…..

ĐỨC THẦY CÒN HAY MẤT ?

LỜI  ĐỨC THẦY TRUYỀN LẠI

Tác giả: P.T.A.Đ

 

LTS- Bài này được viết vào năm 1963 Dù hình hài của  Đức Huỳnh Giáo Chủ mất đi, nhưng Tâm Linh Ngài bất diệt.

Xin đăng lại với niềm ngưỡng vọng  Tâm Linh miên viễnVIỆT.IMG.618


INK.195 I. Từ ngày 19-8-1945 đến nay đã 18 năm qua. Thời gian đi mau như bóng câu qua cửa số. nhìn lại quá trình tranh đấu và sự diễn tiến của phong trào vận động lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt:…ai cũng phải nhìn nhận
rằng xương máu của nhân dân, của những nhà ái quốc hữu danh hoặc vô danh đã đổ ra rất nhiều để xây nền đắp móng cho Tổ Quốc Việt thân yêu.

18 năm qua, biết bao nhiêu người đã hy sinh hình hài cho Tổ Quốc. Nhưng cũng biết bao người đã chết oan uổng vì sự manh tâm độc ác của lũ người vong bản, chịu dâng hiến một dân tộc oai hùng đã có một quá trình lịch sử vẻ vang cho đế quốc. Những lũ người ấy, kẻ thì định đi ngược trào lưu theo Pháp chống lại đồng bào, kẻ lại đưa cuộc vận động lịch sử đấu tranh của dân tộc sang cuộc huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa và còn định xóa biên cương đưa giống Bách Việt vào gông cùm của một Trung Hoa thèm khát mà lịch sử đã chứng minh rõ rệt rằng từ ngàn năm xưa vẫn lăm le thôn tính nước ta, để tiến về phía Nam mở rộng bờ cõi, biên cương.

Ngày 19-8-1945, sau gần 100 năm mất nước, dân tộc Việt bắt đầu viết lại trang sử oai hùng của một thời cận đại bằng máu xương của những đứa con yêu nước. Tất cả từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau đều vùng lên chiến đấu cho sự sanh tồn của dân tộc Việt, một đại dân tộc hùng cứ một phương trong vùng Đông Nam Á.

Nhưng cuộc vùng lên chiến đấu ấy phải bị đánh dấu một cách đau thương bằng cái chết của Tạ Thu Thâu, của Phan văn Hùm, của Dương Văn Giáo, của Nguyễn Văn Sâm, của Hồ Văn Ký, Hồ Văn Ngà, của Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Long, Võ Tài cho đến ngày Đức Giáo Chủ (ĐGC) Huỳnh Phú Sổ của 2 triệu tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo (PGHH) bị sát hại một cách mờ ám sau khi hàng chục ngàn tín đồ Hòa Hảo (HH) bị giết chết, chặt đầu, mổ xác, phanh thây.

Ai cũng biết khi mà toàn dân đang kháng chiến chống bọn thực dân Pháp, thì chính người Việt thuộc Đệ Tam CS đã giết Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Sâm, Hồ Văn Ký, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Bùi Quang Chiêu và đã làm cho cụ Nguyễn Hải Thần, ông Nguyễn Tường Long phải lưu vong để rồi bỏ mình nơi đất khách quê người. nhưng chỉ còn chung quanh việc ĐGC Huỳnh Phú Sổ sau khi mời đi phó hội biệt tích đến ngày nay không ai rõ

Đức Thầy còn hay đã mất ? Và mất  thì những kẻ âm mưu sát hại Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ là ai ?

–        Bửu Vinh có phải là thủ phạm như một vài người đã nói chăng ?

–        Đức Hùynh Giáo Chủ đi phó hội ở những đâu ?

–        Những ai đã từng tiếp xúc với Đức Thầy Hùynh Phú Sổ trước khi Đức Thầy lâm nạn ?

