ĐÒ DỌC (Chương 6)

Không quen ở nhà trống trải, Long thấy nắng bên ngoài chói lòa quá. Ánh sáng sớm lại chĩa xiên qua vách trĩ long mốt, đâm vào buồng ăn kế cận như là cuộc xâm nhập của khách không biết đều.

Không quen thì nghe khó chịu, chớ chàng vẫn biết trống trải như vậy là hạp vệ-sinh; chàng lại nhận thấy cả vẻ đẹp của tấm vách trĩ lọc ánh nắng ấy nữa. Bức tranh nắng lòn khe vách, là một bức tranh đẹp đang được thai nghén trong trí chàng kể từ phút nầy.

Long quan sát căn buồng, thấy nét đạm bạc của nó rồi thương gia đình nầy không biết bao nhiêu. Đó là những người hiền lành, không tham vọng lớn và nhờ vậy không ganh tị với đời, tốt bụng và sẵn sàng.

Hai bức tranh lồng kính không khung là tranh Kiều, phụ bản của một biệt ấn ngoại quốc, có lần bán tràn lan trên vỉa hè Saigon.

Bàn ghế toàn là bàn ghế Ngã Bảy cả. Chiếc lọ dùng cắm hoa là lọ sành Lái Thiêu.

Tuy nhiên, nhà nầy có khiếu thẩm-mỹ. Nếu không họ đã treo tranh sơn mài xanh xanh đỏ đỏ có gắn chiếc thuyền bằng ngà vào đó, họ đã sắm lọ rẻ tiền của Nhựt Bổn rồi.

Long với tay lấy báo xuống xem qua : vài tờ báo hằng ngày quen biết, một tờ tuần báo chánh trị. Chỉ có một quyển sách thôi: quyển “Trại Bồ Tùng Linh”. Nhà nầy thật là biết điệu. Đọc “Trại Bồ Tùng Linh” ở đây phải chỗ vô cùng.

Long lật vài trang đầu và vài trang cuối sách để xem coi lần tái bản nầy có thêm bớt gì lạ không. Chàng nhớ lại cảm giác rờn rợn mà chàng đã có, khi đọc truyện nầy lần đầu cách đây mười mấy năm. Đó là một nỗi ghê rợn dễ ưa hơn là cái kinh sợ êm đềm nơi trẻ con khi chúng nghe kể chuyện ma.

Bỗng Long rợn người lên thật. Hay là mình lạc vào động hồ ly, chàng tự hỏi thầm. Câu chuyện kỳ quặc quá để có thể là một câu chuyện thật. Càng đáng sợ hãi hơn là ở đây có đến sáu con hồ ly…

*

* *

Hoa bưng vào phòng bịnh một chiếc mâm gỗ mít tròn, mượn của hàng xóm. Các gia đình miền Nam ở chợ không dùng mâm nữa từ mấy mươi năm nay rồi, nên Thái huyên trang có cần đến món đồ ấy là phải đi mượn.

Trên mâm, một tô gì lên hơi nghi ngút tỏa mùi thơm bắt đói bụng ra, mùi hành tây chiên, Long đánh hơi nghe biết như vậy.

Hoa đặt mâm xuống bàn và nói:

– Chị Hồng tôi ngại ông còn yếu, ăn cơm không tiêu hóa nổi nên nấu cháo.

– Cô Hồng nghĩ đúng lắm. Mà tôi cũng thích cháo lắm. Nhưng mà ăn rắc rối như vầy, chỉ khổ cho nhà.

– Có gì đâu mà rắc rối, ông.

– Thì phải lo thêm một món ăn, thêm bao nhiêu là công việc. Cứ cho tôi ăn cơm theo nhà, hẳn giản dị hơn.

– Không hề gì, bây giờ tôi đút cho ông ăn nhé?

– Ý chết! Trời, phiền phức quá như vậy, tôi ngại lắm. Như thế nầy, cô để mâm lên ngực tôi, chêm mền cho nó đừng lúc lắc, rồi tôi múc mà ăn lấy.

– Tùy ý ông.

Khi chiếc mâm đã được kè vững vàng. Long cầm muỗng nhưng vẫn chưa khởi ăn.

– Cháo gan, cô Hoa nói, nếu ông không ăn ngay thì gan sẽ chín, hết ngon đi.

– Cháo gan chín thì hết ngon thật đó. Nhưng chín thêm một chút xíu trong cháo hết sôi, sẽ không hỏng lắm đâu cô. Tôi có đọc sách thuốc về người Tàu, nên ngại ăn nóng lắm.

Tò mò, cô Hoa hỏi:

– Sách thuốc gì mà về người Tàu?

– Đó là một quyển hồi ký của một vị y sĩ Pháp đã ở bên Tàu trên hai mươi năm.
Ông ấy bảo người Triều Châu ưa mắc chứng ung thư nơi cuống họng. Ông ta đã ra công nghiên cứu trên mười năm để tìm ra nguyên do coi tại sao bịnh ung thư thường phát nơi cuống họng trong xứ Triều Châu thì ông tìm ra được nguyên do như sau đây: Người Triều Châu rất thích ăn nóng, lắm khi họ múc cháo đang sôi trên bếp mà ăn ngay và bảo rằng sách thuốc của họ dạy rằng ăn nóng thì tốt. Cuống họng của họ vì thế mỗi ngày bị cháy một chút cho đến vào một tuổi kia thì họ bị ung thư.

Hoa cười dòn rồi nói:

– Nhưng lâu lắm ông mới ăn cháo gan một lần, làm gì đến cháy cuống họng được.

Long cũng cười xòa, khi chợt nhận ra mình đã lo sợ vô lối.

Chàng múc một muỗng cháo, cẩn thận giữ cho muỗng nằm ngửa một cách thật thăng bằng rồi từ từ hạ muỗng xuống ngang miệng. Muỗng đầu ấy chàng múc rất may mắn vì trong đó có đủ cả: thịt bằm, gan sống, hành ta, và hành tây chiên.

Tối hôm qua, Long chưa ăn gì. Đau đớn quá, nên quên đói. Tách cà phê khi sáng dường như đánh thức sức đói của chàng nên giờ ăn cháo nghe ngon lạ. Mà cháo cũng nấu khéo thật, nên chàng khen:

– Cô Hồng quả là người nấu bếp tài tình.

– Chị hai tôi kia mới là tài. Tụi tôi đứa nào cũng chỉ xoàng xoàng thôi.

– Không, tôi khen thật tình chớ không phải vì lịch sự. Nếu xoàng mà được khéo như vầy, thì nhà nầy là quán quân nấu cơm trong nước.

Long ép hai hàm răng lại, miếng gan chín sơ lớp bọc mỏng ở ngoài, bể ra, và nước gan ngọt rỉ trên lưỡi chàng khiến chàng không muốn nuốt mà cứ để yên đó đặng ngậm mà nghe cái vị gan sống tuyệt diệu kia.

Cô Hoa ra ngoài khi Long ăn gần xong. Cô trở vô với cái tách nước trà nóng.

– Ba tôi bày vẽ con vịt, nhưng ông đã tự ăn cháo được thì chắc ông cũng uống nước được và không cần con vịt phải không ông? Dùng vịt xem ra có vẻ…

– Ừ, có vẻ bịnh hoạn quá, tôi thích nghiêng tách mà uống hơn.

