ĐÒ DỌC (Chương 5)

Ệch… ệch… ệch…

Đó, thằng cha đút đầu vô lu mà la đó ! Quá nói dứt câu thì cả nhà cười rộ lên.

Gốc me sau nhà có cái lỗ hẻ. Một con ãnh-ương, không biết vì sao lại bỏ ao vũng chui vào đó mà ở. Nó ở đó không biết được mấy năm rồi mà bây giờ cây lớn thêm một chút, lỗ hé khép lại hẹp miệng hơn năm xưa, thành-thử nó ra không được nữa.

Tối tối, sau một trận mưa, nó kêu lẻ-loi, giọng ồ-ề như một người đút đầu vào cái thùng hay cái lu, quả như lời cô Quá nói.

Ãnh-ương sống lẻ, kêu nghe buồn thảm như tuyệt-vọng trước bản hợp-ca của đồng loại nó ở ngoài ao xa kia.

Ệch. . . ệch. . . ệch. . . Con vật ở tù, cứ kêu đều đều như vậy.

Cô Hồng lấy hai tiếng kêu của lũ ãnh-ương xa mà làm lời để hát theo điệu hòn vọng phu :

UỀNH-OANG UỀNH-OANG, UẾNH… UÊNH-OÀNG…

– Thôi mầy, buồn quá rồi, mầy còn hát điệu đó làm chi ?

Trận mưa đầu hôm ngớt đã lâu, nhưng không dứt hẳn. Đám mưa dầm nầy nghe chừng sẽ dai-dẳng suốt đêm.

Trên đường, xe thưa như trên một thôn lộ. Cả nhà nhìn qua khe trỉ long-mốt tìm những tia đèn pha hiếm-hoi đêm nay, vì hiếm-hoi nên họ nghe nhơ-nhớ cái ánh sáng mà những ngày khác họ xem là thường.

Bỗng một ngọn đèn rọi chĩa thẳng vào nhà. Bấy giờ họ mới để ý rằng tiếng xe chạy mau lắm. Rồi thình lình nghe đánh rầm một tiếng như có ngấy mươi chiếc thùng không đổ ngã một lượt.

Lưỡi kiếm đèn pha đang thọc qua khe vách bỗng quật lên trời, rồi thôi, không còn nghe, không còn thấy gì nữa.

– Ngay ngoài sân mình ! Bà Nam Thành kêu lên, giọng run-run.

Ông Nam Thành làm thinh, kéo hộc tủ lấy ra cây đèn pin rồi sắp sửa chạy ra ngoài. Bốn cô con gái cũng bỏ guốc định chạy theo ông.

Bà Nam Thành mếu-máo nói :

– Đừng có đi, tôi sợ lắm ông ơi !

Vừa nói bà vừa níu áo ông lại. Ông Nam Thành gạt tay bà nhảy phót ra cửa. Bốn cô con gái chạy theo cha bén gót.

Từ thềm nhà ra tới đường, xa độ một trăm thước. Tia đèn pin ngắn quá soi không tới ngoài ấy. Tuy vậy họ cũng thoáng thấy một đống đen ngòm nằm trên sân, cách lề đường đâu lối năm sáu thước.

Những hột mưa thưa rơi trong ánh đèn, bắt đầu trở nhặt như hối thúc họ ra đường cho mau. Cả năm người đều có cảm-giác đó, nên tự-nhiên họ vén ống quần lên để mau bước trên đất sân úng nước.

Bây giờ chiếc xe hơi đã hiện rõ lên, một chiếc xe sơn đen nằm đưa bốn bánh lên trời.

Ông Nam Thành chạy chớ không đi nữa, bốn cô gái cũng làm y theo cha. Còn lối năm sáu thước nữa là đến nơi, ông Nam Thành rọi đèn xuống đất, quanh xe, nhưng ông không thấy người văng ra ngoài. Ông chạy vòng qua hông xe bên kia và cũng rọi dưới đất như vậy : không có ai cả.

Bây giờ họ đã đến sát chiếc xe lật ấy rồi.

– Còn kẹt trong xe, cô Quá la lên khi đèn rọi vào trong đó.

Họ cúi dòm qua cửa kiếng thì thấy nuột người đàn ông nằm co lại như kẻ ăn xin ngủ ở vỉa hè một đêm lạnh.

Ông Nam Thành mở cửa xe, nhưng không mở được. Ông thử cả bốn cửa, nhưng đều thất bại.

– Nó kẹt thế nào không biết mà mở không ra. Bây giờ làm sao !

Ông hỏi bông-lông và chỉ có sự im lặng đáp lời ông thôi. Họ sốt ruột mà đứng nhìn, bất lực trước mấy cánh cửa cứ khư-khư đóng giữ nạn-nhân.

Bỗng cô Hoa la lên :

– Phải rồi, chạy kêu bác thợ rèn.

– Thợ rèn để làm gì? Ông Nam Thành hỏi.

– Bác ta có búa lớn, phá cửa, đập kiếng được.

– Ừ phải, đứa nào chạy đi kêu. Nhưng không. Nhưng đi một đứa. Phải chạy đi ba đứa cho có bạn, còn một đứa thì ra đường đón xe, bất kỳ xe nào cũng bắt lại cả.

Ba cô Hồng, Hoa, Quá chạy lên lò rèn, còn cô Hương thì chạy ra đường. Ông Nam Thành ở lại một mình, đứng suy nghĩ về việc phải làm : đưa ngay nạn-nhân xuống Thủ-Đức xin cứu-cấp tạm, một mặt cho cảnh sát dưới đó hay, đoạn về nhà thay quần áo khô, trùm lại cho ấm, và uống một viên thuốc ngừa cảm.

Ông đã ướt như chuột té mương và bắt đầu lập-cập dưới gió từng cơn thổi đến.

– Sao mà chúng nó đi lâu quá như vầy nè ?

Ông nóng-nảy lẩm-bẩm và nhìn ra đường thì thấy một chiếc xe chạy qua. Hương đưa tay nhưng xe cứ chạy luôn. Một chiếc xe khác đến, Hương cũng đưa tay, nhưng xe nầy cũng chạy luôn.

Rồi ồng bận nhìn đám đi lò rèn về, nên không để tâm đến việc đón xe nữa. Ông soi đèn cho họ dễ đi và kêu hỏi vói :

– Có hay không ?

– Dạ có, ba à.

Bọn nầy chạy chớ không đi. Ông Tư Hổ vác búa đập đe đi trước, theo sau ông là ba cô gái và một người đàn ông ở xóm trên.

Ông Nam Thành nói :

– Nó kẹt chốt hay kẹt gì đó tôi không biết. Đâu anh đập bậy thử vài vố xem sao.

Tư Hổ không nói không rằng, giương hết thần lực mà đập búa vào cửa xe. Từng búa sắt chạm vào thùng xe kêu ầm-ầm, ông thợ thử đập cả nơi bốn tay vặn ở bốn cửa mà vẫn vô hiệu quả.

Thôi, đập cửa kiếng, đập bể nát bỏ. Ông Nam Thành bảo như vậy.

– Nó văng miểng trúng người ở trong làm sao ? Bác thợ rèn cãi.

– Không, đó là thứ kiếng riêng, miểng không bén đâu.

Bác thợ đập một vố là tấm khung cửa trước bể nát ra. Miểng kiếng rơi đầy trên mình nạn nhơn, khiến bác ta hoảng, nhưng nghe ông Nam Thành quả-quyết là không sao, nên bác ta cũng đỡ sợ đôi phần.

Ông Nam Thành xem kỹ lại thì thất-vọng lắm. Khung cửa kiếng hẹp quá, không thể lôi ra ngoài người đang nằm co trong đó.