–        Trần Văn Trà, khu trưởng khu B, hiện nay là thiếu tướng tham mưu trưởng kiêm thứ trưởng quốc phòng Bắc Việt, Phan Trọng Tuệ, thiếu tướng bộ trưởng bộ công thương Bắc Việt, Phạm Hùng, bộ trưởng tại phủ thủ tướng miền Bắc, nguyên giám đốc sở công an Nam Bộ, Lê Duẩn, Trung ương ủy viên đảng công sản Đông Dương (ĐCSĐD) phụ trách đảng bộ VN hiện là bí thư đảng Lao Động VC, cố trung tướng Nguyễn Bình, tư lệnh quân sự Nam Bộ, Lê Văn Viễn, đại tá tư lệnh Bình Xuyên, khu phó khu 7, Trần Văn Giàu, ủy viên ĐCSĐD phụ trách Nam Bộ, Phạm Văn Bạch, chủ tịch UB kháng chiến (UBKC) Nam Bộ, Hùynh Phan Hộ, khu trưởng khu 9, Trương Văn Giàu, khu phó khu 8, Võ Gia Phục Quốc ..vv.. ai là kẻ chủ mưu sát hại  ĐGC Hùynh Phú Sổ ?

II. Trong công cuộc đấu tranh với thực dân giành độc lập cho đất nước, và chống lại bọn vô thần CS, gia đình của đức ông Hùynh Công Bộ đã hy sinh một người con là ông Hùynh Phú Mậu, tức Hùynh Thạnh Mậu, em ruột Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và Đức Thầy Hùynh Phú Sổ bị biệt tích kể từ ngày Hùynh Giáo Chủ đến Đốc vàng Thượng ở Sadec nơi Bửu Vinh, chỉ huy trưởng quan đội VC ở Long Xuyên gặp Trần Văn Nguyên, nguyên cựu đốc học tỉnh Sadec làm chủ tịch UBND Long Xuyên vào ngày 23-4-1947.

Các vị chức sắc cũng như các tín đồ PGHH kể từ ngày ĐGC Hùynh  Phú Sổ biệt tích, đều cho rằng không ai sát hại được Đức Thầy và Người chỉ lánh mình một thời gian lâu, mau tùy theo ý của Đức Thầy và rồi đây Đức Thầy cũng sẽ trở về chăn dắt các đệ tử môn đồ.

Niềm tin ấy in sâu trong tâm khảm với sự thành kính vô biên đối với Đức Thầy.

Với thiên hồi ký này, chúng tôi chỉ thuật lại những sự việc đã xảy ra khi Đức Thầy họat động trong công cuộc chiến đấu chống ngọai xâm, và không bao giờ dám đá động đến lòng tin của các tín đồ PGHH.

Trước khi vào đề, chúng tôi xin lục đăng bức thơ của các tín đồ PGHH ờ vùng Hậu Giang kính đệ Đức Thầy sau khi có tin Đức Thầy bị bọn Trần Văn Nguyên, Bửu Vinh mưu hại và cũng từ đấy Đức thầy vắng mặt ở Thánh Địa.

Các tín đồ tụ họp làm lễ tại Thánh Địa Hòa Hảo rồi tuyên đọc bức thơ nói trên trướng bàn thờ Phật xong đem đốt bản chánh đi.

Nguyên văn bức thơ ấy như sau đây:

Bạch Đức Thầy,

Cõi trời Nam nhuộm màu tang, khắp giang san máu chảy thịt rơi, làm cho trăm họ lầm than, muôn dân đề thán ròng rã 3 năm trường sống trong lọan lạc, vườn trống, nhà không, bốn bề hiu quạnh. Tiếng khóc than chấn động trời xanh, mùi bom đạn xông cùng đất nước.

Trọn miền Hậu Giang phì nhiêu phong nẫm, ngày xưa đã từng đón tiếp vết chân Giáo Chủ với muôn tiếng reo hò đến nay chỉ còn lại những cảnh điêu tàn, hoang phế, phủ trùm muôn lớp khí hậu, hồn phiêu diêu bất diệt.