Bấy giờ cô Quá vào, tay cầm một chiếc khăn lông nhỏ khổ.

– Để ông lau mồ hôi, cô nói. Ăn cháo nóng, thế nào cũng đổ mồ hôi.

Hai cô con gái chưa ra thì ông Nam Thành đã vô.

– Sao, thầy nghe đỡ hay chưa?

– Thưa ông, đỡ nhiều lắm.

– Thầy có gì thì gọi chúng tôi. Thầy lắc cái chuông nhỏ nầy thì có người tới.

Ông Nam Thành vừa nói vừa đưa ra một chiếc lục lạc chớ không phải chuông, và thêm:

– Thôi, thầy nghỉ trưa.

Cả ba người đều lặng-lẽ đi ra. Long thấy mình được săn sóc châu đáo quá, nên hơi khó chịu. Nếu người ở Thái-huyên trang lơ-là hơn, chắc chàng cũng sẽ khó chịu. Nhưng sự vừa chứng không thể có được, người ta tống cổ chàng đi ngay, hay người ta quấn quít quanh chàng để làm cho chàng dễ chịu, không thể khác hơn được.

*

* *

Thái huyên trang ăn cơm trưa bữa đó ở sau bếp chớ không phải tại buồng ăn như mọi ngày.

Ông Nam Thành tiên liệu rằng vợ con ông thế nào cũng nói đến khách, nên ông muốn họ ngồi xa khách, e câu chuyện thấu tai Long chăng.

Nhưng cả nhà không ai nói đến người bị tai nạn xe hơi cả. Họ đồng lòng tẩy chay ông ta, đồng lòng làm reo im lặng suốt bữa.

Ông Nam Thành thấy sáng kiến của mình làm khổ vợ con, nên không dám nhắc tới nó, sợ bà nổi xung lên bất tử. Bà Nam Thành không tha thiết tới khách nhiều nên chỉ bàn rộng về vụ giựt hụi mà bà thấy đăng trong báo khi sáng.

Bốn cô con gái thì cố nhiên tránh đả động đến một thanh niên vào hạng Long, mặc dầu họ rất cởi mở về việc chồng con. Họ chỉ cởi mở khi bàn tổng quát về ái tình, về hôn nhơn thôi. Nói đến riêng một người, họ vẫn ngại như thường. Gã tình nhơn, người vị hôn phu tưởng tượng là kẻ vô hình, là của chung, không gợi nghi ngờ nào được. Một thanh niên bằng xương bằng thịt có thể gây xuyên tạc, và ngộ nhận.

Lúc bữa ăn sắp tàn, ông Nam Thành hốt hoảng:

– Chết, không biết thầy ấy có đưa thơ cho ba chưa, nếu có, ba để đâu, ba quên mất rồi.

Tất cả những gì bị đè nén, như được dở nắp cho bung lên.

– Quên thì thủng thẳng sẽ kiếm, làm gì mà sợ hãi dữ vậy, bà Nam Thành cằn rằn.

– Chưa ba à, con thấy ông ấy chưa viết thơ, Quá nói.

– Coi bộ thi sĩ dữ, Hoa bàn. Cầm bút đặt lên giấy, rồi lại nghĩ chuyện khác, quẹt bậy bạ lên đó.

– Sao mầy biết là bậy bạ, Hương hỏi, người ta là họa-sĩ, chắc người ta gặp hứng nên phải vẽ phác ra liền đó chớ.

– À, ông ấy thế nào?

Cả nhà cười rộ sau câu hỏi của Hồng. Cô bé hôm nay vùi đầu vào bếp mãi đến bữa ăn trưa, nên không rõ bịnh tình của khách ra sao.

– Khen chị dữ lắm đó. Quá vừa nói vừa cười. Nói chị nấu cháo khéo số dách, tặng chị chức vô địch về ngành hỏa-đầu-quân.

Câu nói đùa của Quá là vị cứu tinh của bốn chị em. Từ đây, họ dám nói đến người đó, một người đã biến thành đối tượng của sự cười đùa của họ, và vì thế, hóa ra vô-công-phạt.

– Tao vái trời cho chúa nhựt nầy anh Bằng lên chơi. Hồng nói, để ảnh trả thù dùm tao. Mầy đừng có làm phách.

Gì chớ về môn đùa các cô em họ về vụ đó, thì Bằng là tay có nanh vuốt. Cả bốn cô em đến sợ anh ta, nên Hồng mới dọa thế.

– Biệt cửa sợ đó, Quá thách.

– Ừ, để rồi xem.

Họ vừa ăn cơm xong là trời phủ mây đen ngòm. Quá vội vã đi lấy vải bố để che vách nơi buồng bịnh. Bấy giờ Long đã thiếp ngủ, nên nàng làm việc thật nhẹ rồi rút êm ra ngoài.

*

* *

Trời mưa cho đến ba giờ trưa mới dứt hột. Quá cất đồ len đương đan dở chừng vào bị, rồi bước qua phòng bịnh.

– Ông có lạnh lắm không? Nàng hỏi vì thấy Long đã thức.

– Thưa không, còn trái lại nữa. Mưa đầu mùa mà cô.

– Nhà cửa, vách, lôi thôi quá, tôi cứ lo gió vào nhiều.

– Tôi còn mong cho nó vào thường hơn nữa cô à.

Cô Quá nói “Gió vào nhiều“ và ý cô muốn chỉ về lượng. Nhưng Long lại nói “Nó vào thường”. Tiếng Nó và tiếng Thường có thể hiểu về sự năng vào của ai đó. Không rõ Long có cố ý nói hai nghĩa hay không, nhưng Quá thì hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa ngầm của tiếng “thường“ ấy.

Nàng bối rối lên và bỗng dưng đâm ra hổ thẹn. Lần đầu tiên cô gái rắn mắc và kỳ khôi ấy mắc cỡ trước một người con trai.

Đã sống nhiều, tuy năm nay chàng mới có hăm bảy tuổi thôi, Long thấy là hiểu ngay. Chàng hối hận lắm khi nhớ ra tiếng Thường của mình quá mờ-ớ, quá phân-hai, nên cô gái thơ kia mới ngộ nhận như vậy.

Chàng không yêu Quá, cũng không xem được nàng là một cô gái thường ; trong gia đình nầy, người nào, chàng thấy cũng đáng kính nể cả, nên chi chàng không thể để cô bé hiểu lầm mình như vậy mãi.

Chàng cố tìm một lời đính chánh khéo, nhưng tìm hoài mà không ra. Khi người ta quýnh lên, người ta vội vàng và rất dễ sai lầm tai hại. Long nóng nảy muốn phá tan ngộ nhận ngay mà vì bí quá nên nghĩ rằng chàng phải nhấn mạnh về chỗ bé bỏng của cô gái, cho cô ta bị tự ti mặc cảm không còn nghĩ mình được yêu nữa.

– Cô Út à, chàng hỏi, năm nay cô được bao nhiêu tuổi.

Không ai vô lễ đi hỏi tuổi một cô gái, Long nghĩ rằng Quá biết như vậy. Chàng lại kêu cô bằng cô Út để cho cô ta nghe mình còn bé lắm nên mới bị gọi và bị hỏi thế.
Nhưng Quá không hiểu và thấy đó là một bước tiến đến sự thân mật của Long, nên đáp:

– Dạ, em hăm hai.