Ông thò tay vào trong, thử mở cửa thì may quá, mở được.

Nạn-nhơn không bị thương tích chỗ nào hết. Hắn nằm chèo-queo bên trong chiếc mui lật ngửa, nệm xe rơi xuống đùi hắn.

Vừa lúc đó cô Hương trở lại nói :

– Khổ quá ba à, con đón sáu chiếc xe mà chiếc nào cũng không chịu ngừng hết.

Bác thợ rèn cắt nghĩa thái độ của những chiếc xe xấu bụng ấy :

– Đường vắng quá, trời lại mưa, nên họ sợ.

Ông Nam Thành làm thinh, khom lưng rồi nắm vai nạn nhơn mà kéo. Nhưng ông kéo không nổi, nên đứng thẳng lên rồi day lại nhìn ông Tư Hổ.

– Đâu anh kéo thử coi.

Tư Hổ làm thinh mà thi-hành lời yêu cầu của ông chủ Thái-huyên trang. Bác thợ rèn, tuy đã già mà còn mạnh lắm. Bác ta kéo trông như người ta kéo cái gối dài ra khỏi áo gối.

Khi đầu và vai của nạn-nhơn ra khỏi cửa xe, ông Nam Thành đỡ lấy, để ông Tư Hổ kéo tiếp phần còn ở trong ra. Bốn cô gái ở Thái-huyên trang và cái anh đến với ông Tư ở xóm trên cũng áp lại mà phụ đỡ khúc gìữa, từ từ lôi nó ra ngoài.

Chiếc đèn pin được chận cái bấm, nằm một mình dưới đất ướt mà soi cái cảnh ký-dị nầy : bảy người khiêng một người dưới mưa đã nặng hột.

– Khổ, đón xe không được, bây giờ mới biết làm sao đây ? Ông Nam Thành lại hỏi bông-lông như vậy.

– Hay là đem người ta vào đỡ trong thà mình, ba, cô Quá nói. Bắt người bịnh dầm mưa không tốt đâu.

– Ừ, đem thì đem.

Rồi họ khiêng luôn người lạ mặt vào nhà.

Bà Nam Thành thấy hai chiếc giày của người được khiêng ló vào trước thì khiếp đảm, kêu rú lên.

– Đừng có la ! Ông Nam Thành quát. Xe lật cũng sợ, bây giờ thấy người ta, cũng sợ nữa. Sao mà dạn quá như vậy không biết !

Họ khiêng người bịnh đã ướt mèm vào tuốt trong phòng để dành cho khách xa ngủ lại đó, và đặt y nằm trên chiếc đi văng giữa buồng.

Ông Nam Thành hối Hương lấy đèn măng-sông thấp lên cho sáng. Nhờ đèn giản dị khỏi phải bôm nên không mấy chốc mà ánh sáng vàng mét của cây đèn dầu bị ánh sáng xanh của đèn măng-sông đuổi mất.

Nạn-nhơn là một thanh niên độ hăm sáu hăm bảy thôi, mặc sơ-mi trắng banh ngực, xăn tay, quần sì-bíc-kin cũng trắng, cả đôi giày da cũng trắng tuốt, đế cờ-rôm-mê.

Mặt mũi y khá khôi-ngô, mặc dầu đang trắng bạch chảng. Nhưng không biết y có khỏe mạnh, đẹp trai hay không vì y nằm, khó lòng mà biết được.

Thật y không bị vết thương nào trên người của y cả. Nếu không thấy da mặt khác thường của y thì ngỡ y ngủ.

– Còn nóng hổi, ông Nam Thành nói, nên tôi mới dám nghe lời con Quá đem va vào đây. À, anh kia, anh có biết cỡi xe máy hay không ? Ông Nam Thành hỏi người đờn ông xóm trên như vậy.

– Tôi thật không thạo thứ đó đa, người ấy đáp.

Ông Nam Thành chắc lưỡi, mặt có vẻ thất-vọng.

– Chi vậy ba, cô Hoa hỏi. Con đi có được không ?

– Con gái đi đêm làm chi.

– Đi đâu đó ba ? Hương hỏi.

– Đi Thủ-Đức chớ đi đâu. Đặng cho cảnh-sát hay, rồi giao của nợ nầy cho họ. Để va chết ở đây đêm nay thì khổ cho mình. Va mà chết thì chắc chắn má bây sẽ bỏ nhà nầy mà đi.

Bỗng cả nhà nín lặng, nhìn trừng trừng vào nạn-nhơn. Hắn cục cựa cái đầu, rồi giây lâu, rên hừ hừ.

Họ hồi-hộp đợi xem sự thể ra sao. Hắn sẽ hấp-hối, hay tỉnh lại ? Ông Nam Thành lo lắng lắm, chỉ sợ hắn hấp-hối trước khi cảnh-sát đến.

Nhưng kìa, hắn đã mở mắt ra, ngơ ngác nhìn chung quanh hắn. Đôi mắt tuy mệt đừ nhưng đầy vẻ thông minh và lanh lợi. Đôi mắt ấy thầm lặng hỏi thăm về sự có mặt của hắn ở một chỗ lạ hoắc nầy đối với hắn.

Bây giờ, mặt hắn bớt trắng đờ lần lần, và càng lúc càng ửng lên màu hồng-hào của thời thanh xuân.

– Tôi sao lại ở đây bà con ? Hắn hỏi ra tíếng.

– Thầy nên yên mà nghỉ, đừng hỏi lôi-thôi, đừng cử-động gì hết, có khát nước hay không ?

– Khát lắm !

Ông Nam Thành mừng quýnh lên. Không bị chảy máu mà khát rước là dấu hiệu tốt, ông nghĩ thế.

Thanh niên uống xong nửa tách nước trà nóng, do ông Nam Thành đổ cho rồi toan ngồi dậy.

– Ý đừng ! Ý đừng. . .

Tất cả những người có mặt đều kêu lên như vậy. Nhưng vô ích, hắn có ngồi được đâu. Hắn nằm trở xuống rồi rên siết, mặt nhăn nhó dữ dội.

– Cái cẳng, hắn nói.

– Chắc gãy. Phải mà, xe lật đến mấy tua . . .

– Vậy hà, thưa ông ! Té ra tôi bị tai nạn xe hơi ? Phải rồi, tôi nhớ ra rồi.

– Nhưng thầy nên yên mà nghỉ.

– Té ra ông và bà con đây đã cứu tôi ? Nhà của ai đây, thưa ông ?

– Không cần gì cái vặt ấy. Thầy tạm nằm đây, rồi sáng chúng tôi đưa thầy đi nhà thương. Thầỵ còn nghe gì khác trong người hay không ?

– Thưa không. Bây giờ tôi khỏe nhiều, chỉ trừ đau đớn lắm ở cẳng.

– Cho dẫu gãy cả hai chân cũng không hề gì, miễn là đầu ngực, bụng, của thầy êm là tốt. Thầy nghe ba chỗ đó không sao chớ ?

– Thưa không.

– Tôi thì không đủ sức dầm mưa thêm. Hai người nầy lại không biết đi xe đạp. Mấy đứa con gái tôi, tôi ngại sai chúng đi lúc tối-tăm và mưa gió như vầy. Vả lại thấy thầy cũng không việc gì lắm nên thôi, để sáng hãy hay.

Bây giờ các con thay phiên nhau mà canh chừng thầy đây cho đến hừng đông, nghe chưa.

Ông Nam Thành day qua nói vời mấy cô con gái của ông thư vậy, đoạn dặn dò người bịnh vài tiếng nữa rồi lui ra.

