ĐÒ DỌC (Chương 9)

Thật là lạ kỳ, nó dữ tợn thế mà sao ngậm cào miệng không nghe gì lạ cả, cũng chẳng đắng cay gì. Thế rồi thần kinh cô được dỗ ngủ, thế rồi nó tê-liệt hẳn, ngăn tim cô đập tiếp, thế là hết. Từ cái sống nóng hổi, say sưa nầy bước qua cái chết yên-lặng kia sao mà phẳng lì, cái phẳng lì không xứng đáng chút nào đối với sự sống vĩ đại và cái chết thê thảm cả. Không, phải đau đớn quằn-quại mới được, để nâng cao giá-trị của sự sống đẹp và quí, giá-trị của cái hi-sinh thê thảm sự sống ấy.

Nhưng Quá không có gan chết oanh liệt như vậy. Nàng nhớ có nghe ai kể chuyện một cô kia tự-tử bằng pháo chà. Ghê qua! Họ nói chất lân nó cháy trong bụng cô ấy, nổ nghe lụp bụp (không biết nói thật hay nói quá) và cô ta lộn nhào kêu khóc rất thảm thương.

Cô không có gan chết oanh liệt mà cả đến chết êm rơ bằng thuốc ngủ, cô cũng do dự nãy giờ. Ai bảo quyên-sinh là hèn nhát? Riêng cô, cô thấy phải cam đảm lắm mới tự-tử được.

Mỗi lần Quá mở nắp hộp ra là cô rùng mình rồi vội vàng đậy lại. Nhưng rồi cứ muốn mở ra. Mà thuốc ngủ xúi giục chăng? Người ta nói vòng thắt cổ có ma. Đó là ma thần vòng. Người nào bị ma ấy bắt, cứ muốn thắt cổ mãi, chiến đấu với nó khổ sở hết sức mà cứ nghe thèm thắt cổ.

Mình bị ma thuốc ngủ bắt hay chăng? Mình không muốn chiến đấu với nó, chỉ sợ nó thôi, nhưng nó vẫn quyến-rũ, kêu gọi mình.

Quá lẩn thẩn nghĩ đến tác động sinh lý hóa của chất thuốc ngủ để kéo lùi lại giây phút vĩnh biệt cuộc đời.

Thuốc ngủ sẽ bị tiêu hóa rồi thấm vào cơ thể, làm tê liệt thần kinh. Thần kinh không lay-động trái tim nữa, thế là chết, chết trong lúc cơ thể còn nguyên vẹn, mọi cơ quan, một tạng phủ đều lành mạnh. Bộ máy còn tốt và chiếc dây thiều lại ngưng đẩy nó đi, chỉ có thế thôi.

Nhưng nếu nó vì một may mắn nào, dây thiều làm việc trở lại? Trời ơi. Ghê quá!
Quá nhớ lại vụ một thiếu nữ khác tự tử bằng á phiện. Sau năm năm chôn cất, người là lấy cốt cô. Khi bửa hòm ra, họ thấy bộ xương ngồi dậy. Người ta kết luận rằng động tác tê liệt thần kinh của chất ma tuý, sau khi hết hiệu quả, người chết sống lại được trong một vài trường hợp.

Nhớ tới đó, Quá lại rùng mình, ghê-rợn cho sự tỉnh dậy trong hòm, ngộp thở mà không phương gì thoát được.

Sợ nghĩ vẩn vơ mãi rồi không dám uống độc dược nữa. Quá lôi kéo ý nghĩ của cô trở về mối sầu tuyệt vọng.

Cô nhăn mặt như thuở cô bé sốt rét bị uống kí-ninh rồi nhắm mặt lại, thảy một viên thuốc vào miệng, hớp một ngụm nước rồi nuốt đánh ực một cái.

Ống thuốc còn chẳn mười viên, Quá uống đến mười lần như thế mới hết.

Thế là xong cái khổ-dịch uống thuốc và xong một đời. Bây giờ cô đã rơi xuống vực sâu, kêu cứu cũng khó lòng mà ai cứu được. Nhưng cô không sợ hãi lắm đến phải kêu cứu.

Không có gì khó chịu, không đau đớn chút nào. Chết sao mà dễ quá như thế này? Trời ơi sự sống con người quý báu thế kia, tốn công, tốn của thế kia mới gìn giữ được, vậy mà huỷ diệt nó có khó khăn gì đâu! Trời ơi! Quí báu, sự sống quí báu! Trời ơi, đời đẹp biết bao nhiêu!

Trời ơi! Ngày mai, trời lại sáng, ánh thái dương lại soi tươi vạn vật, vạn vật lại reo vui lên! Ngày mai, có kẻ lên đường với hy vọng trở lại đây mà cưới một người, rồi cả hai cùng hưởng hạnh phúc.

Nước mắt Quá bỗng chảy đầm đìa, cô tủi phận không biết đâu mà nói.

Bỗng cô nghe mi mắt cô nằng nặng và tâm thần dã dượi. Thôi rồi, con ma ngủ đã đến. Quá nằm sải tay sải chơn, không buồn chống trả lại sự buồn ngủ nó tới mau lẹ quá chừng.

*

* *

Long dậy một lượt với gia đình. Chàng định đi trước bữa ăn sáng cho khỏi làm rộn người nhà, nhưng khi mấy chiếc va li đã gài lại vừa xong thì cà phê nóng vừa bưng lên.

Cả nhà cùng dùng bữa ăn lót dạ một lượt. Hương bảo rằng Quá còn ngủ. Người biết chuyện đinh ninh rằng cô Quá muốn tránh mặt Long, những người khác cũng không có gì phải ngạc nhiên, cô gái út ấy lười biếng như vậy đã nhiều khi lắm rồi.

Họ ăn bánh mì nguội hôm qua, hấp lại và muối mỡ hành. Bữa ăn cũng khá vui, nhứt là ông bà Nam Thành, ông bà nghe nhẹ nhõm như đang trút gánh nặng.

Hoa lì lợm, tuy không có lý lẽ gì để vui cảm nhưng vẫn can đảm được như thường.
Ăn xong, Long xách va li từng chiếc một ra đường. Vì về bất thình lình nên chàng đón xe đò mà đi chớ không có mẹ lên rước.

Cả nhà đưa chàng ra tận cửa, và xe chạy khuất dạng rồi họ mới chịu vô.

Thái-huyên trang thở ra vì nghe nhẹ gánh mà cũng vì nghe nặng một ngậm ngùi gì khó tả.