Cô xưng em, chớ không phải xưng tôi như trước và như các chị của cô nữa.
Long hoảng sợ hết sức. Vô tình chàng đã xui cho Quá hiểu lầm thêm, một sự hiểu lầm có thể gieo tai hại không biết đến đâu mà lường.

May sao, giữa lúc chàng đang khó nghĩ thì Hoa vào, tay cầm đèn tọa đăng thắp dầu hôi. Nàng nói:

– Ba tôi nghĩ thắp đèn măng-xông như đêm rồi chắc ông chói mắt. Vả lại ông cần đèn chong sáng đêm, mà măng-xong chong sáng đêm lại bất tiện. Vậy xin ông bằng lòng với cây đèn dầu nầy.

– Dạ được, đèn dầu hôi là quí lắm rồi. Tôi có ở nhà quê một lúc, họ không thắp đèn gì hết mới là khổ chớ.

– Nhưng như vầy ông không đọc sách ban đêm được nữa.

– Tôi không dám đọc sách ban đêm đâu cô.

– Sao vậy?

– „TRẠI BỒ TÙNG LINH” mà quí cô cho mượn, đọc ban ngày cũng đã rởn óc rồi, đọc ban đêm, chắc tôi phải la làng.

Cả ba đều cười xòa, rồi hai cô gái lui ra.

*

* *

Thế là một chiếc đò dọc đã ghé bến, trên giòng Thiên lý.

Các cô Thái-huyên trang đã tuyệt vọng từ mấy tháng nay, lại càng tuyệt vọng hơn từ hôm xa- lộ Saigon – Biên Hòa được khởi công.

Xa-lộ ấy sẽ xuyên-tạc con đường Thiên lý, đưa sự quan trọng qua hết bên kia, và khúc đường trước nhà sẽ cô quạnh như một con đường làng.

Nhưng người trai mong đợi đã đến trước ngày khúc đường của họ bị mồ côi, đến trong một trường hợp kỳ dị, gần như họ ước trong mơ.

Hôm đầu các cô bị xúc động mạnh trước tai nạn nên chỉ nhớ đến sự ghê gớm của vụ lật xe thôi. Bây giờ ác mộng đã qua, các cô lắng nghe tình cảm mình xem nó thế nào khi giấc mơ hão hằng ngày đã được thực hiện.

Cô Hương vỡ mộng ngay từ lúc cô săn sóc lần đầu cho người khách trẻ tuổi. Không, cô không còn son trẻ nữa để có thể bị được lôi cuốn trong những cuộc phiêu lưu tình ái hay tình cảm nào. Người mong đợi còn trẻ, dường như là trẻ hơn cô, khó lòng mà bảo yêu cô được, cô biết thế.

Cô Hồng tuy mong gặp lại người tình cũ, chớ không phải mong hão một tao nhơn mặc khách nào, nhưng vậy, cô vẫn nghe lòng xao xuyến khi người nầy đến.

Y đến, rồi y lại thố lộ niềm riêng, nào là bị tình phụ ..v..v.. khiến cho Hồng như bị y nắm con dao đang cặm trong tim cô mà lay động. Cô nghe niềm đau cũ đang tạm êm dịu bỗng thức dậy mà hành hạ cô.

Tuy nhiên cô không ân hận đã đón tiếp người khách bất ngờ ấy. Đau khổ dầu sao cũng vẫn dễ chịu hơn là cái trống rỗng của những ngày tháng bằng-phẳng, không thấy tăm dạng hy vọng nào cả.

Cô Hoa thường được người ta khen là gái có bản-lãnh nên cô hay lập dị để tỏ ra ta đây quả thật có bản-lãnh.

Vụ nầy là một đầu đề cho cô đùa. Cô bảo đó là một cuốn tiểu thuyết mà kết cuộc sẽ không hay ho gì đâu. Đứa nào dại, nhảy vô làm nhơn vật cho tiểu thuyết ấy, sẽ khổ cho mà xem.
Cô chế nhạo Long là một thanh niên nhiễm tiểu thuyết, làm bộ lãng mạn để thơ-mộng-hóa mọi việc, nói thì châu mày, làm thinh cũng châu mày, luôn luôn ra vẻ nghĩ ngợi đâu đâu.

Tóm lại cô làm như ta đây không mảy may bị chuyện ấy làm xúc-động, và ta sẽ mất uy-tín đi, nếu ta để tâm đến một chàng thanh niên mới đến trong đời ta.

Cô Quá, trái lại nghe lòng xao xuyến lạ kỳ. Cô gái nầy, lúc còn ở thành, chưa biết yêu. Cô chỉ mới bắt đầu bâng khuâng từ khi dọn về Thái-huyên trang thôi, bâng khuâng trước những đám mây chiều, trước trận bay của trái sao, trái dầu, trước giọt tranh xoi cát bên thềm hay đánh nhạc lên một cái chén bể vứt ngoài sân.

Người khách đến giữa lúc tình yêu của cô mới lố dạng, còn đi bơ vơ như một con thuyền không bến. Có phải đây là bến trong hay không, con thuyền tự hỏi, rồi ngập ngừng muốn cặm sào.

Bà lang băm Hương nhờ tổ đãi hay sao không rõ mà qua ngày thứ nhì, con bịnh đã ngồi dậy được một mình.

Sáng hôm ấy Long giựt mình thức dậy khi nghe con gà trống tơ ở nhà gáy lên. Chàng buồn cười lắm vì cái giọng bể như giọng con trai mười bảy của nó, muốn cố gắng cho thanh, cho oai, nhưng càng cố càng nghe khàn khàn và vụng về. Vui vẻ trong lòng, Long quên rằng mình đau ốm. Chàng ngồi dậy như không bị trặc chơn bao giờ cả, và lạ quá, ngồi được như thường, không còn nghe đau đớn nữa.

Ngồi xong, người họa sĩ trẻ tuổi nầy sực nhớ lại mọi việc và mừng rỡ vô cùng. Có trặc chưn gãy giò mới biết đi đứng được là sướng. Suốt ngày hôm qua, Long nghe bực bội vô cùng. Chàng nghe quanh chàng người ta sống, và chàng thèm sống biết bao! Cái ánh nắng mà ngày thường chàng xem như không có, nay sao mà quyến rũ lạ thường. Ngoài kia có lá rụng, có chuồn chuồn bay, có chó chạy, thế mà chàng phải nằm ì ở đây, không cục cựa được mà cũng chẳng nhìn những con vật ấy cục cựa được thì có khổ hay không?

Bây giờ thì sướng rồi đấy nhé! Chàng thò chơn xuống đất để tìm guốc dép, nhưng chạm phải đất lạnh teo.

– À!

Long à một tiếng dài rồi nhớ thêm ra là đêm ấy mình đi giày. Chắc chủ nhà cất giày mình đâu đó, mà không cho mượn guốc dép gì cả, vì không ai tiên đoán được hôm nay mình khỏi bịnh.
Long chấm những ngón chơn của chàng lên nền đất nện láng, cho nó làm quen với cái lạnh.
Giây lâu, liệu chừng cỡ bước xuống hẳn chắc không nghe ghê chơn nữa, chàng hạ hết hai bàn chơn xuống. Chàng vừa chống chơn để cất mình lên khỏi mặt đi văng thì nghe đau như ai bẻ gãy xương chàng.