Bà Nam Thành rút vào ngồi bó gối trong góc buồng tiếp khách. Thấy mặt ông bà hỏi :

– Làm sao đó ông ? Chết hay sống ?

– Chết đâu mà chết, tôi dại gì khiêng thây ma vào đây.

– Tôi sợ quá !

– Bây giờ nó đã tỉnh rồi, coi bộ không sao.

– Sao ông không gởi người ta đi ?

– Bắt xe không được.

Ông Nam Thành đi thay quần áo khô rồi trở lại phòng bịnh ứng-lập. Con ông cũng đã thay y-phục xong và có mặt đông đủ nơi đó, đang đứng nhìn người khách dị-kỳ của họ, hắn hỏi lăng xăng mà không ai đáp cả.

– Thầy nên nghỉ ! Ông Nam Thành xẵng giọng khi bước vào nghe khách hỏi chuyện.

Người thanh niên sợ hãi nín khe. Trong những lúc nguy biến hay bối rối, thì ông Nam Thành tỏ ra quyết-định lẹ-làng và cương-quyểt chớ không phải nhu-nhược như ngày thường. Ông ra lịnh :

– Bây giờ đã hơn mười giờ rồi. Mỗi đứa gác non hai tiếng đồng hồ cho đến hừng đông. Con Quá gác trước, rồi cứ theo thư tự chị em mà đổi phiên gác với nhau. Có gì lạ thì kêu ba.

Đoạn nhìn người bịnh giây lâu, và an lòng vì màu hồng trên da mặt hắn đã tươi lắm rồi, ông mỉm cười mà rằng :

– Chúc thầy qua một đêm khó-khăn được bình-yên.

Rồi ông trở bước, ba cô con gái lớn cũng lặng-lẽ theo cha. Hai người ở lại trong phòng, nghe ông Nam Thành hỏi :

– Bình săng đầy hay không ?

– Dạ thưa đầy.

– Tốt, đèn cháy được suốt đêm nay.

Liền sau khi cha và mấy chị ra đi, cô Quá nghe khó chịu ngay. Cô không nhát trai, cũng chẳng sợ ma, sợ xác chết. Nhưng kẻ nầy đến đây đột-ngột quá, cô chưa quen cũng không lạ, mà muốn làm quen cũng khó khăn, vì cần phải để cho người ta nghỉ kia mà.

Cô Quá bưng chiếc ghế-một, đặt trên đầu đi-văng, cách xa người bịnh độ một thước năm, rồi ngồi xuống để tránh thấy nhau trong cái im lặng quá bỡ-ngỡ kia.

Người bịnh chắc cũng đang cùng tâm-trạng nên cũng nín thinh.

Một lát lâu, hắn gọi nho nhỏ :

– Cô ơi !

– Gì đó ông ?

– Cô còn ở đó à ?

– Phái, tôi vẫn ở đây, theo lời ba tôi căn dặn, ông có cần gì hay không ?

– Thưa không. À, tôi có cần một việc… tôi cần nói với cô vài điều.

– Tốt hơn là ông nên nghỉ yên. Có gì, sau sẽ nói.

– Nhưng nếu tôi chết nội đêm nay thì biết bao giờ mới nói được, thưa cô ?

Quá hoảng-hốt trước lời nầy, nên hỏi lăng xăng :

– Làm sao, ông nghe trong mình thế nào mà nói những điều không hay đó ?

Thanh niên cười ra tiếng :

– Thưa cô, tôi không nghe làm sao cả. Trái lại, tôi nghe khoẻ-khoắn như vừa ngủ dậy. Nhưng biết đâu đó chẳng phải là sự bừng dậy của ngọn đèn sắp tàn.

Quá lo lắng hết sức, bước mau lại trước mặt người bịnh mà nhìn chàng ta. Không, nàng không tìm ra sự thay đổi nào trên gương mặt tươi tỉnh ấy cả.

Hai người nhìn nhau rất lâu, không biết họ nghĩ gì trong bụng họ. Rốt cuộc, để đánh tan cái nín lặng khó thoát ấy, bịnh nhơn nói :

– Thưa cô, tôi là Long, họa sĩ, gia đình nào đã cứu tôi, tôi rất mong được biết.

– Gia đình Thái-huyên trang, nhưng không quan hệ gì điều đó, ông cứ nghỉ yên.

Có tiếng đồng hồ reo trên gác, rồi tiếng chơn người bước xuống thang lầu. Cô Quá nói :

– Chị tôi xuống thay phiên cho tôi.

– Vậy à ? Làm phiền cả nhà không biết bao nhiêu.

Cô Hoa đã vào phòng. Bịnh nhơn nói :

– Tôi không sao cả, quí cô cứ nghỉ đi. Đã dầm mưa cứu tôi, bây giờ lại…

– Không hề gì, ông cứ nghỉ yên là hơn.

Bịnh nhơn và cô Quá đều buồn cười vì họ nghe lại những lời đã nói rồi hồi nãy.

– Thôi, chào ông tôi đi nghỉ đây.

Cô Quá nói rồi xây lưng thật lẹ để giấu cái cười mà cô không giữ được bởi ai cũng lập lại mãi mãi một tiếng “nghỉ” ấy.

Đến phiên cô Hoa khó chịu. Thấy chiếc ghế mà em cô đặt trên đầu giường, cô đi lại đó mà ngồi liền, trong bụng cười thầm khi nghĩ rằng chắc em cô cũng đã khó chịu như cô nên mới tim chỗ kín mà ngồi.

Giây lâu người bịnh kêu :

– Cô ơi !

– Có tôi đây. Ông cần uống nước hay không ?

– Cám ơn cô, tôi không khát. Tôi tưởng cô nên nghỉ là hơn, tôi không sao cả mà !

– Không hề gì, ông cứ an lòng mà nghỉ.

– Cô à !

– Dạ.

– Thái-huyên trang là tên của ông cụ phải không cô ?

– Té ra em tôi đã cho ông biết về nhà nầy rồi. Bậy quá, nó nên để ông tĩnh-dưỡng. Không, Thái-huyên trang là tên trại nầy, ba tôi đặt ra hồi dọn về đây.

– Vậy à. Tên trại đẹp quá ! Tôi đoán là trước kia ông cụ bà cụ và quí cô ở Saigon, có phải không ?

– Đúng, ông đoán đúng. Ông bằng theo dấu-vết gì mà đoán như vậy ?

– Người Saigon có vẻ gì riêng biệt khác hẳn người mọi nơi, tôi không nói ra được cái biệt sắc ấy mà vẫn cảm thấy là như vậy.

– Thưa, ông nín mà nghỉ, nói nhiều có hại cho sức khỏe của ông.

– Tôi không sao cả thưa cô. Tôi nghe kỹ trong người của tôi, nên mới dám quả-quyết như vậy. Thưa cô còn bà cụ đâu ?

– Má tôi xuýt ngất đi lúc khiêng ông vào mà lúc ấy thì ông cũng đang bất tỉnh, nên ông không thấy má tôi.

– Vậy hà. Trời, tôi làm khổ cả nhà.

– Không hề gì.

Anh bịnh nhơn lắm lời, không còn gì để hỏi, nên đành làm thinh giây lát. Anh ta muốn thấy mặt cô nữ-khán-hộ ứng-dụng nầy lắm, nên tìm cớ và mừng rỡ mà tìm được.

– Thưa cô, phiền cô cho tôi miếng nước.

Hoa vội-vã đi rót nước và lấy muỗng cà-phê thọc vào đó, để đem lại cho người bịnh. Nhưng anh ta nói :

– Không cần, thưa cô, tôi bưng lấy mà uống được. Tôi ngóc đầu lên rất dễ-dàng, đây cô coi.