Non một tháng trời người con trai ấy đã làm huyên-náo không khí trầm lặng ở đây. Hắn đi, sự náo nhiệt đi theo hắn, và Thái huyên trang trở lại quạnh quẽ đìu hiu.

Mãi đến tám giờ, bà Nam Thành mới nhớ lại cô Quá.

– Tư a, con lên coi em nó ngủ gì mà ngủ dữ quá như vậy. Coi nó có đau ốm gì chăng? Bà bảo Hoa như thế.

Hoa vừa cho gà ăn xong, phủi tay rồi vào nhà để lên gác. Cô không thấy gì lạ cả, nhưng lay em rất mạnh một hơi mà không nghe ừ hữ gì, cô mới đâm nghi.

Hoa nhìn quanh quẩn trong buồng và mắt cô dừng lại trước cái ống nhôm cạnh ly nước, cô bước tới cầm ống thuốc lên xem rồi hoảng hốt, cô nhảy xuống thang từng hai ba nấc một, gỗ bực thang kêu lên rầm rầm khiến cả nhà thất kinh.

Ra tới sân cô mếu máu nói:

– Ba má ơi! Hai chị ơi! Con Quá nó tự vận rồi, nó chết rồi!

– Trời ơi! Bốn người đang đứng nơi sân, kêu lên một lượt như vậy rồi đâm sầm chạy vào nhà, trừ bà Nam Thành té xỉu trên cỏ.

Hoa đỡ mẹ lên, dìu mẹ vào nhà và hai mẹ con rống lên khóc. Ba người kia chạy lên tới buồng trên thì mặt mày không còn một chút máu.

Ông Nam Thành lặng lẽ cắn răng mà nhỏ lệ. Trong khi Hương chạy lại rờ em trong một cử chỉ, máy móc của nhà nghề.

– Chưa chết ba à, nó còn nóng hổi, chắc mới uống đây thôi, Hồng ra đón xe! Chị với ba khiêng em xuống.

Hồng tuột thang còn lẹ hơn Hoa hồi nãy nữa, trong khi ông Nam Thành chạy lăng xăng. Rốt cuộc ông nói:

– Thang đứng mà hẹp quá, khiêng không được đâu. Thôi để một mình ba cõng em con.

Ông Nam Thành đỡ xốc con lên. Hương giúp cha, xô áp em vào lưng ông. Cô lấy khăn tay cột em lại trước cổ ông Nam Thành nếu không, Quá không ôm cổ được, sẽ ngã ngửa ra.

Ông Nam Thành run rẩy bước xuống thang, miệng lẩm bẩm:

– Vái trời cho kịp.

– Không sao đâu ba, Hương an ủi ông. Con nhớ lại thì đó là thứ viên nhỏ cho trẻ con. Viên nhỏ và trong hộp chỉ còn phân nửa thôi, thì chẳng đến đổi gì.

Bà Nam Thành chạy lại ôm con khi ông xuống tới đất, rồi bà đi theo sau ông, vừa đi vừa khóc kể như đưa đám ma.

*

* *

Ông Nam Thành và Hương đưa Quá xuống nhà thương Bà Chiểu. Bôm rửa, chọc cho nôn ọe, đổ cà phê, tiêm chất kích thích, độ một tiếng đồng hồ thì Quá tỉnh dậy được.

Bác sĩ nhà thương xác nhận lời của Hương: uống thuốc độc không lâu, và liều thuốc khá nhẹ.

Ông Nam Thành kéo ghế lại sát giường con, rồi hai cha con nhìn nhau lặng lẽ khóc. Ông Nam Thành hiểu được tâm trạng của con, thương cho tình thế của con và hối hận đã quên nghĩ đến con lúc lui về vườn. Lui về vườn là việc tốt đối với ông. Nhưng con gái sắp lấy chồng mà cho đi an trí như vậy, ông mới nhận thấy là tội nghiệp.

Ngồi trong buồng nhà thương, ông mới nghĩ đến những việc về lòng người, trước kia không bao giờ thoáng qua óc ông: những cô gái quê thì ở thôn quê vẫn lấy chồng dễ dàng như thường nhưng gái chợ đổi chỗ ở thình lình trong thời cưới gả thì không phải lúc. Giang sơn nào, xã hội nấy.

Mãi đến trưa, ông Nam Thành mới ra về, sau khi hôn lên trán con như Quá còn nhỏ em lắm vậy. Ông đứng ở cửa phòng bịnh mà căn dặn mãi cô con gái lớn:

– Đừng quên cho em uống cà phê.

Từ sáng đến giờ, nhà thương bắt người bịnh uống hết cà phê nầy đến ly cà phê khác, cốt lấy chất kích thích ấy chống lại với chất an thần quá mạnh là thuốc ngủ kia.

*

* *

Thấy nhà có việc lộn xộn và nghe bà Thái-huyên (người ta gọi tắt hai ông bà như vậy) khóc lóc kể lể, và cô Quá được chở đi cấp tốc, những người ở lối xóm chạy đến hỏi thăm lăng xăng.

Mặc dầu bứt rứt về số mạng con, bà Nam Thành vẫn phải rán trấn tỉnh bịa chuyện để cắt nghĩa cho trôi vụ đó.

– Nó ăn nhằm nấm đội. Nội nhà không ai ưa nấm hết nên ai cũng chỉ ăn vài tai thôi. Một mình nó ăn hết cả dĩa nên mới nặng như vậy. Nó bắt đầu đau bụng hồi mười một giờ khuya, mà phải đợi đến sáng mới chở đi nhả thương được.

Khách về hết, bỏ bà Nam Thành ở lại với nỗi lo lắng của bà. Bà ngồi ở phòng tiếp khách mà ngó mãi ra đường, mỗi lần thấy xe lên bà hồi hộp ngóng cổ dòm ra, xe qua mà không ngừng, bà thất vọng và lo rình chiếc khác.

Lúc đồng hồ gõ mười một tiếng, bà chịu không được nữa, định sai Hồng đi xem thử thì một chiếc xe đò ngừng lại trước trại.

Nội nhà ngó ra rồi mừng rỡ thấy ông Nam Thành bước xuống xe, thong thả đi vào nhà. Dáng điệu của ông là tin lành giúp họ an lòng được ngay.

Gần tới nhà, ông đã nói lớn từ ngoài sân:

– Không sao, sợ nhiều nhưng hại ít. Mai mốt là nó về được.