Long thả rơi mình trở xuống đi văng, cắn răng mà chịu, giây lát mới nghe bớt đau. Chàng lẩm bẩm:

– Chưa được! Chưa được! Nhưng cũng đỡ khổ, có thể ngồi mà ăn uống.

Long cử động thử hai chơn thì không nghe gì nữa cả. Chàng đập hai bàn chơn lại với nhau để phủi bụi rồi rút chơn lên đi văng, ngồi xếp bằng lại.

Phát động cử chỉ ấy, Long buồn cười hết sức nhớ lại từ ngữ “Rửa chơn cạn“ của nông dân, và thấy lối nói của họ bóng-bẩy một cách linh động.

Long ngồi nghe gà gáy rán những chập cuối cùng, nghe xe lửa hú đằng xa, và nghe tiếng xe bò lạch cạch, lụp cụp trên đường nhựa.

Một lát sau, những chuyến xe đò đầu tiên trong ngày chạy ngang qua, nhắc lại lần nữa tai nạn của chàng.

Long bắt đầu băn-khoăn. Ngày hôm qua chàng phải nằm luôn, để cho người ta dâng cơm và nước thì còn coi được. Hôm nay đã ngồi dậy được nhưng vì chưa thể đi đứng nên phải ngồi mà ngó họ phục dịch mình như săn sóc đứa bé ba tháng, nó sẽ khó chịu cho mình biết bao!
Nghĩ tới đó, Long nằm xuống và quyết định giả đò chưa đỡ bớt để khỏi chịu cái ái ngại vừa thoáng thấy.

Ngày hôm đó những gì xảy ra hôm trước vẫn diễn lại y hệt: cà phê sáng, đánh dầu, thoa bóp, báo sáng, cơm trưa, nói chuyện với vài người nhà..v..v..

Long ngạc nhiên lắm mà không thấy bóng cô Hồng. Chàng nghe nói rằng hôm qua tới phiên cô ấy làm bếp . Nghĩa là hôm nay tới phiên người khác. Cớ sao cô ta không vào đây ?

Hôm nay chỉ có hai người săn sóc chàng: bà lang băm, lẽ cố nhiên vì không ai đủ khả năng thay thế cho bà, và cô Quá bưng cơm bưng nước vào.

Cô Hoa có lẽ đã tới phiên làm bếp nên không thấy dạng.

Muốn gặp mặt lại người đã gây tiếng sét trong lòng chàng, Long định hỏi tin cô ấy mà không dám. Chàng sốt ruột lắm không phải vì ngỡ cô ấy đau ốm hay bị tai nạn gì, mà vì chàng cho rằng cô ta thờ ơ với chàng nên không buồn đến. Chàng sốt ruột muốn gặp mặt cô ta, nói qua nói lại vài lời để đoán ý nghĩ của cô.

Ngoài cái nôn nao, Long lại thấy thất vọng như một đứa bé được nuông chiều, cha me bận một tí, quên cậu một tí là cậu nũng nịu ngay. Hôm qua người ta ra vào tấp nập, chàng ngại lắm. Hôm nay người ta ra vào vừa phải chàng lại nghe tủi thân. Một con bịnh thì hai người săn sóc là đủ lắm rồi, còn đòi hỏi gì thêm? Thế mà…

Mãi cho đến xế chiều, Hương vào thoa thuốc lần thứ nhì, Long mới dám đánh bạo hỏi:

– Thưa cô hôm nay ai làm bếp?

– Em Hoa tôi.

– Hèn chi tôi ăn nghe khác.

– Khác làm sao được, Hương cười mà cãi lại như vậy. Hôm qua ông chỉ ăn cháo. Bữa cơm hôm nay, cho dẫu ai nấu, ông cũng không thể nghe khác.

Long giựt mình. Thì ra khi con người ta giả dối thì con người ta ló đuôi cùng khắp thân thể, không giấu được, mặc dầu khéo léo bao nhiêu. Nhưng chàng cũng cãi bướng.

– Nghe thấy được chớ. Bằng cớ là tôi đã nghe thấy.

Hương tánh thật thà, không nghi kỵ nên bỏ qua rồi hỏi:

– Thế em Hoa tôi nấu có khéo hay không ông?

– Khéo lắm, mỗi người một vẻ, nhưng ai cũng có đặc điểm riêng. Tôi chỉ ăn được món ăn của mẹ tôi nấu thôi, chị bếp ở nhà tôi chỉ được lặt rau, rửa chén là cùng. Quí cô là những người thứ nhứt, ngoài mẹ tôi, nấu ăn tôi ăn thấy ngon.

– Ông có khen quá lời hay không?

– Không, thật đó… à cô Hồng hôm nay chắc rảnh?

– Dạ nó rảnh… nghĩa là nó khỏi làm bếp một ngày, nhưng cũng phải làm công việc khác.

– Nhà nhiều công việc lắm sao cô?

– Không nhiều, cũng chẳng ít: cho heo, cho gà ăn, hái rau bán chợ, săn sóc cây trồng v. v..

– Nhưng cô Út vẫn vào đây được?

Ý Long muốn hỏi : “Bận thì ai cũng bận cả, sao người lại vào được, người thì không“.
Nhưng chàng không dám nói rõ quá, thành ra Hương không hiểu, nên đáp không vừa ý chàng:

– Ấy nó vào để đem cơm, đem nước cho ông.

– Mai nầy chắc tới phiên cô Út làm bếp.

– Dạ mai tới phiên nó.

Long đoán ngày mai cô Hồng sẽ đảm nhiệm phận sự đem cơm nước vào, nên bỗng vui rộn lên. Chàng nói để che lấp nỗi vui quá trớn có thể lộ ra trên gương mặt chàng!

– Nhà nầy thật là trật tự. Làm việc gì cũng theo thứ tự từ trên xuống, hay từ dưới lên.

– Ấy, như vậy cho dễ nhớ là tới phiên ai, khỏi phải ghi ra giấy. Tránh được cãi chối lôi thôi.

– Kỷ luật lắm!

– Ba tôi bày ra những kỷ luật đó đa. Mới xem thì thấy quá nề nếp, quá khô khan nhưng hay lắm.

– Phải, hay lắm.

*

* *

Hôm sau, cô Quá đi chợ chưa về, heo vừa thôi hét vì vừa được cho ăn, thì nhà có khách.

Người khách lạ hoắc thế mà cả Thái huyên trang đều biết là ai ngay từ khi người ấy mới bước qua cửa ngõ.

Ông Nam Thành đã giao thơ cho một anh lơ xe lô ca xông nhờ đem tận nhà, nên bà ấy mới hay tin sớm thế.

Bà khách vào trạc tuổi bà Nam Thành, không mập quá như bà, ăn mặc sang hơn, dáng điệu cũng rất sang.

Bà dòm bảng, thấy ba chữ Thái-huyên trang rồi mới vào sân.

Trong khi bà Nam Thành chạy ra đón khách, thì ông giữ con chó lại, cô Hồng thì bước ra sau ngăn con trích kẻo nó làm xằng.