Anh ta ngóc đầu dậy, đưa tay đỡ lấy tách nước, vừa hớp chầm-chậm vừa nhìn cô nữ-khán-hộ.

Bốn mắt gặp nhau, nhưng đôi mắt của người đứng bên giường chạy trốn liền, không hiểu vì lẽ gì.

– Thưa cô, tôi là Long, họa-sĩ.

– Hân-hạnh được biết quí danh.

Long nghe tâm-trí mình lạ quá. Hồi nãy nhìn Quá, chàng thấy cô ta khá đẹp, và bóng sắc của cô ấy tăng thêm cảm-tình của chàng đối với người nghĩa.

Nhưng bây giờ nhìn Hoa, chàng thấy Hoa mới là đẹp, còn Quá thì còn trẻ con lắm, thân-thể nở-nang chưa đầy đủ.

„Con mắt họa-sĩ của mình nhìn sai đến thế à ?” Chàng nghĩ thầm.

Sự nẩy-nở của dung nhan cô Hoa đã định-cư lại một chỗ rồi. Nó đã rõ-rệt hẳn, mà cái bước dừng lại ấy, lại nằm đúng chỗ mức đẹp.

Long không đến đỗi yêu vội-vàng bất cứ người con gái nào chàng mới gặp. Nhưng dầu sao, cảm tình của chàng đối với cô Quá, vẫn có. Bây giờ chàng nghe như cảm tình ấy vừa giảm bớt đi nên khó chịu, mắc cỡ như mình vừa phản bội một người yêu.

Bị nhìn kỹ nên Hoa cũng khó chịu lắm. Nàng nói cho có chuyện, và rất mừng mà tìm được ra một câu cần phải nói :

– Còn tôi là Hoa, con gái thứ tư nhà nầy. Em tôi hồi nãy tên là Quá.

Hoa nói tên cô em ra, vì cô biết chắc chắn là nó đã giấu tên nó bằng sự không xưng ra, giấu cái tên mà nó không bằng lòng tí nào cả.

– Hân-hạnh được biết cô và được biết tên cô. À cô Quá thứ mấy cô ?

– Thứ năm, nó là út. Nhưng ông cứ gọi tên chúng tôi.

– Phải, nếu quí cô cho phép.

Lại có tiếng đồng hồ reo, và y như hồi nãy, có tiếng chơn người bước xuống thang gác, và Hoa cũng nói :

– Chị tôi xuống thay phiên cho tôi.

– Vậy hà, trời ơi, tôi làm phiền cả nhà.

Long ngượng miệng mà phải lặp lại lời đã nói rồi nhưng không thể không nói điều đó.

Hồng vào nhẹ như một cái bóng, và đi ngay lại chiếc ghế đầu giường, nên Long không hay. Chàng hơi buồn mà nghe Hoa nói :

– Thôi chào ông, tôi đi nghỉ đây, chúc ông ngủ yên.

Chàng nhìn theo cô nữ-khán-hộ và thưởng thức tướng đi khá uyển-chuyển của cô rồi cứ trông về hướng cửa mà đợi người thay thế đến. Nhưng sao lâu quá mà người ấy không thấy vào.

Long buồn cười cho mình. Đã bảo người ta nghỉ, đừng có canh gác nhọc thân, rồi bây giờ lại bứt-rứt khi không thấy dáng người ta.

Mỏi quá, chàng nhắm mắt lại để tưởng-tượng mặt mũi của cô chị thứ ba nầy. Chàng hình-dung một cô gái rất xấu-xí để khỏi phải thất-vọng. Nhưng không thể được. Cô ấy cứ hiện ra, xinh đẹp trong trí tưởng của chàng. Nhưng xinh đẹp đến mức nào thì thật là không rõ-rệt.

Bỗng chàng nghe thốn nơi chơn, thốn như có ai siết hai khớp xương của chàng lại bằng kẹp bàn. Long cắn răng rên lên một tiếng nhỏ.

Hồng đang ngồi nhìn sâu bọ đổ xô vào ngọn đèn măng-sông, nghe rên, đứng lên rồi đi lại trước giường người bịnh.

Nghe động, Long mở mắt ra và kinh-ngạc hết sức. Chàng không dè giữa mấy chị em, nhan-sắc lại quá chênh-lệch như thế được.

Hồi nãy nhìn Hoa, chàng thấy cô Quá bớt đẹp. Nhưng bây giờ nhìn cô nầy, hai cô trước bỗng như không còn nữa.

Ngày trước Hồng là một cô gái đẹp. Cô ấy đã thành đờn bà. Sắc đẹp kia, nhờ thế được nâng lên đến quá mức chót. Con gái chỉ đẹp thôi, còn đẹp lộng-lẫy, đẹp mê hồn chính là đờn bà vậy.

Mặc dầu gần gũi phụ nữ rất nhiều, Long bỗng thấy bối rối trong lòng và ngoài mặt. Chàng chào cô nữ-khán-hộ thứ ba một cách vụng về và ấp úng nói :

– Tôi làm phiền cả nhà… làm phiền cô quá !

– Không hề gì. Ông có sao không ?

– Cám ơn cô, tôi nghe khoẻ-khoắn như không. Thưa cô, tôi là Long, họa-sĩ, tôi…

– Hân-hạnh, còn tôi là Hồng, con gái thứ ba nhà nầy.

– Thưa cô, cô có anh hay em trai nào không ?

– Không, ba má tôi chỉ có mấy chị em tôi thôi.

Long rất lấy làm kỳ cho gia đình Thái-huyên trang nầy. Đẻ toàn con gái. Con gái đang đến thời gả chồng, lại kéo nhau về cái xó hẻo-lánh nầy.

– Thưa cô, đây có phải là gần Thủ-Đức không ?

– Phải, còn năm cây số nữa tới chợ.

– Tôi nhớ lại ghê quá ! Tôi chạy có mau đâu, chỉ năm mươi cây số một giờ thôi. Nhưng đường trơn như mỡ, tôi tránh một người chạy sì-cút-tơ rồi xe trợt bánh đâm luôn vào lề đường.

– Xe nó lật một bận hay mấy bận không biết, chỉ thấy nó nằm ngửa nơi sân chúng tôi. Nhưng ông nên nín mà nghỉ thì tốt hơn.

– Không hề gì. May quá phải không cô, là trên lề đường không có trồng cây. Nếu có, thì xe tôi chắc đã xếp lại như cây đờn ắt-cọt-đê-ông, và tôi đã bị ép như mía ở các xe nước mía.

– Ông nói nghe ghê quá.

Hồng mỉm cười, Long thấy hai hàm răng của cô sao mà trắng và đều đặn lạ. Giọng của Hồng nhẹ và êm, không đả đớt như giọng đờn bà mình hạc xương mai, cũng không thô như giọng đàn bà thường.

– Mà đến hai lần may mắn đó, thưa cô. Nếu tôi đâm đầu vào một khu vườn khác, thì có đâu được biết cô.., biết gia đình Thái-huyên trang.

– Thôi, ông nín để nghỉ.

– Có những điều tôi cần nói đêm nay, không thôi không bao giờ có dịp nói nữa. Tôi đã được dịp nghĩ nhiều về sự tình-cờ và tôi tin là sự tình-cờ nào cũng do trời xui ra cả.

Cô Hồng châu mày, bực minh vì ông khách đã bắt đầu khó chịu. Cô bước lại ghế ở đầu giường, vừa đi vừa nói :

– Tốt hơn là ông nín để nghỉ

Thấy vẻ mặt bất bình của cô gái, Long giựt mình và hối hận đã nói nhiều quá.