Bà Nam Thành thở ra nhẹ nhõm.

Bữa cơm trưa hôm đó, tuy thiếu hai người, nhà tuy vắng vẻ sau khi người khách đã đi, tuy vừa qua một thảm kịch, cũng vui vẻ được. Đó là cái mừng chết hụt nó đánh bẹp tất cả lo âu khác và khó khăn, khổ sở nào cũng bị đẩy lùi ra hàng sau cả.

– Chỉ hai ba ngày là nó khỏi, ông Nam Thành lặp lại, giọng bằng lòng lắm.

– Nhưng không biết bao giờ nó mới khỏi được việc khác, bà Nam Thành thấy cần tốp bớt lạc quan của ông nên nói thế.

Ông Nam Thành như không thèm để ý tới lời đó, nói với Hồng:

– Ngày mai con xuống thay thế cho chị con để nuôi em, rồi mốt tới phiên con Hoa.
Mấy chị em lại một lần nữa, biến thành nữ-khán-hộ, nhưng là nầy con bịnh là người nhà chớ không phải chàng thanh niên đẹp trai và sanh chuyện nữa.

Ba cô nuôi em vừa đủ mỗi người một phiên thì bác sĩ cho về.

– Thôi con đừng buồn nữa. Vài bữa về Saigon rồi ở luôn dưới ấy với má.

Ba Nam Thành dỗ ngọt Quá mà bà để trên gác cho cô yên nghỉ.

*

* *

Cô Quá chết hụt, hết nghe muốn chết nữa. Sầu tình của cô cũng biến đổi khác lại. Đây là một sự chán nản, một sự rỗng không. Cô chưa được yêu lần nào. Mối tình của cô là một ảo ảnh. Ảo ảnh tan là không còn gì cả trong lòng cô. Kỷ niệm không có thì ngậm ngùi cũng không.

Không khí Thái huyên trang chẳng những trở lại với sự cô quạnh trước mà còn đượm hơi hám bẽ bàng. Niềm riêng của người nầy người kia không rõ thấu được, tuy vẫn biết nó thuộc vào loại nào. Nhưng những cô gái thẳng thắn ấy không xấu hổ vì họ đã yêu. Họ chỉ mắc cỡ với nhau vì vô tình họ đã yêu trùng một người. Vô tình thì không tội lỗi gì cả, nhưng lại là cái tội chọn liều, vì người yêu quá hiếm hoi.

Tuy vậy qua vài ngày thì sự thương mến len lén trở lại, ban đầu hơi bỡ ngỡ một chút, rồi dạn lần ra, rốt cuộc mấy chị em làm lành lại với nhau được và thương mến nhau như cũ.

Gia-đình Thái huyên trang là một gia đình nề nếp, là một gia đình hòa thuận thì cơn sóng gió nào cũng chỉ là cơn sóng gió qua đường thôi. Lẽ phải ở đây luôn luôn vượt lên trên, và sự tranh giành chỉ là những phút điên phù du.

Vì vậy tuần sau, lên chơi đây, bà phủ không ngờ bão tố dữ dội đã qua đó.

Bà phủ lịch sự, không hề nói lên đó để tạ ơn tạ nghĩa gì. Bà chỉ viếng thăm thường thôi, mặc dầu có mang quà xứng đáng lên.

Bà không quên cho hay tin tức về Long, tên mà ai cũng nóng lòng nghe, nhưng bà cho hay một cách kín đáo, cố tránh dài dòng và tìm nói về gia đình này hơn là nói đến con mình.

Người được bà phủ hỏi đến nhiều hơn hết là cô Hồng. Thấy rõ là Long có nói ý định của chàng cho mẹ nghe.

Nhưng bà phủ khéo quá, chia đều cảm tình của bà ra, thành thử không cô nào phải tủi thân hết, mặc dầu ai cũng thấy được là chuyến đi của bà hôm ấy là chuyến đi coi dâu, và cô nào được chọn thì cô đó là dâu hờ của bà.

*

* *

Long ngồi trước tờ giấy trắng một hơi, rồi buông viết đứng lên đi ra ngoài.

Từ hôm về Saigon đến nay, không ngày nào chàng không sửa soạn để viết thơ cho Hồng. Nhưng muốn viết thơ cho Hồng mà khỏi ai nghi kỵ thì phải viết cho những người khác trong nhà. Đó là khổ dịch mà chàng chưa tìm được can đảm để làm.

Đi qua đi lại một hơi, chàng buồn cười cho thái độ đà điểu của mình, nên quả quyết trở vô ngồi lại bàn giấy.

Bức thơ đầu chàng viết cho ông bà Nam Thành, nói chuyện nhớ ơn, nhớ Thái-huyên trang, hỏi thăm sức khỏe ông bà, hẹn sẽ lên thăm viếng ông bà và xin phép ông bà để gởi thơ riêng cho bốn cô con gái.

Thật là chán phèo, công việc viết một bức thơ xã giao như vậy. Long hì hục mãi mới viết xong, y như một học trò lớp ba làm bài tác văn đầu tiên.

Chàng chọn giấy thật dầy, để viết thơ nầy và ba thơ khác. Bức thơ thứ năm sẽ viết trên giấy thật mỏng, để người ta ngỡ chàng viết lấy lệ cho người đó, không có gì để nói cho nhiều.

Thơ cho cô Hương cũng là một bức thơ xã giao, hơi dễ viết hơn thơ cho ông bà Nam Thành, vì đùa cái tài lang băm của ân nhân cũng đã đầy nửa trang giấy rồi.

Hai bức thơ khó nhứt là thơ cho hai cô Hoa và Quá. Làm thế nào cho hai cô trở về với lẽ phải mà khỏi nói rõ ràng gì cả.

Hai bức thơ ấy, Long phải khổ sở tới tối mới viết xong. Đây là sự hi sinh cần thiết, không qua hai ải khó đó thì không đến Tràng An được.

Tràng An là một bức thơ tràng thiên nói gì không ra gì mà chàng lại ham viết.

Em Hồng.

“Anh đã liều mạng kêu em bằng em. Em không phản đối nên nay anh cũng xin kêu như thế trong thơ. Thơ nầy sẽ qua hai bác kiểm duyệt hay không, anh chưa biết. Nhưng dẫu nó có lọt vào tay hai bác, chắc cũng chẳng hề gì. Em không có thái độ nào trái đạo cả và anh sắp xin cưới em.