Hai bà nhìn nhau, chào nhau rồi bà Nam Thành tươi cười hỏi:

– Có phải bà là bà phủ…

Không để chủ nhà phải hỏi hết câu, bà Phủ Ngãi đáp:

– Thưa phải. Còn bà là bà chủ Thái-huyên trang?

– Thưa phải. Mời bà vô nhà.

Khách tướng mạo oai vệ nhưng hơi bối rối trong lời nói, vì bà ta muốn nói hết nhiều thứ một lượt:

– Trời ơi, được tin, tôi điếng hồn ra. Tôi đội ơn ông bà hết sức đã cứu con tôi.

– Hề gì chuyện nhỏ ấy, thưa bà…

– … rồi lại chịu cực khổ mà săn sóc nó…

– Không nhọc lắm đâu, thưa bà!

– … nó đã đỡ chưa, thưa bà?

– Đỡ nhiều lắm.

– Thương tích làm sao, bà?

– Không bị thương tích nào hết, chỉ trặc chơn thôi.

– Hú vía, đó là nhờ hồng phước ông bà để lại cho, xe lật như vậy mà chỉ trặc chơn thôi thì thế gian hi hữu rồi.

Họ đã tới trong nhà. Ông Nam Thành bước ra thềm chào khách rồi mời khách vào. Cô Hoa rút xuống bếp để lo trà nước.

Bà khách vừa ngồi, đã nói lại những gì vừa nói với bà chủ nhà khi nãy. Ông Nam Thành cũng cãi là không có gì, chuyện nhỏ mọn ấy. Thấy bà khách hơi sốt ruột, chủ nhơn Thái-huyên trang hiểu ý, nên nói:

– Chắc bà nóng biết bịnh tình thầy ấy lắm. Xin mời bà bước sang bên nầy.

Bà phủ mừng quýnh lên nhưng cô Hoa đã bưng trà ra, và bà Nam Thành mời nước. Để được đúng phép lịch sự, bà phủ nén lòng ngồi nán lại mà dùng trà. Bà hỏi:

– Thưa ông bà, cô em đây là con của ông bà?

– Thưa phải, nó là đứa thứ tư. Còn ba đứa nữa.

Bà phủ hớp nước nóng vội vàng khiến ông Nam Thành cũng sốt ruột đứng lên nói với vợ:

– Tôi với bà đưa bà phủ qua bên ấy nào!

Cả ba cùng đứng lên. Ông Nam Thành đi trước dẫn đường.

– Bà cụ đã lên đây, thầy!

Ông chủ nhà mới bước qua cửa là đã nói to lên như vậy.

– Thưa ông, tôi nghe biết rõ rồi, tôi mừng quá.

Bấy giờ cô Hương săn sóc người bịnh cũng vừa xong, Bà phủ bước đến và được nghe giới thiệu: con thứ hai của tôi đó, bà Nam Thành nói rồi nhìn con mà rằng: “Bà phủ, thân mẫu của thầy đây“.

Hương chào bà phủ rồi rút lui. Bà nầy chạy lại con, ôm đầu nó như nó còn bé lắm, rồi hai mẹ con khóc với nhau một hơi. Đoạn bà hỏi:

– Bây giờ con nghe trong mình làm sao?

– Không có sao hết má à?

– Thật hay không, con đừng có dại mà giấu. Ấy thưa ông bà, thuở bé nó đi học, bị đòn lằn ngang, lằn dọc mà nó giấu tôi. Ngày nào tôi cũng phải khám xét cả.

Ông bà Nam Thành bật cười khi thấy bà phủ xem con cứ còn bé như trẻ lên mười. Long cũng cười ngất.

Có tiếng người xôn xao ngoài trước rồi cô Hoa bước vào thưa rằng người nhà bà phủ đã đem đồ từ ngoài xe vào. Bà phủ như sực nhớ nói:

– Xin phép ông bà, cho nó bước vào đây một lát, tôi có đem lên vài thứ cần dùng.

– Được, xin bà cứ bảo người nhà tự tiện.

Bà phủ đứng nơi cửa, ra dấu cho chị người nhà mang vào nào va ly, nào mền gối, nào giỏ đựng những ve hũ gì lu bù thứ và một gói sách thật bự.

Để cho mẹ con nói chuyện với nhau tự do, ông bà Nam Thành kín đáo bước trở ra buồng khách. Nhưng bà phủ cũng lót tót theo họ.

Trên bàn giữa nhà đã đặt nhiều gói đồ khiến ông bà Nam Thành chưng hửng. Bà phủ lại bàn, nhìn vợ chồng chủ nhơn Thái-huyên trang rồi trịnh trọng nói:

– Thưa ông bà, cái ơn của ông bà, chúng tôi chỉ biết ghi vào lòng chớ không dám tính đến chuyện đền đáp bằng thứ gì được hết.

Nhưng hôm nay tôi đến thăm ông bà lần đầu, xin có chút quà mọn ra mắt, gọi là làm quen, mong ông bà không từ chối để ông bà với tôi kết nghĩa quen thuộc lâu dài.

Bà phủ nói văn hoa, và dài dòng, nhưng bà nói trôi chảy như đã quen nói như thế thường rồi.

Bà Nam Thành lau qua mép trầu rồi đáp:

– Theo phép lịch sự thì vợ chồng tôi phải nhận quà quí báu của bà, không thể từ được. Nhưng phải chi bà mang lên ít thôi, gọi là tượng trưng thôi, thì vợ chồng tôi đỡ ngại biết bao.

– Thì ít đó chớ, thưa bà: chỉ có vài hộp bánh thôi với lại vài chai rượu.
Ông Nam Thành xin mở các gói ra liền. Gói đầu là sáu hộp bánh Pháp hiệu L.U, gói thứ nhì là bốn chai sâm banh hiệu MUM, gói thứ ba là khô gộc, toàn là xa xỉ phẩm mắc tiền không mà thôi.

– Nhiều quá! Ông Nam Thành nói và cười hiền lành.

– Chỉ có chút đỉnh thôi, để ông bà dùng lấy thảo đó mà.

Bà Phủ tặng quà xong, xin phép vào trong.

Vì không dè khách lên sớm như vậy nên bà Nam Thành không có chuẩn bị cơm khách. Cô Quá đi chợ về, bà soát giỏ lại thì chẳng có gì để dọn lên coi được. Bà hối các cô lập thế ví gà, bắt vịt để làm một bữa cơm thịnh soạn đãi khách.

Nãy giờ Long mừng quá, đã ngồi dậy, không giả đò nữa. Chàng bước xuống đất đi thử, vẫn còn nghe đau, nhưng rán chịu được.

Chàng lần vách mà ra ngoài, nhưng mới chập chững ra tới cửa thì bà phủ cũng vừa bước vô.
Bà mẹ nầy la hoảng lên khiến cả nhà sợ hãi, chạy tới đó cả. Cả Thái-huyên trang đều mừng rỡ, mạnh ai nấy nói.

Các cô con gái trở nên e dè từ khi có mặt bà phủ, cũng quên khép nép, nói tía lia, cô Quá tay đầy vảy cá, chạy đi rút cây chữ T còn mới, cất ở góc phòng, rồi trao cho Long mà rằng:

– Ông trở đầu chữ T lên, để dưới nách mà đi thì khỏi vịn vách nữa.

– Như ăn mày xách bị ấy à? Long cười và cả nhà cùng cười hoạ theo.