Thế là hết ! Nãy giờ được nói nhiều với người không đẹp, bây giờ gặp giai-nhân, giai-nhân lại giận mình thì có chết hay không ?

Long lại nhắm mắt, chiếu lại trên màn ảnh tưởng tượng cảnh người con gái đẹp ngoe-nguẩy bỏ đi. Trời, người hẹp thì làm gì cũng đẹp, khóc đẹp mà giận lại càng đẹp hơn.

– Cô ơi, Long kêu người nữ-khán-hộ thứ ba, sau khi nín im một lúc rất lâu.

– Có việc gì, ông ?

– Nếu tôi chết đêm nay, phiền cò nói lại với má tôi rằng tôi thương má tôi lắm.

Hồng cũng hoảng sợ như em cô hồi nãy, chạy lại hỏi :

– Làm sao, ông nghe trong mình thế nào ?

– Tôi không nghe gì lạ cả, nhưng biết đâu.

– Để tôi mời ba tôi xuống.

– Xin cô tha cho. Làm phiền cụ mà chi. Ông cụ cũng không cứu tôi sống lại được, nếu tôi phải chết. Cô à …

Hồng không đáp tiếng gọi, nàng rối trí vì sư hăm-dọa của bịnh nhơn.

– Cô à, má tôi, một người đàn bà hiền từ, chỉ có một mình tôi là con thôi. Chắc má tôi khổ lắm…

Long đã toại-nguyện, gạt được người đẹp đến bên giường. Nhưng chàng không tìm ra được gì để nói cho hay.

– Tôi có món nầy, xin cô làm ơn trao lại dùm cho má tôi.

Long vừa nói vừa nhăn mặt thò tay ra túi quần sau để rút bóp. Chàng lấy trong một ngăn ra một chiếc lắc bằng bạch kim, trên mặt có khắc hai chữ H và L tréo nhau, đoạn trao của ấy cho Hồng mà rằng :

– Đây là món quà tôi tặng người yêu tôi. Nàng đã phụ tôi một cách công-khai, và gọi tôi lên Biên-Hòa để trao trả vật kỷ-niệm nầy, chiều hôm nay…

… Cô ôi, tôi đau còn hơn là cái đau chơn bây giờ. Tôi muốn má tôi để chung món nầy với các di-vật khác của tôi…

Long nghẹn-ngào thật sự, mặc dầu chàng nói láo. Chàng biết chắc chàng không việc gì, nhưng kêu chết để thảm-kịch-hóa giây phút nầy hầu có thể đưa ra một câu chuyện cảm-động. Chàng lại hết đau vì món quà bị trả lại. Vụ ấy xảy ra đã hơn một năm rồi.

Quả cô Hồng bị mắc bẫy. Trời ơi, một người bạn đồng cảnh-ngộ với cô đây mà ! Long chỉ muốn gây thương hại nơi lòng một cô gái mà chàng đoán là đa cảm. Chàng không dè mưu chàng có hiệu quả đến thế vì chàng đánh trúng ngay tim của một người bị tình phụ như chàng.

Cô Hồng mủi lòng đến khóe mắt hơi ửng đỏ. Cô cầm chiếc lắc mà mân-mê, nghĩ đến cái oái oăm của cuộc đời : một thiếu-nữ bị tình phụ trong khi ấy thì một thiếu-nữ khác lại phụ tình. Thì ra trong cái trò tình ái, các tay chơi không ăn rơ với nhau, nên mới sanh ra những cuộc lỏn-chỏn mãi-mãi.

Bỗng chuông đồng hồ báo thức lại reo lên.

– Chị tôi xuống thay cho tôi đó.

Long đã mệt quá vì từ đầu hôm đến giờ, chàng không có ngủ phút nào hết. Chàng không buồn cười được trước cái cảnh cứ tái diễn lại mãi nầy.

Lúc Hồng từ giã ra đi và Hương đến, chàng đã thiếp rồi.

Số phận cô Hương là số phận bị bỏ quên, bất cứ ở đâu và lúc nào. Nãy giờ người ta nói chuyện với nhau không đủ thì giờ mà nói cho hết. Đến lượt cô thì kẻ đối thoại đã thiếp đi.

Nhưng cô thấy đó là tự nhiên, vì ít tình cảm, ít mơ mộng lăng-nhăng, lại cũng vì không dè nãy giờ con bịnh đã có trò chuyện với mấy em của cô.

*

* *

Tiếng còi xe lửa Biên-Hòa hú lên sau xóm cùng một lượt với gà gáy hiệp sau.

Long choàng thức giấc và nhớ sực lại là có một cô nữ-khán-hộ thứ tư trong phòng nầy.

– Cô ơi, chàng gọi nho nhỏ, không chắc lắm rằng người ấy còn ở đây.

– Chi đó ông ? Ông khoẻ hay không ?

– Cám ơn cô, đã sáng rồi phải không cô ?

– Phải, và ba tôi vừa xuống Thủ-Đức.

– Tôi làm phiền cả nhà, làm phiền ông cụ quá. Không bao giờ tôi quên ơn Thái-huyên trang nầy. Thưa cô, tôi là Long, Hồ-văn-Long, họa sĩ.

– Hân hạnh, còn tôi là Hương con gái lớn nhà nầy.

Hương vừa nói vừa đi lại bên giường người bịnh rồi nói :

– Đã sáng rồi. Ông ở một mình có được không ?

– Thưa được. Cô cứ lo công việc nhà đi.

Long không thất vọng cũng không thấy Hương là xấu xí. Chàng không cần ai nữa cả, từ lúc gặp Hồng.

Cô Hương đi ra, thế là vãn hát. Cô chỉ diễn được có một cảnh gần như câm-lặng, không có gì gay cấn hết. Đến khi cô vào hậu trường, diễn viên còn lại và cả khán giả nữa, không ai tiếc hết.

*

* *

Các nhân viên cảnh sát đứng trước chiếc xe mà vẽ bản đồ. Người trong xóm cũng bu lại mà xem chiếc ô-tô giống như con bọ rầy bị ai đá té nhào nằm ngửa đưa bốn cẳng lên trời.

Ông Tư Hổ rất kiêu hãnh và nhắc lại vai trò ông thủ đêm vừa qua. Đó là việc quan-trọng nhứt trong đời ông, nên ông không quên, không kể sót một tiểu tiết nào cả.

Rồi cảnh-sát vào nhà. Điều-tra xong, họ hỏi Long :

– Bây giờ ông muốn nằm nhà thương nào ? Chúng tôi chỉ có thể gởi ông xuống nhà thương Thủ-Đức thôi. Ở đó người ta sẽ đưa đi nơi khác, tùy theo kết-quả khám bịnh cho ông. Còn như ông thích nhà thương nào khác, thì ông tự đi lấy. Coi bộ không sao mà, phải không ?

– Phải, tôi không việc gì cả. Thôi chuyện đó xin để tôi tính với ông chủ nhà nầy.

– Tốt lắm. Thôi ! Chào ông ! Cũng may, xe là xe của ông, lại chỉ có một mình ông là bị thương xoàng, nếu không, cuộc điều-tra sẽ phải rắc-rối, phiền phức hơn.

Cảnh sát ra nhưng cả nhà còn đông đủ, Long nhìn bà Nam Thành mà khi nãy chàng đã chào, rồi hỏi :

– Thưa bà, không biết bà có phải là bà chủ Thái-huyên trang ?

– Phái, chính tôi đây.