Có cần chi nói rằng ngày đêm gì anh cũng nghĩ đến em luôn hay không ?

Ở đây nhiều đèn quá, chơn trời của anh là hẹp, ra sân ngó lên trời chỉ thấy một mảnh đen nhỏ xíu, như đang ở dưới miệng giếng. Thành thử anh không tìm được con sao hôm của chúng ta.

Nhưng không tìm được nó trên không, anh phải cố tìm nó mãi trong trí tưởng của anh và vì thế anh cứ nghĩ đến em…”

Đại để như vậy từ đầu đến cuối thơ. Bọn trẻ yêu nhau, sao mà nói nhiều được những cái không có gì hết. Long viết mãi mà không dừng được vì đó không phải là những câu chuyện có đuôi.

Thơ đi rồi thì bà phủ về. Long nhìn mẹ cười ngỏn ngoẻn như trai mười tám ngày xưa mắc cỡ vì chuyện vợ con. Bà phủ cũng cười mà nói:

– Con chọn lựa cũng khéo đó. Nó dễ thương lắm mà cũng xinh đẹp, gia đình xem ra có đức, mấy chị em của nó cũng có nết. Nhứt là nấu ăn thì má vừa lòng lắm…

Trong bữa cơm tối, bà phủ trở lại chuyện đó.

– Nhứt gái hơn trai, nhì trai hơn một, con hăm bảy nó hăm sáu là hợp lắm. Con muốn chừng nào má cậy mai lên trên ấy? Theo chỗ má biết, qua câu chuyện với ông bà Nam Thành thì mình với nhà đó có người quen chung. Vậy thì tiện việc lắm, người quen chung đó là mai dong đắc lực đa.

– Ai đó vậy má?

Ông bà thông Tài, ngày trước có làm việc với ba con và cũng có làm cùng tỉnh với ông Nam Thành.

– Nhưng má có vui lòng hay không? Nhà đó nghèo lắm.

– Má dư biết. Mà mình có cần gì thông gia với nhà giàu đâu.

– Má thật ít có người bằng. Thôi, con an lòng rồi mà để thủng-thỉnh rồi con tính.

– Mầy còn tính cái gì nữa, mầy già rồi đó, không lo, ế vợ chết.

Long cười hì hì:

– Nếu không lo, con đâu xó xin má lên trên ấy. Đời bây giờ khác xưa má à, con trai ba mươi chưa già đâu.

– Tao cứ muốn lo cho xong. Tao chết ngày nào ai biết được…

– Má khỏi lo, để con tính xong chuyện khác, rồi sẽ tính đến chuyện đó liền.

Chuyện khác ấy là chuyện cô Hoa, một người bạn hiền lành của chàng, làm công chức, mà lý tưởng là cưới một cô vợ ở nhà quê mà có học.

Chàng sẽ làm người mai trước khi làm rể. Cô Hoa sẽ được hạnh phúc và không khí Thái huyên trang sẽ an vui.

Còn cô Quá? Nhưng thế nào Bằng cũng lo cho cô em út nầy.

Cô Hương thì thủ phận lắm, không gây rắc rối cho ai cả.

*

* *

Tối hôm ấy, Long đi tìm Bằng mà chàng muốn làm quen lâu dài cho dẫu không có vụ mai mối kia. Chàng hỏi thăm Song, người đã đưa Bằng đi xem triển lãm năm nọ, và biết được Bằng ở trọ tại nhà một người Tàu, trên gác.

Khi Long đến nơi thì Bằng sắp sửa ra đi.

– À, anh Long, Bằng reo lên! Về hồi nào đó?

– Về hổm rày, cũng định cho anh hay tin nhưng mãi đến nay mới có dịp.

– Thế là anh đã giữ lời hứa. Đáng khen. Anh có việc gì kín cần nói ở đây không?

– Có việc cần nói nhưng nói ở đâu cũng được.

– Tốt lắm. Ta đi uống nước vậy. Ở đây nóng bỏ xừ.

Đôi bạn dẫn nhau xuống một tiệm nước các chú ở đầu phố. Tại đây khách chung quang toàn là người Trung Hoa, họ khỏi lo ai lắng tai nghe câu chuyện của họ cả.

– Từ hôm anh về đây tới nay, có viết thơ lên trên ấy không?

Long không khó chịu vì sự quá tò mò đó. Hai người bạn trai biết điệu này đã ngầm hiểu nhau nhiều rồi, không có gì giấu nhau nữa hết, chàng đáp:

– Có. Nhưng…

– Tôi không cần biết anh có đứng đắn trong thơ hay không vì chắc chắn là anh đứng đắn. Tôi muốn rõ anh viết cho ai?

– Cho cả nhà, người nào tôi cũng có thơ riêng thăm cả.

– Vậy thì tốt lắm. Nếu anh vụng tính, chỉ viết cho một người thôi thì khổ. Anh đi rồi, sóng gió vẫn còn. Anh nên dè dặt vậy.

– Tôi hiểu.

– Anh có gì muốn nói?

– Thăm anh để được quen biết với anh chơi…

– Hân hạnh.

– Với lại để hỏi ý kiến anh về một cuộc hôn nhơn.

– Nếu trang nghiêm thì tôi hoan nghinh.

– Không phải, hay nói cho đúng, chưa phải hôn nhơn của tôi với …

– Chớ của ai? Bằng ngạc nhiên và lo lắng hỏi.

– Của một người bạn của tôi với cô Hoa.

– Anh định nhờ tôi làm mai. Sẵn lòng, nhưng tôi phải biết người bạn của anh.

– Thì cố nhiên là anh phải biết. Nhưng miễn là anh sẵn lòng thì việc biết kia, việc phụ thuộc, chỉ là việc dễ thôi. Nầy nhé! Anh Đăng ấy là một công chức, nghĩa là một người dễ hiểu. Anh sẽ đi với tôi tới nhà ảnh chơi vài lần là biết ảnh như biết một người bạn lâu năm.

– Tốt lắm. Nhưng ít ra anh ấy cũng phải cậy tôi…

– Thì cố nhiên. Tôi sẽ bắt ảnh cậy anh.

Bằng vui vẻ trong lòng lắm, anh uống cạn ly nước cam rồi nói:

– Nên lạc quan. Tôi cũng đang lo cho một đám đây. Anh cậy thêm thì tôi được ăn hai cái đầu heo.

– Đám nào? Có …

– Có, có ăn thua đến gia đình dì dượng tôi, cô Quá ấy mà.