Một vùng Sua Đũa, trọn xóm Bằng Lăng với đám đại chúng tín đồ rải rác cùng nơi, hiện chơi vơi giữa vòng khổ ải, còn đâu vắng nghe những câu kinh sớm, kệ chiều của thời thịnh trị.

Tình cảnh của bổn đạo vắng Thầy nào khác đàn gà mất mẹ, bầy chiên lạc kẻ chăn, số mạng rủi may đành liều cho diều hâu lang sói. Chúng sanh ngày đêm mỏimắt ngóng trông, đệ tử luôn luôn trọn lòng hòai vọng, chỉ ước mong được lời Thầy chỉ giáo.

Nhưng than ôi ! Bốn phương trời, núi cản sông ngăn, hình bóng Thầy biết tìm đâu cho thấy !

Vừa đây, một bản tố trần chứa chan âm đức của Ngài Hộ pháp Cao Đài đã được truyền ra, dường như nhắc nhở tín đồ HH phải lắng tai nghe tiếng Đức Thầy, hầu cứu với sanh linh khỏi vòng nước lửa.

Tiếng của Đức Thầy từ bi âm, cứu khổ độ nguy ! Tiếng của Đức Thầy sẽ là hồi chuông cảnh tỉnh vang động khắp nơi để cho đệ tử bình tâm, chúng sanh giác ngộ.

Cái tiếng lanh lảnhngày xưa đã từng hướng dẫn muôn triệu tín đồ khỏi bến mê tân, hôm nay sẽ là một phép mầu đẩy đưa bá tánh ra ngòai vòng binh lửa.

Một tấc lòng thành, muôn niềm hoài vọng, chúng sanh đệ tử cầu xin Đức Thầy đóai tưởng đến muôn vạn sanh linh lên tiếng từ bi để cho dân chúng được sống trở lại cảnh thái bình, thạnh trị. Bóng hình tuy cách, nhưng vẫn thông cảm nặng nề kính vì Thầy, lễ kịch, lời quê hầu tìm thấy phương châm cứu quốc.

CHƯ ĐỆ TỬ HÒA HẢO TOÀN CÕI HẬU GIANG

Kính Bái.

NAM BỘ TRONG TAY CS

III. Ngày 21-8-1945, chính quyền về tay Trần Văn Giàu, Đv CSĐD, nguyên sinh viên trường cán bộ chánh trị Lênin ở Mạc Tư Khoa. Áp dụng theo một âm mưu tranh công và thủ tiêu những đòan thể, đảng phái, tôn giáo đã từng hy sinh xương máu trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, Trần Văn giàu bổ nhiệm Lý Huệ Vinh là giám đốc Cảnh Sát và Công An Saigon-Cholon, Mai Văn Bộ làm giám đốc Sở Thông Tin Tuyên Truyền.

Việc đầu tiên của Trần Văn Giàu là nghĩ kế buộc chân các chiến sĩ Hòa Hảo. Giàu không lạ gì ĐGC Hùynh Phú Sổ, vị lãnh đạo tinh thần của PGHH lúc bấy giờ đang là Hội chủ VN Độc lập Vận động hội, trụ sở ở số 8 đường Sohier, Saigon.

Giàu muốn Đức Thầy Hùynh Phú Sổ hạ lệnh cho các tín đồ không được chống Đệ tam CS nữa. Giàu liền phái Mai Văn Bộ đến diện kiến mời Đức Thầy tham dự chính quyền của VM chức ủy viên Xã hội trong UBND Nam Bộ.

Để tỏ thiện chí hợp tác và đặt quyền lợi Tổ Quốc, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đã nhận lời mời của Trần Văn Giàu.

Ngày 3-9-1945, tại phủ Cao ủy CH Pháp đường Lagrandiere hồi bấy giờ là trụ sở UBND Nam Bộ, Trần Văn Giàu tổ chức buổi lễ nhậm chức của Đức Thầy.