– Kính chào bà…

Từ lúc tỉnh hẳn và được biết rằng chủ nhà có con tuổi bằng tuổi mình, Long thấy phải kêu ông bà Nam Thành bằng cụ. Nhưng người nam của thế hệ ông Nam Thành không hiểu tiếng cụ ấy, nên Long đành phải kêu họ bằng ông bà.

Im lặng giây lát, chàng nói :

– Tôi đã làm phiền ông bà với lại quí cô đây nhiều quá. Ơn cứu tôi, tôi không hề dám quên. Mà cái ơn săn-sóc tôi đêm nay, tôi cũng sẽ nhớ mãi mãi. Bây giờ tôi…

– Hề gì, ông Nam Thành chận nói . Ai ở vào chỗ tôi cũng làm như vậy. “Ai” đó là kể cả thầy nữa.

– Ông dạy như vậy, chớ ông có bổn phận nào mà để tôi nằm lại đây đêm nay.

Ông Nam Thành cười ha hả rồi thật-thà giải-thích cử-chỉ tử-tế của ông.

– Thật ra là tại xe nó không chịu ngừng khi chúng tôi đón để đưa thầy đi. Lòng tốt của chúng tôi chỉ do đó mà phải có.

Long cũng cười.

– Nhưng ông có thể giao tôi cho hàng xóm, nghĩa là nhà chức-trách trong xóm nầy, rồi phủi tay.

– Nói rửa tay thì đúng hơn. Đêm qua mưa dầm lầy-lội quá, rớ tới đâu là dính đất ướt tới đó.

Cả nhà đều cười xòa, Long xin tiếp câu bỏ dở hồi nãy:

– Bây giờ tôi xin phiền ông bà và quí cô thêm một việc nữa, là đón giùm tôi một chiếc xe không bao cỏ, bao nhiêu tiền cũng được, rồi cho người khiêng tôi ra xe để nó đưa tôi về nhà.

– Ý, rồi dọc đường thầy có việc gì, xe nó hoảng nó liệng thầy vô bụi thì sao. Vả lại thầy gãy cẳng, gãy xương, về nhà rồi ai băng bó cho thầy ?

– Thưa ông, tôi nghe trong người của tôi khoẻ khoắn lắm. Còn gãy xương thì chưa chắc !

Cô Hương có theo học một khóa nữ-y-tá cứu-cấp, bước lại gần giường của Long mà nói :

– Hễ gãy xương thì không khi nào giở chơn lên được hết. Ông đau nơi chơn nào ?

– Chơn mặt, thưa cô.

– Vậy ông rán giở chơn mặt lên coi.

Long làm y theo lời của Hương. Nhưng chàng chưa nhúc nhích được chút nào mà đã nghe đau như bị cắt ruột. Chàng bậm môi lại, rồi cắn lấy môi, mặt nhăn như ruột của môt trái ba-lông bị một đứa bé nghịch nắm mà vò lại.

Cẳng Long từ từ giở lên khỏi mặt chiếc đi-văng bằng gỗ, giở hỏng cao lên độ năm phân. Long kêu ư… ư… ư…, chỉ nghe nho nhỏ thôi, nhưng đó là những tiếng kêu la to bị đè nén.

– Rán lên, Hương xẵng giọng mà giục. Rán lên nữa !

Tiếng ư… ư của Long cứ kéo dài ra, người ta có cảm-giác chàng chỉ rặn ra tiếng đó mà không dám thở.

Cả nhà nghe nằng nặng nơi ngực họ, y như là chính họ đang chịu đau đớn.

Cẳng chàng lại giở lên cao thêm được năm phân nữa.

– Để yên như vậy một lát thử xem. Hương nói như ra lịnh.

– Nhưng thầy ấy đau lắm rồi đó con ! Bà Nam Thành sợ hãi nói.

Tiếng ư… ư… vẫn còn kéo dài, nhưng mỏn lần và chơn của Long có mòi muốn hạ xuống. Hương bất kể lời mẹ, và đau đớn của Long, quát :

– Bảo để yên mà !

Tiếng ư… ư lại vang lên, lần nầy to hơn trước nhiều. Mọi người đều mồ hôi nhỏ giọt.

Thấy rõ là cô Hương lòng dạ sắt đá. Cá tánh của cô như thế, cô học nghề ấy là hợp lắm. Trông cô oai vệ như một ông tướng ngoài mặt trận, khiến cả cha mẹ cô cũng không còn dám mở miệng ra để phản đối nữa.

Long chịu cực hình ấy lâu gần một phút đồng hồ. Bấy giờ mặt Hương dịu hiền lại, và cô cười rồi nhỏ nhẹ nói :

– Ông để xuống được rồi.

Vừa nói, cô vừa thò hai cánh tay vào mà đỡ chơn Long để tránh giùm chàng một sự buông rơi vì quá mừng rỡ và vì không còn sức để hạ chân tư từ nữa. Sự buông rơi nầy cũng sẽ đau đớn không thua gì sự cất lên hồi nãy.

Hương mỉm cười với Long một cái để ngầm xin lỗi nạn nhân của cô, rồi day lại nói với cả nhà.

– Xương không thế nào gãy khi mà chơn giở lên được lâu như vậy. Cái nầy chỉ là trặc thôi, trặc xương hay trặc gân gì đó không rõ.

– Nếu như vậy thì khỏi cần bó bột phải không con ? Ông Nam Thành hỏi.

– Dạ thưa khỏi.

– Mằn chắc phải hết ?

– Nhưng muốn mằn cho dúng cách, cũng phải nhờ thầy thuốc, Hương nói.

– Cái đó còn tùy ! Ông Nam Thành không tin đốc-tơ lắm, nên cãi như vậy; danh từ thầy thuốc mà con ông vừa dùng, ông hiểu là đốc-tơ, vì cả nhà đã quen dùng thư vậy.

Bây giờ, chỉ còn đợi ông Nam Thành đáp lời yêu cầu của Long thôi, ngoài ra không ai còn gì để nói nữa.

Nhưng ông Nam Thành vẫn đứng đó làm thinh. Lâu lắm ông mới hỏi khách :

– Ai trông đợi thầy ở nhà… hừ.. . hừ.. nghĩa là tôi muốn hỏi những ai là người lo-lắng về sức khỏe và số mạng của thầy ?

– Thưa trên đời, hiện giờ tôi chỉ còn mẹ tôi thôi.

– Bà cụ ở đâu ?

– Thưa ở Saigon.

Ông Nam Thành lại lặng thinh. Nhưng im-lặng của ông lần nầy không kéo dài.

– Hay là thầy ở luôn đây có được không, ở đến khi nào đi được thầy về, tôi sẽ tin cho bà cụ biết tai-nạn đêm rồi, và nơi tĩnh-dưỡng của thầy ?

Tất cá những người có mặt đều ngạc-nhiên. Long thì không bao giờ nghĩ đến một sự tốt bụng quá như vậy. Bốn cô gái vốn biết ý cha không thích bị quấy rầy, nên không hiểu được thái-độ của cha hôm nay. Bà Nam Thành ban đầu chẳng những lấy làm lạ mà thôi, lại còn tức tràn hông khi nghe ông Nam Thành đưa vai mà gánh một gánh giữa đàng.

Nhưng bà nghe như là hiểu thấu thâm ý của chồng, nên dịu giận được. “Để rồi xem sao”, bà tự bảo như vậy

Long ngạc-nhiên và hốt-hoảng nói :

– Ý chết thưa ông, tôi còn làm sao dám làm phiền ông bà với lại quí cô đây lâu thêm nữa, bấy nhiêu đây đã là lạm dụng lòng tốt của Thái-huyên trang lắm rồi…

– Cái đó tùy ý thầy thích ở hay không thích ở. Còn phiền cho tôi thì thầy đừng lo. Có ai bắt buộc tôi đâu . Nếu tôi khi không mà đeo phiền, là tôi có lợi chớ không phải làm ơn cho thầy đâu.