Long nghe chuyện ấy cũng mừng rỡ hết sức.

– Trời ơi, sao mà tôi đoán giỏi quá như vậy. Tôi tin thế nào anh cũng lo cho cô Quá. Nếu hai cô mà có chồng xong, tôi có thể yên lòng xin vào làm rể ngay.

– Tôi hiểu thâm ý của anh. Riêng tôi thì tôi lo là vì lẽ nầy: Dượng tôi định bỏ vườn mà trở về Saigon. Tôi không muốn cho những người lui về vườn phải thất bại, rồi nêu thành tích không hay cho kẻ khác, nên quyết lo cho mấy em tôi có đôi bạn hết tôi mới an lòng.

Bằng trả tiền đứng lên hỏi Long:

– Có đi chơi không?

– Cần lắm để được quen với anh nhiều hơn.

*

* *

Ra khỏi hộp đêm, Long nói:

– Đói quá, đi ăn cái gì nghen anh.

– Đồng ý. Nhưng khuya lắm rồi, nên mãi dưới Chợ-cũ mới có đồ ăn, anh liệu đi bộ nổi hay không? Tôi thì vào giờ nầy tôi chỉ thích đi bộ thôi.

– Nghệ sĩ chắc cũng thích đi bộ ít lắm là bằng anh. Và đi nổi như thường.

Đôi bạn có cảm giác là đang sống vào lúc tận thế. Một thành phố không đèn là một thành phố ngủ. Một thành phố sáng trưng mà không người, giống một thành phố mà dân cư bỗng chết hết cả.

– Nếu tận thế mà anh còn sống sót một mình, anh có thích không? Long hỏi.

– Thuở bé, tôi cứ mong được như thế, để một mình vào các cửa hiệu bánh tây mà ăn cho đã thèm. Bây giờ thì không mong nữa, nhưng vẫn thích được, nếu…

– … nếu còn một người bạn gái.

– Ta là hai linh hồn to gặp nhau. Nhưng người bạn ấy phải như thế nào kia?

– Phải đẹp, chắc?

– Hẳn là phải đẹp, mà danh từ đẹp phải hiểu theo từng người. Có người đối với anh là đẹp, nhưng đối với tôi lại không. Thí dụ cô vũ nữ mặc đen khi nãy có đẹp hay không, theo anh?

– Theo tôi thì không, cô ta dáng điệu hơi quê. Có những người phụ nữ lạ lắm. Nếu cứ lấy riêng từng món mà coi thì đẹp: tay cô ấy đẹp, mặt cô ấy đẹp v. v… Nhưng những món đó ráp lại không khéo, thành ra toàn thể xem quê kịch.

Bằng nhìn Long giây lâu rồi hỏi, giọng lo lắng:

– Anh yêu một người như vậy được hay không?

– Được. Nhưng nhất định không đi chung với người đó.

Bằng thở dài, Long hỏi:

– Ý kiến của tôi sao lại làm anh suy nghĩ?

Bằng cứ nhìn đường nhựa mà đi, mặt cúi gầm xuống. Long vịn vào vai bạn rồi hỏi:

– Phản ứng gì lạ vậy?

Bằng cũng ôm vai bạn rồi thở dài, đáp:

– Tôi sợ lắm!

– Sợ gì?

– Chưa thể nói được.

*

* *

Ba hôm sau Long đưa Bằng đến nhà Đăng. Đăng khá đẹp trai, nhưng thật khác họ xa, từ cử chỉ đến lời nói. Trò chuyện một lát thì Bằng lại thấy thêm rằng cả tư tưởng lẫn tâm hồn của anh nầy cũng khác họ.

Đăng sẽ là một anh chồng tốt: có sức khoẻ, có tiền, hiền lành, biết chiều bạn, lo hạnh phúc cho gia đình. Hoa còn đòi hỏi gì hơn? Nhưng con gái nó dại, nó hay đòi hỏi hơn.
Nếu không thấy cái hơn, nó không so sánh được và sẽ an phận dễ dàng. Đằng nầy nó yêu hụt người nghệ sĩ rồi, nó vẫn còn luyến tiếc loài nghệ sĩ thì khó mà bắt nó bằng lòng một anh chồng tốt.

Công việc của chàng sẽ khó khăn biết bao! Nó đã xem vân Thượng hải, bây giờ bắt nó bận lụa Hà đông, tuy có bền hơn, nhưng ít hào-nháng, nó sẽ dẫy-nẩy cho mà xem.

Người khách ngồi nhìn ông chủ nhà nói chuyện, có cảm tình với con người đứng-đắn, đàng-hoàng ấy lắm, nhưng bụng cứ nghe tội nghiệp anh ta hoài.

Dường như chàng hỏi thầm:

– Tại sao anh lại không là nghệ-sĩ như người ta? Không nghệ-sĩ thật thụ được thì cũng có tâm-hồn nghệ-sĩ cho nó oai. Con gái nó dại lắm, chỉ yêu nghệ-sĩ thôi, mặc dầu chính hạng người như anh mới làm cho nó hạnh-phúc.

Khi đã cạn đề, hai khách xin phép ra về, Bằng siết tay chủ nhà, bụng nghĩ:

– Tôi quyết tìm chỗ làm cho anh đó. Nhưng giấy chứng chỉ của anh tốt, mà tôi lại khó vận động. Anh biết cái khổ của tôi không?

Tuy nói thế, Bằng không sợ bao nhiêu, Hoa nó có dại, thì anh nói mãi nó sẽ phải nghe.
Điều đáng sợ là làm sao cho Côn chịu lui tới Thái huyên trang trở lại. Tự ái của anh nầy bị va chạm mạnh dữ. Anh ta tức và giận lẫy, mà cũng đâm nhát như con thú bị cắn một lần dữ dội nên anh ta sẽ trốn trong hang của anh ta, biết làm sao xúi anh ta ra khỏi đó được.

Từ hôm bị Côn mắng vốn đến nay, Bằng không có trở lại thăm người bạn trẻ tuổi đó. Chàng đã lên cự cô em họ, nhưng không tìm ra được lý lẽ gì để nói cho trôi thái độ bất lịch sự của em mình, chàng trốn luôn.

Hôm nay ra tới đường, Bằng bắt tay Long rồi xem lại đồng hồ thì đã mười giờ sáng rồi. Giờ nầy không rõ Côn có ở nhà hay không. Nó thích đi xi nê buổi chín giờ rưỡi sáng chúa-nhựt lắm.