Trong khi đó thì ở Hậu Giang, để độc chiếm quyền lãnh đạo, bè phái của Giàu thẳng thay đàn áp tín đồ của giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài hiệp nhứt.

Do đó tại Cần Thơ, tín đồ HH phản ứng bằng cách biểu tình rầm rộ từ Cầu Bắc kèp về tỉnh lỵ. Nguyễn Văn Tây, thanh tra chánh trị miền Tây ra tay đàn áp, nhiều cuộc đổ máu xả ra.

Tình hình cực rối ren khắp miền Hậu Giang, các vị chức sắc và tín đồ cũng như những người có cảm tình với giáo phái PGHH vị VM bắt giam, thủ tiêu.

Trước tình hình vô cùng nguy ngập, các tín đồ PGHH đành phải khép chặt hàng ngũ phản ứng lại và quyết tâm chống bọn đệ tam CS.

Một hôm vào hồi 10 giờ, lúc Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đến UBND Nam Bộ thì tại Cần Thơ, bọn Nguyễn Văn Tây đang đàn áp giết chóc các tín đồ PGHH do ông Trần Văn Sóai cầm đầu.

Khi được tin cuộc biểu tình của PGHH đã bị chặn đứng và đàn áp thì Trần Văn Giàu liền ra mật lịnh cho Lý Huệ Vinh, Gđ CA Cảnh Sát Saigon bắt Đức Thầy.

Sau khi ờ trụ sở UBND Nam Bộ ra xe, Đức Thầy đi thẳng về trụ sở VN Độc Lập Vận Động Hội, đường Sohier, Lý Huệ Vinh theo dõi bám sát Đức Thầy rồi cho CA bố trí canh gác chung quanh trụ sở.

Lý Huệ Vinh về báo cáo cho Trần Văn Giàu thì Giàu liền gọi Mai Văn Bộ đến để chuẩn bị cuộc họp báo và định dùng độc kế bôi lọ thanh danh Đức Thầy.

Lý Huệ Vinh chuẩn bị chu đáo thì vào 8h30 tối ngày 9-9-1945, được linh huy động CA xung phong vào vây bắt Đức Thầy, sau khi được tin cuối cùng là Đức Thầy vẫn có mặt tại đây.

CA của Lý Huệ Vinh đang sẵn sàng nổ súng vì bên trong trụ sở có đòan vệ sĩ Đức Thầy rồi. Lý Huệ Vinh liền ra lệnh cho CA tràn vào.

Trong trụ sở vẫn im lặng, nhưng bỗngnhiên tất cả đèn đều tắt. Thế là tiếng súng 2 bân bắn nhau nổ ròn tan. 15 phút sau, tóan CA Xung Phong của Lý Huệ Vinh ập được vào thì chỉ có ông Lương Trọng Tường cùng với một số đệ tử của Đức Thầy có mặt tại trụ sở đường Sohier mà thôi.

Lý Huệ Vinh hầm hầm vào hỏi :

–        Ông Hùynh Phú Sổ đâu ?

Lạ thay, không có Đức Thầy trong trụ sở. Bọn CA của Lý Huệ Vinh phát khùng lên vì mấy phút trước, chúng còn thấy Đức Thầy, mà khi ập vô lại không có, chúng chia nhau lục sóat khắp các nơi vẫn không thấy ĐGC.

Lý Huệ Vinh tức tối cật vấn mấy người coi Đức Thầy trốn ở đâu ? nhưng không ai biết cả.

IV. Khám xét gần 2 tiếng đồng hồ mà không tìm thấy Đức Thầy, bọn CA vây gác bên ngòai cũng không thấy một người nào đi ra.