Long cảm động nâng dụng cụ kỳ lạ ấy lên mà xem. Có lẽ đây là một cái càn dùng để đẩy chiếc bao bố lau nhà, mà gia đình vừa mua xong thì phải dọn lên đây.

Ở đây nền nhà không có lót gạch, thành ra món ấy chưa được dùng lần nào, lại hoá vô dụng.
Chàng kẹp đầu chữ T vào nách và lần lần bước ra ngoài, cả nhà hồi hộp bước theo như để theo dõi những bước đầu của một đứa con trong gia đình.

Hồi hộp hơn hết là bà phủ. Bà lo sợ nhìn con chập chững bước, cảm động hồi tưởng lại ngày xa xưa kia mà bà đã sung sướng kèm sát một bên cậu bé mới tập đi.

Họ đã ra tới ngoài. Ôi, đời đẹp làm sao! Long nghe như mình vừa sống lại, đứng nhìn hết căn phòng đến sân vườn, rồi con lộ trước nhà, rồi cánh đồng bên kia lộ.

Cả nhà như kính nể nỗi vui thầm lặng của con bịnh vừa hơi khỏi, nên cũng đứng sau đó mà làm thinh.

Long thấy chiếc xe của mình nằm ngửa thì buồn cười lắm, day qua nói với ông Nam Thành:

– Xe lật như vậy, mà tôi không chết thì chẳng hiểu tại sao.

– Đừng có nói dại không nên, bà phủ rầy con.

Ngoài đường, ngay cửa ngõ, đang đậu một chiếc xe trắc-xông giống hệt chiếc đang nằm ụ trong sân.

– Nhà sắm tới hai chiếc xe lận sao bà? Bà Nam Thành hỏi.

– Dạ không, xe tôi dùng lên đây bữa nay là xe của chú nó. Tôi không đi đâu cả, nên không sắm xe làm gì. Chiếc xe lật là xe riêng của nó.

Họ vừa nói tới đó thì xe hãng bảo kê lên tới. Long đã viết hai bức thơ, một cho mẹ và một cho hãng bảo hiểm.

Nhân viên hãng vào nhà chào mọi người rồi hỏi thăm Long mọi trường hợp xảy ra tai nạn. Xong đâu đấy, họ ra để lật xe lại mà kéo về.

Các cô con gái đã tập hợp hết ở nhà dưới để làm cơm. Long xin phép ngồi trên chiếc ghế ở góc phòng.

Bà Nam Thành nói với bà phủ:

– Không mấy thuở bà lên, vợ chồng tôi mời quyết bà ở lại dùng với vợ chồng tôi một bữa cơm trưa lấy thảo với lại để mừng cho thầy đây qua khỏi được cơn nguy.

– Phải, hôm nay là ngày vui mừng, xin bà đừng bỏ qua, ông Nam Thành nài nỉ thêm.

Bà phủ cười nói:

– Đã chịu ơn nặng của ông bà, mà bây giờ còn làm rộn ông bà thêm thì là không biết điều lắm. Nhưng bà thật tình quá, tôi từ chối càng lỗi thêm. Vậy xin làm phiền ông bà bữa cơm khách nầy nữa.

– Không phiền rộn gì đâu, bà đừng ngại. Bà dùng cơm ở đây là làm vinh dự cho vợ chồng tôi đó.

Họ làm thinh giây lát vì chủ nhà không biết nói gì thêm để nuôi nấng câu chuyện. Bà phủ nhìn con rồi day qua vợ chồng ông Nam Thành mà rằng:

– Tôi xin ông bà một điều là đừng kêu thằng nhỏ bằng thầy nữa. Cháu nó chỉ đáng con cháu ông bà thôi. Huống chi nay nó đã mang ơn cứu sống của ông bà thì ông bà càng có quyền xem nó như con cháu.

Tôi thì nghĩ như vậy, mà không biết sự xưng hô thân mật có làm ông bà khó chịu hay không. Cái đó xin tuỳ ở ông bà. Nhưng nếu ông bà dễ dãi cho thì cũng nên cho phép nó xưng hô khác đi cho ra vẻ thân hơn.

Theo người miền Bắc, đâu ra đó, thì nó phải kêu ông, bà bằng cụ mới đúng cho. Ta không quen dùng tiếng cụ, kêu ông bà thì kém lễ độ. Thôi thì kêu như người thân nghĩ có hơn không?

Ông Nam Thành cười ra tiếng:

– Hổm này tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng chưa có dịp nói ra, vả lại không biết tánh ý của… của…

– Ông cứ kêu nó bằng cháu đi.

– … của cháu đây ra làm sao. Nay bà dạy như vậy, vợ chồng tôi thấy rất hợp lý.

Long đứng lên thưa:

– Thưa hai bác, nếu hai bác cho phép cháu xưng hô thân mật, cháu đội ơn hai bác lắm.

– Ừ thân mật thì tốt hơn.

*

* *

Hai mâm cơm dọn ra trên chiếc bàn dài, mỗi mâm bốn người ăn.

Anh tài xế và chị người nhà nài nỉ xin phần đem ra xe ăn, nói là để giữ xe. Thật ra họ tinh khôn, biết nhà không khá giả, ăn trong nầy báo người nhà phải dọn một chiếu dưới nữa thì khổ cho người ta.

Vợ chồng ông chủ Thái-huyên trang, bà Phủ và Long ngồi mâm đầu ngoài. Bốn cô con gái ngồi mâm đầu trong.

Bà phủ có dịp quan sát từng cô gái một. Bà có cảm tình ngay đối với các cô vì bà thấy đó là những cô gái hiền lương con nhà có giáo dục. Chỉ có thế thôi, bà không nghe gì khác hơn nữa.

Bà hỏi bà Nam Thành:

– Thưa bà, các cô đây, đã cô nào có đôi bạn chưa bà?

– Xin bà cứ kêu chúng bằng cháu. Có qua có lại mà! Thưa chưa, đứa nào cũng còn ở với tôi hết.

Không hỏi, ra lẽ vô tình mà hỏi lỡ rồi, biết được sự thật, bà phủ ngại quá. Bà lo chủ nhà khó chịu vì sự muộn chồng của họ.

Nhưng ông bà Nam Thành vẫn tự nhiên như thường. Các cô gái Thái huyên trang cũng vẫn bình thản ngồi ăn. Họ không hề bị tự ti mặc cảm vì tình trạng của họ.

– Món gà xào măng mạnh tông nầy khéo quá, bà phủ khen.

Rồi bà thêm:

– Hễ khéo thì làm gì cũng khéo. Mà không cần làm gi rắc rối, nội cái món nước mắm tương ớt đủ tỏ tài các cháu rồi đó.

– Thưa má, Long nói, từ thuở giờ con chỉ ăn được các món ăn do má làm. Nay con lại ăn thấy ngon món ăn của bốn cô đây.

– Tài chúng nó xoàng thôi. (Bà Nam Thành đỡ cho con gái khỏi bối rối trước mấy lời khen tặng trên đây mà bà nhận ra rằng thật ra không phải là quá đáng). Chẳng qua là bà và cháu đây lạ miệng nên ăn nghe ngon đó thôi. Tôi cũng thế, ở nhà sao mà ăn khó khăn quá, mà hễ tới đâu là ăn quên thôi. Còn cậu Long đây thì ăn lại sức đó mà!
Trong khi người lớn nói chuyện khách sáo với nhau Long duyệt lại bốn người bạn gái mới, so sánh dung nhan của họ và nhận ra rằng những cảm giác buổi đầu của chàng không sai. Hồng đẹp nhứt, kế đến Hoa, Hương thì già rồi còn Quá thì lại trẻ con quá.