Sợ bạn đi vắng, Bằng lại đến đó với hy-vọng Côn không có ở nhà. Lạ quá, chàng đâm ra sợ sự gặp mặt nầy. Ăn làm sao, nói làm sao với người ta? Tìm mãi sẽ ra lý-lẽ để cắt nghĩa thái-độ tầm phào của Quá. Nhưng đó là lý-lẽ giả dối, mà Bằng lại rất không thích nói dối.

Bằng đến nơi thì thấy Côn đang tiễn khách ra ngõ. May quá!

Khách là một người bạn gái mà có lần Côn định cưới làm vợ. Không hiểu sao rồi chàng bỏ ý định ấy nhưng cô bạn vẫn còn yêu Côn và không hết hy-vọng.

Bằng lo lắm. Cô gái vận-động cho sợi dây đã đứt được nối lại hay chăng? Không chắc, và nếu có, chưa hẳn cuộc vận động ấy sẽ có kết quả. Tuy vậy nó cũng cản trở phần nào công việc của anh.

Côn thuộc hạng em út của Bằng. Anh ta vẫn cung kính tiếp người bạn vong niên chớ không có tỏ vẻ gì giận lẫy cả.

– Sao lâu quá anh không thấy tới chơi. Tôi thì tôi tìm anh mãi mà không gặp.

– Tìm làm gì? Bằng hy vọng hỏi.

– Tìm để thăm anh chớ có gì đâu.

– À, ra vậy. Bằng hy-vọng hão trong giây phút nên phải thất-vọng sau câu trả lời rất hợp lý của Côn.

Ngồi đó làm thinh giây lâu Bằng lại hỏi:

– Anh còn giận tôi hay không?

– Sao tôi lại giận anh?

– Vì tôi làm ông mai, mách cho anh một chỗ kỳ-cục

Côn cười lớn:

– Anh nói quá! Không có gì là kỳ-cục hết. Vậy tôi không có giận anh đâu.

Bằng thở dài mà rằng:

– Tôi nói ra chắc anh cho tôi là một ông cụ già, chớ quả thật là như thế: con gái ở buổi giao thời nó ba lăng nhăng lắm, khôn không ra khôn, mà điên cũng chẳng ra điên…

Không giấu gì anh, con em tôi nó cũng là một cô gái điên nhưng tôi ngỡ nó khỏi rồi, nào dè chứng nào nó vẫn còn tật ấy. Nó trẻ lòng, non dạ ấy mà, rồi nhiễm những tư tưởng quá bạo, nên trông nó gàn gàn…

– Không, tôi thấy cô ấy thông minh lắm, và thành thật lắm.

– Để tôi nói hết anh nghe. Lúc dì dượng tôi định lui về vườn, có hỏi ý kiến của con cái. Vì nội nhà không ai đồng ý nhau cả, nên bày ra bỏ thăm. Con em út tôi nó bị thiểu số. Không biết làm sao để ngăn trở sự qui điền, nó mới hăm dọa không lấy chồng hoặc cắt tóc đi tu, nếu bắt ép nó về vườn. Nhưng rồi nó không bao giờ có gan cắt tóc cả. Thế nghĩa là nó quyết chọn sự không lấy chồng. Khi anh đến, nó nói như vậy, vì tự-ái hão, muốn tỏ ra cho các chị nó thấy là nó hễ dám nói thì dám làm.

Anh thấy có phải là điên lắm hay không?

Côn làm thinh mà nghe, chừng Bằng nói xong, anh mới đưa ý kiến riêng ra.

– Cô ấy có điên như vậy, tôi cũng chẳng trách gì cô. Mỗi người một cá tánh, tại mình…

– Tại tôi, phải. Tôi nhận lỗi cả. Tại tôi không kiểm soát xem con bé ngông thuở bé ấy, đã hết ngông chưa và lời hăm dọa của nó, cà rỡn hay thật.

Tôi hối hận đã làm phiền anh, nhưng không biết lấy gì để chuộc lỗi. Con em tôi thì vì điên nên nó giải quyết hối-hận của nó cũng rất giản tiện.

– Cô ấy cũng hối-hận nữa à?

– Phải. Nhưng tôi cần thú thật với anh là nó hối-hận không phải vì đã làm phiền anh. Nó không tin là anh lấy thế làm nhục, vả nó cũng ích-kỷ lắm, nghĩ đến nó nhiều hơn. Nó hối hận vì đã từ chối anh là một người nó thú nhận là xứng đáng làm chồng của nó. Đó là sự hối hận đã bỏ trôi qua hạnh phúc.

Côn chú ý nghe rồi hỏi:

– Thế cô giải quyết hối hận của cô bằng cách nào?

– Bằng cách giản tiện hơn hết, giản tiện cho nó, là uống thuốc ngủ tự tử.

Côn nhảy dựng lên:

– Tự tử? Hồi nào?

– Sau ngày anh lên trên ấy.

Côn ngậm-ngùi kêu than:

– Trời ơi! Tội nghiệp! Sao không thấy báo đăng tin, cũng chẳng nghe anh nói gì hết.

– Nhà đã giữ kín, không ai biết được cả.

Côn ngã người trên lưng dựa của chiếc ghế mà anh ngồi, rồi thở dài mà nói một mình:

– Vậy là xong một đời! Cô ấy làm xằng quá.

– Không, nó không chết đâu.

– Vậy hả?

Côn bị kích thích ngồi chồm tới mà hỏi như vậy, Bằng cố giấu sự vui mừng cứ chực trồi lên mặt chàng. Chàng đã dùng đúng chiến lược và đẩy người bạn trẻ tuổi từ chỗ giận lẫy, thờ ơ, đến chỗ chú tâm tới người con gái đã ngược đãi anh ta một cách tàn nhẫn.
Chàng cười ha hả rồi nói:

– Đã bảo là nó điên, nó ngu, nó tự-vận cũng điên và ngu lắm. Ai đời muốn chết mà nó khóc đến bốn giờ sáng mới uống thuốc ngủ. Cho nên sáng ra là người nhà hay kịp bắt nó phải sống dậy. Nếu nó khôn, đừng thèm khóc, đừng thèm viết thơ để lại, uống ngay hồi đầu hôm thì có trời mà cứu.

Côn cũng cười rồi hỏi:

– Vậy bây giờ cô ấy ra làm sao?