Lý Huệ Vinh tức tối phát khùng lên. Từ 8 giờ 30 cho đến khi ào vô khám xét thì Lý Huệ Vinh đều nhận được phúc trình là Đức Thầy Hùynh Phú Sổ vẫn có mặt ở số 8 đường Sohier. Thế là sau một hồi nổ súng vây bắt tất cả những người trong trụ sở đường Sohier lại thiếu Đức Thầy.

Theo kế họach của bọn Trần Văn Giàu là phải bắt sống Đức Thầy nhưng nếu bị kháng cự mãnh liệt thì Lý Huệ Vinh có tòan quyền hạ sát Đức Thầy và tráo chiến valy hành trang Đức Thầy. Trong chiếc valy có những bức hình khỏa thân, khiêu dâm, những thuốc kích thích vật dục, thuốc phong tình, những bức thơ tình mùi mẫn. Trần Văn Giàu, Lý Huệ Vinh, Mai Văn Bộ còn định ghép hình Đức Thầy vào những tấm hình khiêu dâm để khi bắt được Đức Thầy chúng sẽ dùng cực hình tra tấn buộc Đức Thầy phải nhận tất cả những điều xấu xa bỉ ổi ấy rồi cho Mai Văn Bộ, Trưởng ban Tuyên Truyền Đo Thành họp báo trình bày với các ký giả để bôi lọ thanh danh của Đức Thầy

Như Lý Huệ Vinh không bắt được Đức Thầy nên chương trình, kế họach hành động kia đều bị lạc đề.

Trần Văn Giàu giận dữ phát điên khi nghe Lý Huệ Vinh báo cáo không bắt được Đức Thầy. Giàu đập bàn hỏi lý Huệ Vinh:

–        Như thế này thì nghĩa lý gì ? Hùynh Phú Sổ chạy đi đâu ? Chẳng lẽ anh ta có phép tàng hình? Bọn chúng canh gác như thế nào ?

Lý Huệ Vinh báo cáo sự thể cho Trần Văn Giàu nghe. Giàu lại còn bực tức hơn. Con người chỉ biết biện chứng pháp duy vật như Trần Văn Giàu thì thế nào hiểu được sự việc trên được.

Giàu nghi cho đám CA của Lý Huệ Vinh có người đi hàng hai, mách cho Đức Thầy Giáo Chủ biết trước khi bọn Lý Huệ Vinh đến vây bắt.

Trần Văn Giàu liền gọi dây nói đến kêu Mai Văn Bộ lên UBND Nam Bộ ngay. Một mặt Giàu bảo Lý Huệ Vinh gọi Đỗ Văn Kiễn, Gđ khám đường Saigon sang CA nhận nhóm ông Lương Trọng Tường và mấy vị chức sắc của HH bị bắt tại nhà số 8 đường Sohier về giam tại khám trung ương.

Theo chỉ thị của Trần Văn Giàu sàng hôm sau Mai Văn Bộ triệu tập cuộc họp báo để trình bày về vụ khám trụ sở VN Độc Lập Vận Động Hội.

Trước anh chị em ký giả, Mai Văn Bộ mở chiếc valy mà Bộ nói là của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đưa ra những tấm hình khỏa thân, những bức thơ tình, những lọ thuốc kích thích vật dục để bôi lọ thanh danh Đức Thầy, cho Đức Thầy là người đội lốt tu hành làm điều sằng bậy kiểu Sư Muôn ở Gia Định trước kia.

Mai Văn Bộ còn cho biết Đức Thầy đã liên lạc với Pháp và sẽ được Pháp phong chức Phổ Nghi khi Pháp trở lại Nam Việt.

Mặc cho Mai Văn Bộ đem hết tài hùng biện, đưa những bằng chứng ngụy tạo ra để bôi lọ, nói xấu Đức Thầy cốt làm cho các ký giả tin tưởng là thật nhưng kết quả đã lật ngược, chẳng ký giả nào tin là thật sự việc Mai Văn Bộ trình bày.