– Phiền gì mà phiền. Bà Nam Thành nói. Chúng tô chỉ lo thầy chết thôi. Nỗi lo-lắng của chúng tôi đêm rồi có nặng thật đó. Mà đã qua rồi. Bây giờ thầy không chết nữa… bà nói tới đoạn nầy thì tất cả mọi người có mặt đều cười xòa. . . không chết nữa thì tiếp thầy, như tiếp một người khách thường, có gì đâu.

– Tất cả cực khổ vì tôi, bốn cô đây phải gánh lấy hết, tôi rất…

Bốn cô gái thấy câu chuyện gần ngã-ngũ hay hay như trong tiểu-thuyết, cũng muốn nó ngã hẳn ra như vậy, nhưng ngại nên không đưa ý kiến ra. Bây giờ nghe khách sắp nói, cả bốn cô đều chận lời khách :

– Ông đừng ngại . Chị hai tôi cần thực-hành những điều đã học được, còn tôi thì…

– Chúng tôi tới bốn chị em, chia sớt nhau công việc sẽ không nhọc lắm đâu.

– Ông không chịu nằm nhà thương, về nhà làm khổ bà cụ biết bao.

– Ông không chịu cũng không được nữa. Hương nói. Ông bị thiểu số rồi đó.

Long chỉ cười, cái cười giống hệt như sự nín lặng của cô con gái kia khi cha mẹ cô ấy hỏi cô bằng lòng lấy chồng hay không.

– Ông chịu rồi chớ ? Không, hẳn là ông chịu rồi. Quá nói lia nói lịa, không để cho khách kịp đáp. Rồi bốn cô vụt chạy biến mất như một đàn chim sẻ.

Long nằm đó, như vừa qua một giấc mộng. Câu chuyện thật là oái-oăm. Đêm hôm qua, chàng đi một vòng Biên-Hòa có chút việc, đã chạy ngang đây mà không thèm ngó vào. Đùng một cái – Ừ thật là đùng một cái – chàng đâm đầu vào sân người ta, báo người ta thức suốt đêm, rồi bây giờ trở thành bạn của cả nhà.

Chuyện hơi giống giống câu chuyện của những tiểu-thuyết tình lãng-mạn, một cô gái cứu một cậu trai thọ nạn, rồi hai đứa yêu nhau, lấy nhau. Nhưng ở đây có tới bốn cô gái, thì…

*

* *

Lẽ cố nhiên là Hương giành phần cực. Thường ngày, mỗi sáng nhà ăn khoai, ăn xôi, hoặc cơm, cháo. Hôm nay có khách quí, Hương phải nhúm lửa sớm để nấu nước chế cà phê đãi khách.

Cô nữ-khán-hộ chánh-hiệu con nai ấy vì vậy không có mặt được trong buổi đại-hội y-học thảo-luận về cách điều-trị con bịnh.

Bà Nam Thành bảo Hồng vô xóm trong mời ông thầy hai Sửu, là ông thầy thuốc Nam biết giải ngãi và mằn xương.

Ông Nam Thành ngăn :

– Đừng, đừng có báo hại người ta rồi mình mang khổ lây. Tôi thấy lang băm họ mằn, nhiều khi lọi xương người ta luôn suốt đời.

– Chớ làm sao bây giờ ? Không lẽ để người ta…

– Xuỵt, nói nhỏ nhỏ, bà quên rằng ở đây không có vách gạch, ở buồng đầu mà nói chuyện thì ở buồng cuối nhà nghe không sót một tiếng.

Hồng nói :

– Loài người trước khi có bọn lang giết người, chắc họ để tự-nhiên những bịnh tật nho nhỏ. Không nghe sách vở xưa nào nói ai trặc chơn mà mang tật luôn vì đã để tự nhiên, không săn-sóc ; con nghĩ, cứ để vậy, vài bữa ông ấy sẽ đi được.

Ông Nam Thành nhìn con mà ngạc-nhiên trước lý-luận sáng tỏ ấy.

– Ừ, ông nói, sau một hồi suy nghĩ, hay là cứ để vậy. Nhưng phải làm cái gì cho ông ta đỡ đau.

– Cái đó dễ ợt, chị hai con là bà lang tây rất dốt. Nhưng ít ra chị cũng biết một vài thứ thuốc thoa bóp cho dịu sự đau đớn.

– Tốt lắm. Thôi thì tụi bây thỏa-thuận với nhau mà phân công để săn-sóc ông ấy. À, ba quên mất…

Nói chưa hết câu, ông vội vàng bước qua phòng bịnh.

Hương bưng cà phê lên, cũng vừa bước vào buồng. Thấy vậy, ông Nam Thành kêu vói ra ngoài :

– Quá ơi !

– Dạ !

– Đi lấy con vịt, mau nó con.

– Để ở đâu ba ?

– Ai mà biết. Hôm dọn nhà mẹ con bây có bỏ quên dưới Saigon hay không ?

Nghe bà Nam Thành nói nho nhỏ :

– Thì cất chung với chén bát trong tủ đồ sứ ở buồng ăn, chớ ở đâu mà om sòm lên như vậy. Con gái hư, không sợ người ta cười cho.

Long nghe thì biết gia đình nầy dọn lên đây không lâu. Cô Hương đặt tách cà phê lên một chiếc bàn con đã được ai kéo lại sát đi-văng.

– Mời ông uống cà-phê sáng. Nhà hết cả sữa, ông tạm dùng đỡ cà phê đen vậy.

– Tôi chỉ dùng cà-phê đen thôi, Long nói, để hưởng trọn mùi cà-phê. Nếu tôi nói nữa thì thành ra khách sáo. Vả tôi đã nhận ở đây, mà còn ngại thì hóa ra giả dối, nhưng quả thật tôi làm phiền cả nhà.

– Hãy khoan, ông Nam Thành không thèm chú ý đến thắc mắc của khách nữa, mà chỉ lo ngăn khách dùng bữa sáng thôi. Hãy khoan, đợi con vịt đã.

Ông nói vừa dứt lời thì Quá đã bước vào, tay cầm một con vịt bằng sứ trắng.

Long ngạc nhiên lắm, ít có gia-đình Việt-Nam nào biết dùng món đồ ấy. Chỉ có nhà thương to và vài họ được Âu hóa mới sắm nó thôi.

Đít vịt khoét lỗ rộng để đổ nước vào, mỏ vịt khoét lỗ nhỏ để nước rịn vào miệng những bịnh nhân không ngồi dậy được.

Quá sang cà-phê qua con vịt sứ rồ trao cho Long.

– Cám ơn cô hai và cô.

Nói xong, chàng đưa vịt lên, mút mỏ nó như trẻ con mút nóm vú không mà chơi .

– Kỷ-niệm của một me tây đó. Ông Nam Thành vừa nói vừa cười. Ông tây ấy ổng bị thương nặng, nằm nhà thương đến năm sáu tháng, rồi về Tây luôn. Nhưng thầy khỏi lo, tôi đã trụng nước sôi rồi mới dùng, không có vi-trùng đâu.

– Cháu không sợ vi-trùng lắm đâu.

Long giựt mình là nghe mình xưng cháu. Tiếng cháu tự nhiên mà vọt ra, chàng không hề định trước, nói xong, nghe dư âm nó, mới biết là minh đã lỡ lời.