– Nó lại càng điên hơn, sau vụ chết hụt đó. Tôi lo ngày kia phải thật sự đưa nó đi Biên Hòa. Thây kệ, cho đáng kiếp.

Nói tới đó, Bằng đứng lên giã bạn.

Côn không nói gì nữa, không hỏi gì thêm đến cô Quá, nhưng anh hẹn:

– Tôi sẽ tìm thăm anh. Nhưng anh không có mặt ở đâu cả, làm sao mà tôi tìm được. Vậy xin vô phép mời anh trở lại chơi thường thường.

Bằng cố ý không đáp.

*

* *

– Á, anh Bằng lên chơi!

Lạ quá, lần nầy chỉ có một mình cô Hương reo mừng người anh họ thôi. Hồng ít lời thì đã đành rồi, nhưng Hoa và Quá là kẻ mong đợi anh nầy hơn ai hết, lại chỉ mừng bà con một cách âm thầm và có chừng mực thôi.

Cả hai không còn mong mỏi nhiều nơi tài giúp đỡ của Bằng như trước nữa, vả Hoa đã yêu hụt một người, lòng còn bận bịu người đó, Quá thì chán nản lắm rồi không thiết đến gì nữa cả.

Nhưng cả bốn chị em đều ngạc nhiên mà thấy Bằng vui vẻ như trước chớ không quạu quọ, càu nhàu như mấy chuyến lên chơi vừa rồi.

Bằng mới tới sân đã hét:

– Có dừa xiêm hôn, chặt mau mau lên. Nạo được thì nạo, bỏ thêm muối vô!

Sự thờ ơ, bẽ bàng, sự chán nản bỗng như hoảng sợ bay mất trước tiếng nổ dữ dội ấy.

Cô Quá già đi đến bốn năm tuổi, sau ngày chết hụt, nghe mình trẻ con lại như cũ được. Hôm nay mới thật là ngày Thái-huyên trang trở lại nguyên-trạng trước biến cố.

Bằng pha trò trước mặt dì dượng:

– Chúa nhựt hôm nay tôi cần đi Mỹ tho có việc mà phải dẹp chuyến đi ấy lại để lên đây vì tôi cần tìm danh sư cho một người bịnh.

Cả nhà nghĩ ngay đến bà lang băm, và đều nhìn Hương mà cười. Bằng thêm:

– Con bịnh đang ốm nặng, đau tương-tư ấy mà!

Vẫn chưa ai hiểu gì. Có người lo lo, băn khoăn không biết Bằng đem tin dữ gì tới đây. Người thanh niên vui tánh này liền chỉ vào Quá mà nói:

– Đây là danh sư. Chỉ có bà mới chữa khỏi bịnh người ấy thôi, bởi vì chính bà đã gây ra bịnh. Thằng Côn bây giờ nó dở sống dở chết dưới ấy.

Ông bà Nam Thành bỗng nghe hy vọng nở lại chật lòng ông bà. Nhưng cố làm ra bình tĩnh, ông Nam Thành hỏi:

– Ừ, thế người ta còn giận hay không? Cháu xin lỗi giùm dì dượng, em cháu nó còn khờ dại lắm.

– Người ta nào dám giận, thưa dượng. Người ta chỉ đau khổ thôi.

– Tội nghiệp!

Cô Quá lảng đi nơi khác, trong khi ba chị em bu quanh Bằng mà hỏi thăm về anh chàng đi coi mắt vợ gặp rủi ro.

Thật là cảm động, mấy chị em thương yêu nhau lắm, và cô nào cũng rất thương yêu đứa em út nầy. Hạnh phúc của nó là mối lo nghĩ lớn của các cô, cho nên các cô cũng hy vọng không kém cha me.

Hương hỏi:

– Anh nói giỡn hay nói thật anh Bằng? Cậu ấy nghĩ gì về gia quyến mình?

– Nếu không có, ai dám nói. Tôi chỉ cà rỡn đối với việc cà rỡn thôi. Việc nghiêm trang thì tôi nghiêm trang hơn ai cả.

– Đâu, anh tả chứng đau tương-tư nghe coi, Hoa yêu cầu.

– Nè, đau tương-tư là như thế nầy: tim kẻ tương-tư thì nó hoặc là khô lại hoặc tan thành nước. Nếu nó khô thì hễ kẻ đau-tương tư mà đi đứng thì ta nghe tim hắn kêu lốc cốc, lộc cộc trong lồng ngực hắn, nếu tim tan thành nước thì hắn đi, ta nghe kêu lọc ọc lọc ọc như trái dừa khô mà nước đã cạn nửa chừng.

Hoa cười ngả nghiêng mà Bằng lại nói thêm cho cô cười đến sặc:

– Những tiếng lốc cốc ấy đánh nhịp cho sáu câu vọng cổ mà hắn ca suốt ngày.

– Sao hắn lại không ca trường-tương-tư?

– Vì đời nay người ta chỉ đau tương-tư có vài tháng ngắn ngủi thôi rồi người ta tìm vợ khác, còn trường làm sao được mà trường.

Rồi anh kết luận:

– Bởi vậy đừng có bắt người ta tương-tư lâu. Họ sẽ chán rồi đi mất. Các cô nên cắt nghĩa cho cô Quá hiểu lẽ đó.

Hương thấy cần phải nghiêm trang nên suỵt em một cái rồi hỏi:

– Nhưng nó đã có thái độ dại dột như vậy, bây giờ tính sao?

– Thì có tính sao. Bắt nó phải thề đừng nói điên nói khùng nữa, tôi mới dám cho người ta trở lên đây. Nếu để họ lên đây một lần nữa mà nó còn làm như vậy thì chết tôi.

– Thôi. Anh đi nói chuyện với má em đi, rồi ta tính chung.

– Phải, tôi phải để các cô lo món chả giò đặng đãi khách chớ.

– Gì đó nữa? Lành hay dữ?

– Lành. Hỉ tinh mà.

– Thì anh nói đại đi, em sốt ruột muốn chết đây.

– Cô Hoa có sốt ruột hay không?

– Nữa, sao lại không, Hoa đáp, cả hai đứa, bụng đang nóng như lò lửa đây.

– Để dành hai cái bụng đó lát nữa chiên chả giò. Nầy cô Hoa. Tôi báo trước cho cô biết. Tôi sẽ dẫn bạn tôi lên đây xem mắt cô. Nếu cô đâm khùng như cô Quá thì trọn đời tôi chẳng dám để chân tới đây nữa đâu.