Quá trình tranh đấu và uy danh Đức Thầy Hùynh Phú Sổ từ trước đến nay đã bào đảm mọi hành động của Đức Thầy, không một ai dám biết rõ tình hình mà ngờ vực điều đó được.

V. Không thi hành được kế họach sâu độc. Trần Văn Giàu, Lý Huệ Vinh, Mai Văn Bộ tức tối điên cuồng. Mai Văn Bộ buộc các chủ báo phải đăng cuộc họp báo bôi lọ thanh danh Đức Thầy. Một mặt, Lý Huệ Vinh cho điều tra về vụ Đức Thầy tự nhên mất dạng tại trụ sở số 8 đường Sohier.

Trần Văn Giàu nghi ngờ trong đám CA của Lý Huệ Vinh có đứa phản lại cho Đức Thầy biết trước.

Cuộc điều tra cho biết, trong tóan CA được cử đi theo dõi Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đều là những kẻ thân tín, tin cậy của Lý Huệ Vinh không thể theo Đức Thầy được. Lý Huệ Vinh điều tra tỉ mỉ đám người ở trong trụ sở số 8 đường Sohier.

Trong khi đó thì dư luận xôn xao bàn tán cho rằng Đức Thầy tiên tri được vận hạn, quá khứ vị lai nên Đức Thầy đã đi khỏi trụ sở VN Độc Lập vận Động hội. Nhưng cũng có người vì quá kính trọng với Đức Thầy đã cho rằng Đức Thầy đã làm mờ mắt bọn CA VM. Khi bọn Lý Huệ Vinh đến vây bắt, Đức Thầy vẫn ngồi ngay ở bàn đối diện với ông Lương Trọng Tường mà bọn CA không nhìn thấy.

Theo phúc trình của tóan CA có bổn phận theo dõi Đức Thầy, vào hồi 20 giờ 45 Đức Thầy còn ngồi đàm đạo với ông Lương Trọng Tường.

Theo lời những người bị bắt tại trụ sở VN Độc Lập Vận Động Hội thì vào khỏang 20 giờ 47 phút, trong lúc đang ngồi nói chuyện với ông Lương Trọng Tường, Đức Thầy đứng dây nói với ông Tường rằng:

–        Có lẽ sắp có chuyện gì xảy ra, Thầy qua bên Đại úy Okamata một lát.

Nói rồi Đức Thầy đi thẳng ra của sau trước sự ngạc nhiên của mọi người.

2 người vệ sĩ thân tín của Đức Thầy định chạy theo nhưng Đức Thầy đã khóat tay ra hiệu cho ở lại rồi Đức Thầy đi luôn ra cửa sau.

Đức Thầy vừa đi được 1 phút thì có anh em đồng đạo vào cho biết bên ngòai có chiếc xe hơi vửa đổ, nhiều người lố nhố đang tiến về phía trụ sở. Anh em đồng đạo đâm lo ngại cho sự an ninh của Đức Thầy.

Nhưng Đức Thầy đã bình yên vào nhà Đại úy Nhựt Bổn Okamata rồi. Nếu Đức Thầy ra sớm 10 giây hoặc ra chậm 10 giây thì Đức Thầy cũng khó thóat khỏi.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ ra vừa đúng lúc chiếc xe hơi của CA do Lý Huệ Vinh lái chiếu pha, báo hiệu cho bọn CA bao vây trụ sở biết là CA Xung Phong đến xông vào bắt Đức Thầy. Thế là bọn CA chạy lại đón bọn Lý Huệ Vinh. Khi bọn CA gách chạy ra đón Lý Huệ Vinh thì Đức Thầy cũng vừa bước ra cửa sau rồi. Khi Đức Thầy vừa vô nhà Đại úy Okamata ờ đường Albert 1er tức Đinh Tiên Hòang bây giờ thì tiếng súng nổ rền phía trụ sở của Đức Thầy ở đường Sohier.

