắt chuyện.
– Nói quỉ, tôi mới nhớ lại một lần đi ghe. Ghe chúng tôi mắc mưa từ lúc mới chun vào kinh tắt để băng qua sông Saigon. Khi tới Vàm Nông sắp đặt đổ ra sông lớn thì…
Rồi mỗi người có mặt ở đó, người nào cũng sẵn một câu chuyện yêu, tinh, ma, quỉ, một câu chuyện lưỡi tầm sét để mà kể lại.
Ông tư Hổ kể chuyện linh động hơn hết, có cả đối thoại của nhân vật trong truyện mà ông nhái giọng nghe rất là sống.
Ông lại nhớ cả chuyện xưa tích cũ trong làng, chuyện đắp con đường Thiên lý trước nhà và lịch sử phát triển của chợ Thủ Đức.
Trời bớt hột lần lần, khách lần lượt rút đi.
– Thôi, thụt mầy!
Tư Hổ vừa đeo kiếng trở vào, vừa ra lịnh cho thằng bé tiếp việc. Nhưng Hồng đã giành lấy hai cây thụt, ngồi xích vào giữa rồi ra tay thử.
Lạ quá, thằng bé còn nhỏ thế, mà nó thụt coi nhẹ hều, còn cô, sao cô ráng hết sức mà nhấn không nổi.
Ống bễ dưới tay cô giống như người nghẹt mũi, ống nầy kêu một cái khè khó khăn mệt nhọc, thì ống kia còn hịt hịt như bị bít hơi.
Cô gái Thái-Huyên-trang cười ngất rồi giao cây thụt lại cho thằng bé nó cũng đang bành miệng ra mà cười. Cô từ giả ông Tư, ra về dưới mưa thưa, đinh ninh sẽ trở lại đó lúc nào trời chuyển mưa. Ông tư là cái kho tàng trử tích hay chuyện lạ, không tới lui với ông, lấy gì giải trí trong mùa nầy?
Từ đó, xế trưa nào, không chị thì em, các cô Thái-Huyên trang đều có mặt ở lò rèn để hưởng một buổi đụt mưa ấm cúng.
Cuộc đời phẳng lặng của mấy chị em thêm được những buổi vui ngắn ngủi và phù du như đốm lửa ở mặt đe văng ra, bừng cháy trông rất xôm, mà chết đi cũng mau lẹ vô cùng.
Như vào mùa đông ở các xứ miền Bắc, ở xứ ta người trong gia đình xúm xít lại gần nhau trong mùa mưa.
Nhứt là vào những buổi đầu hôm, dưới ngọn đèn un khói, họ quây quần quanh người gia trưởng để bàn chuyện tương lai, để nhắc kỷ niệm cũ, để nghe kể chuyện đời xửa đời xưa.
Hồn muôn thế hệ qua như phảng phất hiện về đây đó, rồi truyền thống của gia đình, của dân tộc được hồn ma xưa bí mật thổi nó vào tâm hồn người đời nay đang có mặt bên đèn.
Ngoài kia, mưa rơi trên tàu chuối, mưa tạt vào phên tre, mưa rao điệu ai cho ãnh ương hòa tấu bản nhạc buồn…
Bà Nam Thành nhìn từng đứa con của bà rồi thoáng ái ngại nhận thấy rằng ở đây không phải chỗ của chúng nó. Chỗ của chúng phải vui tươi trẻ trung, sinh động hơn cái không khí ủ rủ nầy.
– Ông à, tôi có chuyện muốn bàn với ông.
– Ừ, thì cứ nói đi.
– Lên gác hãy nói.
– Như vậy gọi tôi bây giờ làm gì.
– Để ông lên gác.
– Bà buồn ngủ mà sợ ma không dám lên một mình thì cứ thú thật để tôi đưa lên, đừng có kiếm chuyện.
Bà Nam Thành cười hơi rung rinh cái nây. Bà cố cười cái cười thú tội, làm bộ như mặc nhận lời đoán của chồng là đúng, hầu lên gác tự nhiên cho khỏi băn khoăn về câu chuyện mà bà muốn giữ kín.
Bà nhả trầu, súc miệng, doạn pha trò với mỗi đứa con một câu rồi mới theo ông mà lên lầu.
– Chuyện gì mà bí mật dữ vậy, ông Nam Thành hỏi, một khi lên đến nơi.
– Bữa nay yên xong mọi việc tôi mới rảnh trí để nhớ lại chuyện nhà…
Bà nín một lát lâu, dường như không biết bắt đầu nơi đâu câu chuyện của bà. Rồi dột ngột, bà hỏi chồng:
– Ông có bao giờ nghĩ đến việc chồng con của con hay không?
Ông Nam Thành ngạc nhiên quá, ông đã đoán nhiều chuyện mà bà Nam Thành sắp nói, trừ chuyện nầy. Giây lâu ông mới đáp:
– Không, à …ơ… nghĩa là có…mà ít khi lắm.Mấy năm trước bận buôn bán, rồi bận lo nghĩ về túng thiếu, bây giờ thì say thú làm vườn. Sao, có gì lạ ?