– Ai mượn anh?

Hoa hỏi bằng giọng căm giận thật tình chớ chẳng phải làm bộ.

Không thể thú nhận được, cô quả đã tức cho tình thế oái oăm nầy. Hằng bao lâu, mong mỏi nơi người anh họ, mà không thấy tia hy vọng nhỏ xíu nào cả. Nay vừa yêu một người, thì anh ấy lại đưa ra một tin khiến cô rất khó nghĩ.

Nhưng Bằng không giận thái độ của em mà chỉ cười hề hề rồi đáp:

– Tình thương mến bà con biểu tôi như vậy. Tôi có bổn phận gây hạnh phúc cho các cô, mặc dầu các cô nổi điên mà phản đối. Các cô điên cả, điên hết nhà. Nhưng tôi còn tỉnh thì phải lo cho các cô.

*

* *

Cô Hương, người ngồi lại bàn ăn sau hết hồi nãy, đang ăn tráng miệng, thì ông bà Nam Thành nói:

– Các con, đừng đứa nào đi hết cả. Ba má có việc quan trọng nói với các con.

Đoạn day lại bà, ông bảo:

– Tôi nhường lời lại cho bà đó.

Bà Nam Thành chưa chi đã rút khăn ra để hỉ mũi, rồi mếu máo kể lể:

– Ba, má thương các con không biết bao nhiêu, muốn lo gầy dựng cho các con sớm chừng nào hay chừng nấy, mà các con xem bộ không coi lo nghĩ của ba má vào đâu cả.

Nay anh Bằng các con lên đây để cố gắng lần chót giúp ba má lo cho con Hoa và con Quá trước. Ba má nói thật với hai đứa, nếu hai đứa mà lộn nài tháo ống nữa thì ba má chỉ còn nước chết cho rồi.

Rồi bà khóc sụt sùi như là hai cô đã làm khổ bà rồi vậy.

Ông Nam Thành tiếp lời vợ:

– Các con có thể không thương người ta, điều đó cha mẹ không thể ép. Nhưng thương hay không, để người ta đến vài lần rồi sẽ hay. Chớ con cố ý đẩy người ta ra khi người ta mới bước vào nhà thì thật là không biết thương cha mẹ vậy.

– Thế là rõ. Bằng nhìn bốn cô em gái, nhứt là Hoa và Quá, mà nói như vậy. Dì dượng có ép các cô phải ưng quyết người nào đâu. Nhưng mà các cô phải lấy chồng cho dì dượng an lòng. Đó là một sự hi-sinh nhỏ mà người con nào biết thương cha mẹ cũng phải làm.

Bằng giỏi lắm. Anh đã sắp đặt chiến lược một cách khéo léo, trình bày câu chuyện thì y như là các cô không thích lấy chồng mà phải hy sinh vì lời kêu gọi của anh.

Hoa và Quá nhờ thế thay đổi thái độ được mà khỏi phải mắc cỡ với ai cả.

Lần nầy hai cô không khoe bản lãnh nữa mà chỉ làm thinh theo điệu Việt Nam cổ. Bằng nói:

– Có chứng nội nhà. Tôi xem sự im lặng của hai cô là sự nhẫn nại chịu số phận. Vậy tôi sẽ đưa người ta lên, không biết ngày nào…

Theo dị đoan của ta thì một nhà không nên gả hai đứa con trong vòng một năm. Ông Nam Thành thì bất kể tư-tưởng ấy. Còn bà, tuy sợ hãi lắm cũng phải liều mạng vượt tục vì để trễ ngày nào bà lo ngày nấy.

Hai đám hỏi làm vào cuối tháng tám, định đầu tháng mười là cưới.

Long nhớ Hồng lắm mà thơ qua lại không đủ làm cho chàng khuây. Hay tin đám hỏi đã làm xong, chàng định lên thăm bạn vì không còn ai ganh với ai nữa mà phải lo.

Nhưng chàng vẫn chưa dám, các ông cụ bà cụ nhờ thấy nhiều chuyện nên đã hay kể những vụ sanh chứng bất thình lình của những cô gái sắp lấy chồng. Những vụ sanh chứng ấy chỉ đột ngột phát lên vào tháng cuối cùng trước ngày đám cưới thôi.

Sự có mặt của chàng trong gia đình ấy có thể khơi ngòi nhân dục rồi sanh ra lắm chuyện không hay.

Lạ quá, chàng không phải tay mơ về gái. Chàng đã gần nhiều đàn bà, hơn thế, đã yêu. Nhưng đây là lần đầu chàng sốt ruột vì một giai nhân.

Trước chàng muốn yêu ai thì cứ đeo đuổi theo người ấy. Rồi được yêu, chàng khỏi phải nhớ nhung gì cả. Bây giờ thì người chàng yêu là một trái cấm, khiến chàng nghĩ đến người ấy không bao giờ thôi.

Long đi thơ thẩn trên vỉa hè, như một cậu học sinh mười tám mới bắt đấu bâng khuâng.

Bỗng chàng bị ai vỗ mạnh lên vai. Giựt mình, họa sĩ day lại thì ra đó là Bằng:

– Hú hồn hú vía tôi!

– Sao lại sợ, có kẻ thù à?

– Không, nhưng đang lo ra, nên hết hồn.

– Băn khoăn về nghệ thuật hả?

Long không đáp lời bạn mà nắm tay anh này rồi hỏi:

– Tôi có thể lên thăm Hồng được hay không?

– Á, tôi ngạc nhiên mà thấy sao anh không lên đó. Chẳng những ngạc nhiên mà thôi, tôi lại còn hơi lo nữa.

– Nhưng tôi sợ có hại.

– Không, anh khỏi phải lo. Côn và Đăng cả hai đều bảnh trai, đều khá về tâm tánh nên được hai em tôi nó yêu thật sự rồi, chỉ còn chờ ngày cưới nữa mà thôi.

– Vậy hả? Thế mà tôi cứ ngại nên tôi không dám lên.

– Còn tôi, tôi lại cứ lo. Tôi có hỏi thăm em tôi về anh. Nó bảo là anh vẫn gởi thơ luôn. Nhưng như thế không phải là một bằng cớ chắc chắn của tình yêu mà tôi không an lòng được. Tôi lại lo vì lẽ khác nữa.

– Lẽ gì?

– Thôi, khoan nói vội.

*

* *

Trở Về

Tìm Kiếm