Chàng thuộc vào một gia đình giàu có lâu đời, lịch-sự quen rồi, nên nay nói lỡ một tiếng là sợ-hãi lắm.

Nhưng những người có mặt hình như thấy điều ấy là thường nên chàng xét nét mà không bắt gặp phản-động nhỏ nào trên gương mặt của ba người.

– Cà-phê ngon quá ! Chàng khen để quên lo sợ của mình, chớ thật đó là cà phè cắc chú, khá hơn cà phê các tiệm nước một chút xíu vì đây là tách đầu.

Ông Nam Thành nói :

– Tôi cần biết tên với lại địa chỉ của bà cụ để đi báo tin ngay.

– Thưa ông, không cần đi lắm. Tôi viết thơ ông gởi dùm tôi cũng được rồi.

– Nhưng thầy đi không về thì bà cụ lo lắng lắm.

– Thưa, má tôi quen rồi, tôi thì đi vắng luôn, và đi không có hẹn giờ nào, ngày nào về cả.

– Thôi cũng được. Nhưng như vầy thì thầy nên nghỉ cho khoẻ cái đã, rồi viết thơ cũng chẳng muộn.

Trong khi đó thì cô Quá đã trở vào với hai bức tranh lộng kiếng không khuôn mà vì vách trĩ khó treo thứ đó nên từ lúc dọn nhà đến nay, họ cất luôn.

Hoa lại mang về một bó hoa mà cô hái ở xóm trên. Chỉ là hoa giấy tím thôi, nhưng căn buồng cũng tươi nét lên hơn trước nhiều.

Ông Nam Thành ra hiệu cho các con lui trước rồi chính ông cũng đi ra, giây lâu ông trở lại với một bộ đồ mát của ông. Đóng cửa cẩn thận rồi ông nói :

– Bây giờ tôi giúp ông đây !

*

* *

Hôm ấy cô Hồng đi chợ. Bà thầy lang khỏi phải làm bếp một bữa để rảnh tay mà khám bịnh kẻ bị nạn.

Long bị bầm thịt nơi sau ót, lòng bàn tay trái trầy rướm máu mà không ai thấy, chính chàng cũng không hay. Chơn trái của họa-sĩ cũng trầy rướm máu nơi bắp chuối, chơn mặt thì bầm tím gần một chục nơi. Có chỗ lại sưng lên và đỏ như da trẻ sơ-sanh.

Cô Hương có mang đến nhiều lọ thuốc, để trên bàn, cô chọn một lọ mà Long nhìn thấy chữ đề trên nhãn là “Baume adoucissant”.

Chàng mỉm cười thầm : “Ngỡ gì, thứ ấy để thoa cho em nhỏ thì được, người lớn thì cần quái gì”.

Chàng nói với cô nữ-khán-hộ:

– Cô bảo đúng lắm. Xương tôi không gãy. Tôi nhớ có đọc sách về cấp cứu, trong đó người ta cũng dạy như vậy.

– Nhưng trặc cũng có lắm khi có hại. Mà ba tôi lại muốn để tự nhiên cho ông khỏi. Thoa thuốc nầy cho êm vậy thôi. Ông có muốn mời đốc-tơ hay không?

– Tôi nghĩ không cần. Nếu không khỏi, hãy mời không chết chóc gì mà vội.

Cô Hương thoa bằng cục bông gòn tẩm thuốc, đoạn dùng cục gòn ấy mà đánh lên những nơi cô tưởng là cần.

Long méo miệng vì đau mà không dám nói gì cả. Cô Hương thoa đánh một lát mới dừng tay, và bấy gìơ Long nghe như được giải thoát khỏi một khổ hình.

Chàng nhìn kỹ thiếu nữ thì thấy cô ta không xấu xí lắm như chàng đã in trí, lại có thể nói là dễ coi nữa. Người con gái đầu lòng nầy bị các em của cô lấn nước, nên phải chịu lép vế trước mặt họ. Nếu không có sự so sánh gần, thì người ta có thể cho cô là đẹp được.

– Thưa cô, cô có biết bó bột hay không ? Không tìm ra đầu đề câu chuyện, Long hỏi về nghề chuyên môn của nữ-khán-hộ tài-tử nầy,

– Bó bột là công việc rất dễ. Khó là biết kéo làm sao cho hai khúc xương gãy nằm lại ngay đường nhau và ráp làm sao cho hai đầu gãy ăn khớp với nhau. Việc đó tôi chưa thử lần nào, nên không tự tin lắm.

– Cô chắc tôi không bị gãy xương chứ?

– Chắc một trăm phần trăm.

– Cô lành nghề lắm. Việc nào biết chắc là dám quả quyết, còn việc nào còn ngờ là cô thú ngay. Cô học ngành nầy làm chi vậy cô?

Hương ngẩn người ra. Học nghề ấy làm chi, cô không thể cắt nghĩa với Long được. Đối với hạng người khác cô bảo là để giúp ích khi nào người ta cần đến mình. Nhưng lý lẽ cao thượng ấy không thể đưa ra được trước câu hỏi của chàng thanh niên nầy mà nàng đoán là thông minh và sẽ tế nhị nhận được giả dối của nàng.

Thật mỉa mai quá, rõ ràng nàng đang giúp ích khi Long cần được săn sóc. Nhưng cái rõ-ràng ấy lại không thật, không phải mục đích chánh nên không thể dùng nó mà đáp lời hỏi.
Giây lâu nàng đáp bừa, còn giả dối hơn nữa, nhưng nghe ổn hơn.

– Tôi học để tìm chỗ làm. Nhưng không ai dùng, người ta chỉ tuyển xung mấy chị đỗ đầu học khóa thôi, thành ra…

Con gái ngày nay cũng vẫn đợi chồng như con gái ngày xưa. Nhưng họ không ngồi đó mà đợi. Những người nghèo thì bươn chải tìm phương sống. Những người khá giả thì làm một cái gì để khỏi nghe trống rỗng quanh mình, miễn là hành-động được, đi ra ngoài được, có dịp phiêu lưu nho nhỏ cho đỡ buồn chán.

Long cũng biết rõ tâm trạng con gái thế hệ chàng, nhưng chàng thử hỏi vậy thôi.
Chàng hài lòng với câu đáp của Hương, vì xem ra gia đình nầy không khá giả bao nhiêu, con cái cần phải đi làm.

Bấy giờ, cô Hoa bước vào, mỉm cười với bịnh-nhân và hỏi

– Bà lang băm của nhà tôi có làm cho ông đau lắm không?

– Thưa không, tôi nghe đỡ nhiều.

– Không đau, nhưng chắc ông ấy nhăn mặt vì dễ chịu, Hương cười nói.

– Bà lang băm nầy lại là tay nhổ răng cừ khôi, Hoa đùa chị với khách, ngày sau ông có nhức răng thì cứ lên đây. Bả sẽ lấy chỉ cột răng ông vào một chiếc ghế, đoạn ý hà một tiếng, nói là có ma, hay có chó điên gì kia, thế là ông hoảng, nhảy một cái thì răng rụng ngay.

Cả ba đều cười xòa, đoạn Long nói:

– Cô Hoa ơi, cô làm ơn cho tôi một tờ giấy với lại một cây bút chì cũng được. Tôi muốn viết thơ cho má tôi.

– Kìa, trên đầu nằm ông đó.

Long quay đầu ngược lên thì quả thấy trên bàn con có giấy bút và sách báo mà cô nào đã đem vào lúc nào chàng không hay!

– Châu đáo quá! Các cô thật là…

– Thôi, chị em tôi ra, để ông yên mà viết.

*

* *

Trở Về

Tìm Kiếm