– Nếu hôm nay tôi không ngồi dậy được thì cô nào cho tôi ăn cơm? Chàng cười hỏi một cách cố thờ ơ nhưng rất nóng đợi câu trả lời, vì chàng muốn thử xem sự đoán của chàng có đúng hay không.

– Tôi đó, ông à, cô Hồng đáp.

Quả chàng đoán không sai. Bà Nam Thành nghe lối xưng hô của con, nói với vào bàn trong:

– Các con kêu anh bằng anh, và xưng làm em. Ba má đã thoả thuận với… với… bác đây rồi.

Long tiếc lắm. Chàng mong đợi phiên Hồng. Nhưng đến cái phiên ấy, chàng đã phải ngồi dậy. Từ đây đến ngày về, sẽ phải ăn cơm ở đây hoài, không còn nói chuyện tay đôi với Hồng được nữa.

Không tìm được gì thêm về vấn đề cho ăn cơm, Long bước đột ngột sang chuyện khác.

– Chắc các cô thích xi nê lắm? Trên bàn tôi có đến hai tuần báo về chiếu bóng và ba tập san về chuyện phim.

Tôi có máy chiếu phim 16 ly, để rồi tôi cho mang lên đây, cả phim nữa, để chiếu cho các cô xem đỡ buồn, ở đây chắc là đi xi nê bất tiện lắm.

– Nhưng lấy điện ở đâu ra, anh? Quá, cô gái nghiền xi nê, lo lắng hỏi điều đó.

– Tôi làm ra điện được.

– Được thật à, anh?

– Nghĩa là phải có máy móc, nhưng chỉ giản tiện thôi.

Cô Hương nghĩ ngay đến đám học trò của các cô nên nói:

– Trẻ xóm nầy sẽ mừng biết bao nhiêu. Phần đông chưa biết chiếu bóng là gì hết.

– Sẽ có phim tuồng tích cho các cô, phim diễu và phim tài liệu cho trẻ nhỏ.

Khi bữa ăn đã xong, bà phủ vừa uống trà vừa nói với con:

– Nay con đã rán dậy được, má tự hỏi con có nên tiếp tục lạm dụng lòng tốt của ông bà Thái huyên trang và các cháu đây không? Con nghĩ sao?

Long chưa kịp đáp thì ông Nam Thành đã phản đối:

– Xin bà chớ vội vàng quá. Anh Long coi vậy mà còn yếu, tuy biết về cũng chẳng sao, nhưng chuyện đi đứng mệt nhọc quá sớm nầy sẽ làm chậm trễ sự bình phục của anh ấy đi.

Ông Nam Thành dùng tiếng “anh“ lịch sự của miền Bắc để gọi Long, vì chính ông cũng chưa quen gọi anh hoạ sĩ mắc nạn nầy bằng cháu.

Bà Nam Thành cũng thêm:

– Ai cũng nói xương không gãy. Không gãy mà nó lọi. Nay nó vừa đỡ bớt, bắt nó làm việc sớm quá, biết nó lọi nữa hay không, thưa bà?

Long nãy giờ có dáng suy nghĩ nhiều, thưa:

– Con nghĩ đã trót làm phiền hai bác và các cô đây, thì dẫu cho bây giờ có đi ngay thì cũng đã quấy rầy Thái-huyên trang nhiều lắm rồi.

Thôi thì đã mang ơn, cứ mang ơn, nếu hai bác đây còn tiếp tục chịu phiền bực nữa được. Mà con tin hai bác và các cô sẵn lòng giúp con thêm. Thưa má, chơn con đã đỡ nhiều, nhưng con cần nghỉ ngơi. Về dưới, nghỉ không bằng ở đây, mà đi nơi khác trong lúc còn yếu thì bất tiện lắm.

Bà phủ nói với chủ nhà:

– Riêng tôi, tôi thật ngại lắm. Tiếp một người khách thường trong một vài hôm, đã nhọc lắm rồi, còn tiếp một con bịnh trong một thời gian không nhứt định thì sẽ khổ cho ông bà biết bao.

– Vợ chồng tôi đã thật tình mà nói là không hề gì. Xin bà cứ tin như thế đi.

– Tôi xin tin như vậy. Thôi tôi cũng chiều con mà để nó làm phiền ông bà thêm một lần nữa. Tôi không biết điều lắm đó. Nhưng…

– Bà dè dặt quá. Vợ chồng tôi không có bổn phận phải giữ anh ấy lại đây lâu thêm, mà chúng tôi vẫn giữ là vì thật tình muốn giữ đó, thưa bà.

Bà Phủ về Saigon hôm thứ sáu. Sáng chúa nhật thì Bằng lên chơi thật sớm với ba người bạn của anh, một gái hai trai.

Mỉa mai thật! Trước kia, người ta đợi khách mãi mà chẳng có ma nào đến. Bây giờ người ta đang có khách quí, đang bận rộn vì ông khách quí đó thì họ kéo nhau cả bầy, cả lũ lên đây.

Cả ba người bạn của Bằng hôm nay đều lạ hoắc đối với các cô. Bằng giới thiệu:

– Chị Thu Ba, anh Tế, anh Sang.

Ba cái tên ấy họ cũng chưa nghe bao giờ.

– Bạn anh là bạn tôi, bốn chị em Thái-huyên trang đồng nói và cũng tiếp đón niềm nở họ, đúng điệu bạn trẻ với nhau.

– Có gì lạ anh Bằng? Quá hỏi.

– Chỉ có mỗi việc lạ thôi là chị Xuyến được chọn đóng phim.

– Ồ thích quá!

– Nhưng chị ấy lại không được đóng phim.

– Sao lạ vậy?

– Vì vị hôn phu của chị là anh Thịnh gởi tối hậu thơ cho chỉ nói hễ chỉ mà đóng phim thì ảnh từ hôn ngay.

– Vậy rồi chỉ chiu thua sao? Chúa ngục!

– Nếu cô ở vào địa vị của chị Xuyến?

– Thì em chọn một cái một: Đóng phim.

Bằng cười chế nhạo Quá. Hai người bạn trai của anh cũng cười bằng giọng ấy. Nhưng cô Thu Ba lại về phe với các cô gái Thái-huyên trang và hỏi:

– Tại sao các anh lại cười?

– Tại chúng tôi vui.

– Tại sao các anh lại vui?

– Vì thấy phụ nữ cương quyết lắm, say mê nghệ thuật lắm. Các cô bỏ hai món lên mâm cân, rồi thì cái món “anh chồng“ thấy nhẹ hều như tim bấc.

– Đó là tại anh chồng ấy tồi.

– Nếu không cho vợ đóng phim là tồi thì trong xã hội Việt Nam có rất nhiều đấng nam nhi tồi lắm.

– Trong đó có cả anh, Hoa nói.

– Thôi chấm dứt chuyện Saigon. Ở đây có gì lạ, Bằng hỏi.