Đại úy Okamata một người rất kính trọng Đức Thầy tỏ vẻ lo ngại, lắng nghe tiếng súng rồi thưa với Đức Thầy:

–        Bạch Đức Thầy, con nghe hình như tiếng súng ờ phía trụ sở của Đức Thầy.

Đức Thầy thản nhiên gật đầu trả lời:

–        Bọn Trần Văn Giàu, Lý Huệ Vinh đến vây bắt tôi.

Viên Đại úy Nhựt mời Đức Thầy ở lại đàm đạo. Thế là Đức Thầy tránh được khỏi bị Trần Văn Giàu, Lý huệ Vinh, Mai Văn Bộ hãm hại.

Trong khi ấy tại nhiều tỉnh miền Tây, vùng Hậu Giang, phong trào các giáo phái đấu tranh chống CS ngày càng mạnh. Hàng ngàn người kéo ra biểu tình đấu tranh cho Dân chủ và Tự do.

VM CS thẳng tay đàn áp làm cho máu của người dân miền Tây HH phải nhuộm đỏ trên đất mẹ thân yêu.

VI. Có thể nói rằng trước ngày 23-8-1945 ngày các đảng phái Quốc Gia ở Nam Bộ chấp thuận Liên Hiệp dưới Mặt Trận VN Độc Lập Đồng Minh, tức VM để vô hình chung chủ quyền Nam Bộ phải lọt vào tay Trần Văn Giàu, bí thư xứ ủy Nam Bộ (Trần Văn Giàu tay sai cũa tên trùm mật thám Pháp Arnoud) người dân Nam Bộ không ai biết tới VM là gì ? VM như thế nào ?

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ hồi 1940 miền Tây cho Ba Quốc, lãnh tụ đạo trường ờ núi Tà lơn, nổi dậy chống Pháp; ở miền Đông do ảnh hưởng của Cao Đài. Ở Hóc Môn, Đức Hòa, Chợ Lớn, Long An do ảnh hưởng của Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Nguyễn An Ninh mà ra. Bởi vậy, sau ngày bọn Trần Văn Giàu nắm chính quyền ở Saigon, lập tức Trung ương Đảng Bộ ĐCSĐD đặc phái Hà Bá Cang bí danh Hòang Quốc Việt Trung ương ủy viên quê ở Đáp Cầu vào ngay Saigon lãnh đạo phong trào VM hiệp với Hùynh Văn Tiểng, Lê Duẩn mở rộng các tỉnh Đảng Bộ VM.

Nhờ các nhà CM thuộc đảng phái Quốc Gia như Nguyễn Văm Sâm, Hồ Văn Ngà, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Dương Văn Giáo ..vv.. không bao giờ nghĩ khác hơn độc lập quốc gia nên không chủ trương cần phải nắm chánh quyền, bọn Trần Văn Giàu, Hùynh Văn Tiểng, Hùynh Tấn Phát, Võ Văn Khải mới có chánh quyền trong tay.

Trần Văn Giàu và đồng đảng lấy giết chóc, tù đày, tra tấn để lọai các phần tử quốc gia và củng cố chánh quyền VM. Dĩ nhiên chúng phải gặp phản ứng mạnh mẽ của quần chúng như lực lượng HH ờ Hậu Giang miền Tây Nam Bộ và Cao Đài ở Miền Đông Nam Bộ và của đảng phái quốc gia khác.

Cuộc đầu tranh giữa lực lượng HH và VM bùng nổ ngày 27-8-1945. Lãnh tụ VM ở miền Tây là Nguyễn Văn Khéo, Nguyễn Văn Tây thức Thanh Sơn, Trần Văn Trà, Nguyễn Văn Hộ..vv.. thi hành chính sách vừa hô hào đòan kết liên hiệp vừa thẳng tay khủng bố.