– Không có gì lạ tôi mới lo. Ông thử tưởng tượng thử coi làm sao con mình lấy chồng được.
– Thì sớm muộn gì cũng có người đến hỏi chúng nó chớ.
– Nếu mình còn ở Saigon thì như vậy. Nhưng lại đây là khác rồi.
– Khác làm sao?
– Muốn gả lấy chồng, phải giao thiệp. Các mối giao thiệp ấy lại phải lâu ngày chầy tháng. Mình rời quê, mất cả quen lớn ở dưới. Lên Saigon, vì là thành phố lớn lại vì mình chưa vững. Vì vậy con Hương phải chịu lỡ thời. Nó rủi là phải rời quê giữa lúc đương thì, rồi sống trong chỗ thờ ơ cho đến ngày nay nên đã hăm tám rồi mà còn cô độc một thân.
– Cũng tội nghiệp cho con Hương thật đó. Nhưng ba đứa sau thì khỏi lo. Rồi giao thiệp ở đây.
– Ông nói niếc sao chớ! Giao thiệp ở đây? Ông định gả con ông cho ai?
– Thì gả cho con nhà nào đồng địa vị với mình.
– Thí dụ ông cụ Hương cả Quan? Xứng hay không?
– Ừ, thí dụ ông ấy. Xứng sui gia lắm.
– Nhưng liệu con mình chịu ưng cậu công tử nhà quê ấy hay không?
– Sao lại không. Nó cũng khá trai, lại có học đến lớp nhứt, và là con một của một nhà giàu có nữa, thì tại sao con mình lại không ưng nó?
– Ông lầm. Tôi thấy giai-cấp nào lấy giai-cấp nào cũng có thể tốt đôi cả. Thí dụ con ông chủ hãng cưới con gái bác thợ trong xưởng của cha anh ta. Mà đến con gái ông đốc tơ ưng thầy phạm-nhe cũng đã xảy ra rồi mà họ đều ăn ở hòa thuận với nhau được. Nói giai-cấp nầy, không thể lấy giai-cấp kia, là xúi dại người ta.
Nhưng có hai giai-cấp không thể lấy nhau được mà không ai ngờ: giai-cấp chợ và giai-cấp quê.
– Chợ và quê là giai-cấp à?
– Không đúng lắm. Nhưng tôi nói như vậy cho dễ phân biệt.
– Hừ, tại sao có chuyện lạ như vậy? Ông huyện Bỉ không cưới con gái hương sư Sen đó à? Ngày xưa người ta chỉ cưới gái quê thôi, còn gái chợ thì a … lê…
– Phải, ngày xưa thì như vậy. Ông Huyện Bỉ cũng là người ngày xưa. Bây giờ ông ta đã Đốc phủ rồi kia mà. Ngày xưa không có đời sống đô thị, người ở chợ chẳng khác người ở đồng áng bao nhiêu. Nay thì khác. Tôi đã nghe từ lâu chúng nó nói chuyện nhiều lắm rồi về vấn đề chợ và quê đó.
Vả lại ông chỉ nêu ra thí dụ một chiều thôi: trai chợ cưới gái quê, mà không chỉ được gái chợ nào lại ưng trai quê. Gái quê khác trai quê nhiều, như xưa khác nay.
Con gái không có đời sống bên ngoài, ở nhà mà lo nội trợ thì quê hay chợ cũng như nhau. Ông nghĩ thử một anh chồng con Hoa hay con Quá mà mặc bi-da-ma hường đi ngoài đường, không biết nghiêng mình thi lễ thì coi được hay không?
Ông Nam Thành nín lặng, trầm ngâm rất lâu. Những điều vợ ông vừa nói ra, thật chưa bao giờ ông nghĩ đến. Lý lẽ mới lạ của bà, ông nghe lại đúng, thế mới chết. Định bụng là vợ ông sắp kết luận để buộc ông cái tội đày con về quê, ông đùa cho khỏ lấp:
– Thành ra có con gái đến tuổi lấy chồng, không nên lui đi vườn.
– Lui thì lui, nhưng phải để chúng nó ở lại thành phố.
– Để chúng nó một mình vậy hè?
– Có mẹ chúng nó lo.
– Ha … ha… Té ra bà muốn về dưới. Nhớ tay bài rồi hả?
Bà Nam Thành cũng cười, nhưng bà lại lập nghiêm mà rằng:
– Tôi nói là nói thật chớ không phải giỡn đâu. Cũng chẳng nhớ tay bài tay hụi gì hết. Tôi thề theo ông trọn đời, ông đâu tôi đó. Nhưng bài toán gả con nan giải kia, ông nên liệu , kẻo tội nghiệp con.
Ông Nam Thành thở dài mà làm thinh.
*
* *
[1] Tiếng địa phương miền Nam, mình có nghĩa là chúng ta.