Cả bốn chị em Thái-huyên trang đều nhìn nhau mà cười, khiến Bằng đoán được có chuyện gì đây. Chàng hỏi:

– Tôi đọc thơ cô Hoa, nghe tên hai người: anh Xòn và cậu công tử bi-da-ma thường được nhắc đến luôn. Cậu công tử ấy đi coi mắt cô Quá chắc?

Hoa vỗ tay khen:

– Hay! Anh là thầy bói ở núi nào về vậy, mà đoán việc như thần?

Tế nói:

– Chúng tôi muốn xem cho biết cái cần vọt thế nào, anh Bằng đưa chúng tôi đi ngay kẻo nắng.

– Nhỏ em dữ! Muốn xem thì đi lấy. Lại phải dắt đi nữa? Đó, rừng cần vọt mọc lên phía sau xóm trong đó.

Quá đề nghị sốt sắng:

– Chị và hai anh để tôi đưa đi cho.

Bằng phản đối:

– Ba đứa nầy thì cô khỏi phải đưa. Chúng nó tự xưng là thổ công ở mọi nơi đó mà.

Ba người bạn Saigon cười hì-hì rồi dắt nhau đi vào xóm trong.

Khi họ đã đi xa, Hoa nói với Bằng:

– Có chuyện lạ nầy: một anh chàng lật xe trước sân rồi con Quá nó ra tay nghĩa hiệp đem vào nhà, biến nhà thành nhà thương, rồi chị Hương ra tay lang băm săn sóc mấy hôm nay.

Bằng ngạc nhiên hỏi:

– Thật à?

– Thì anh cứ vào mà xem. Hắn nằm trại số 1, buồng thượng hạng, giường cũng số 1.

– Xí, bộ chỉ có một mình em đem hắn vào nhà à? Cô Quá cãi.

– Nhưng chỉ có một mình mầy là rối lên, và tận tâm săn sóc hắn thôi.

– Chưa chắc.

Bằng trừng các cô em bằng đôi mắt trách cứ rồi nói:

– Các cô lãng mạn vừa vừa chớ. Bây giờ đến lượm xác bất kỳ anh tài-xế chạy ẩu nào để nuôi trong nhà thì…

– Không, hắn không phải là tài-xế…

– Nhưng hắn lái xe, thì cũng thế…

– Hắn, người đàng hoàng lắm…

– Đâm xe vào lề đường không phải là một cái giấy chứng-chỉ tốt đâu các cô em à.

– Đứng-đắn lắm mà. Hắn tên là Long, họa sĩ Long, anh có quen hay không?

– Chưa biết, phải nhìn mặt mới rõ. Tôi quen cả lô người tên là Long.

– Vậy anh vô đó xem.

– Ta đi nào! Ưng ai hắn không phải là họa sĩ giả cho tôi khỏi thất-vọng.

– Xí, nếu muốn làm oai, người ta xưng sĩ-quan, đốc-tờ chớ ai lại xưng là họa sĩ làm gì.

– Biết đâu? Họa sĩ nghe nên thơ hơn. Các cô gái lãng mạn như cô thì phục họa sĩ hơn đốc-tờ.

– Xuỵt, đừng nói nữa, hắn nghe đó!

Họ vào tới nhà. Cô Quá đi trước rồi theo sau cô, Bằng và Hoa, Hương và Hồng đã ra sau bếp để lo bữa cơm cho khách.

Long đang đọc báo tuần, nghe động, ngước lên. Hai người đàn ông gặp nhau và cùng một lượt cả hai đều đưa tay ra, như quen biết đã từ lâu.

– Hai anh đã quen nhau rồi đó chớ. Hoa hỏi.

– Quen mặt. Bằng cười và đáp như vậy.

– Tôi cũng quen mặt anh bạn đây nhiều lắm. Ta đã gặp nhau ở đâu?

– Có lẽ khắp mọi nơi nào mà tuổi trẻ ưa tới lui. Tôi là Bằng, anh họ của các cô đây.

– Tôi là Long, và tiểu sử tôi, đoạn sau, chắc các cô đã kể cho anh nghe rồi.

– Đoạn trước chắc hay hơn nhiều? Bằng hỏi đùa.

Cả bốn đều cười xòa rồi Long cãi:

– Thường thường các nhà văn hễ bí lắm thì mới cho nhân vật bị đụng xe. Bí tức là đoạn trước không lối thoát và vì thế, không hay. Đụng xe xong mà không chết, thì câu chuyện sẽ kéo dài bằng nhiều tác động ngộ nghĩnh được mới hay.

Bằng vừa la lên, vừa vỗ trán mà hỏi:

– Có phải anh đã triển lãm tranh ở hẻm Eden năm kia đó không?

– Chính tôi đó.

– Thế thì đoạn trước hay lắm và cũng khá lành mạnh. Anh Song đã đưa tôi đi xem triển lãm và đã nói nhiều về anh. Thôi, anh nghỉ, ta sẽ nói chuyện nhiều hơn.

Bằng là người yên lòng nhứt. Anh cứ lo các cô em họ của anh nuôi phải một tên phiêu lưu.

*

* *

Thế nào anh Bằng, cô Quá sốt ruột hỏi, khi ra tới ngoài.

– Người đàng hoàng, có thể làm bạn được.

– May quá.

– Sao lại may?

– Vì nếu là người tầm bậy, anh sẽ cười cho mà chết.

Ba người khách xem cần vọt vừa về tới nhà thì Long cũng đã vừa ra ngoài.

Song nói:

– Ngỡ gì! Cái cần vọt mình đã thấy rồi trong từ điển Larousse.

– Nông cụ xứ nào vậy? Trong đó có nói rõ hay không? Long hỏi.

– Có, đó là nông cụ của xứ cổ Ai Cập.

– Mình vẫn còn dùng thì xứ mình là cổ Việt Nam đó.

Quá mời họ vào phòng bịnh rồi giới thiệu:

– Anh Long, họa sĩ, chị Thu Ba, anh Tế, anh Song, bạn ở Saigon lên chơi.

– Hân hạnh!

– Hân hạnh!

– Hân hạnh!

– Hân hạnh!

Long nói đùa:

– Cô Quá giới thiệu chưa hết lời, phải nói rõ là: “Long họa sĩ cà nhắc“ mới đúng.

– Trong báo thấy có Nghệ sĩ mù, Nghệ sĩ cà lăm. Bây giờ lại có họa sĩ cà nhắc nữa.

Quá có dịp so sánh ba người khách bạn trai. Long không đẹp hơn hai người kia, có phần nào xấu hơn họ ở chỗ thân thể không được nở nang lắm. Nhưng toàn thể người họa sĩ này, thở ra một vẻ gì khác lạ nàng không nói được mà vẫn cảm thấy. Vẻ ấy cho chàng trai nghệ sĩ một biệt sắc dễ mến mà những người bạn khác không có.

Đến chiều Bằng và ba người bạn Saigon về, bốn cô gái Thái-huyên trang đưa họ một đỗi đường. Nhưng bốn cô không nghe buồn buồn như họ bị mang đi mất cái không khí vui vẻ của những ngày chúa nhựt trước. bởi vì không khí ấy còn nguyên ở đây với người khách ăn dầm nằm dề từ hổm rày.

*

* *

Trở Về

Tìm Kiếm