Hòang Quốc Việt phái Nguyễn Xuân Thiếp xuống Cần Thơ tìm kế giải hòa, Nguyễn Xuân Thiếp liên lạc với ông Hùynh Phú Mậu, bào đệ của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thì sáng ngày 2-9-1945, ngày Hà Nội tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh thề không bắt tay với Pháp, Hùynh Phú Mậu, bào đệ của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ tiếp Nguyễn Xuân Thiếp nhưng cuộc đàm phán bất thành.

Đảng bộ CS miền Tây lập tức hội họp. Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Trà và Nguyễn Văn Khéo hì đồng ý với kế họach thủ tiêu các lãnh tụ HH để cho tín đồ như rắn mất đầu mới dễ đàn áp.

Nguyễn Xuân Thiếp thì cực lực phản đối hành động thất tín này.

Bọn Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Trà rất ngạc nhiên về sự phản đối của Nguyễn Xuân Thiếp nên cho điều tra lý lịch của Thiếp mới biết Thiếp không phải là CS tuy Thiếp ở trong phái đòan Trung ương của Hòang Quốc Việt từ Hà Nội vào. Nguyễn Xuân Thiếp là đảng viên VNQDĐ cùng ở tù với Hòang Quốc Việt và là bạn thân của Việt.

Lập tức Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Trà hạ lệnh bắt cóc thủ tiêu luôn nguyễn Xuân Thiếp. Kế họach của Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Giàu rất thâm độc.

Sau ngày 2-9-1945, Nguyễn Xuân Thiếp hẹn với Hùynh Phú Mậu gặp lại ngày 5-9-1945. Bọn Tây và Trà rất rõ vị hẹn này nên vào ngày 4-9-1945 cho bắt Nguyễn Xuân Thiếp thủ tiêu.

Đến ngày 5-9-1945, ông Hùynh Phú Mậu đến địa điểm hẹn trước với Nguyễn Xuân Thiếp để hội đàm. Hôm ấy ông Hùynh Phú Mậu cùng đi với người con trai lớn của ông Trần Văn Sóai và 2 người vệ sĩ, vừa đến địa điểm ước hẹn liền bị bọn Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Trà mai phục trước ở đó bắt. Bọn Nguyễn Văn Tây và Trần Văn Trà, phao vu ông Hùynh Phú Mậu đã hạ sát ông Nguyễn Xuân Thiếp, đại biểu VM rồi chúng cho hạ sát ông Mậu và những người đi theo ông.

CUỘC KHỦNG BỐ CỦA CS Ở MIỀN TÂY

VII. Tình hình ngày càng căng thẳng giữa tín đồ PGHH với VM. Cả 2 bên đều hầm hừ thanh toán lẫn nhau kể từ ngày bọn Trần Văn Trà, Nguyễn Văn Tây, Hùynh Văn Tiểng, Hòang Quốc việt âm mưu sát hại ông Hùynh Phú Mậu và người con trai ông Trần Văn Sóai, Chung Bá Khánh, Tú Tài Thiện và Nguyễn Xuân Thiếp, đại biểu VM ở Nam Bộ.

Phe Trần Văn Giàu chỉ muốn khủng bố đàn áp thẳng tay các lực lượng đối lập ở Miền Đông, các vị chức sắc Cao Đài. Ở Miền Tây thì các tín đồ PGHH bị thủ tiêu hàng lọat, gây ra cảnh tương tàn đau xót cho những ai nghĩ đến tương lai dân tộc.

Không khí đấu tranh chống lại VM ngày một dâng cao.

Bọn Hòang Quốc Việt, Hùynh Văn Tiểng, Lê Duẩn, Phạm Hùng họp liên tiếp tìn kế họach ngăn chận phong trào chống đối nói trên.

Sau mấy ngày thảo luận, VM thấy chỉ còn một kế duy nhứt là bắt liên lạc lại với Đức Thầy Hùynh Phú Sổ để bàn về kế Liên hiệp Đoàn kết chống thực dân.

Giữa lúc ấy từ Saigon điện về Tây Đô (Cần Thơ) cho biết quân đội Pháp đã theo với quân đội Anh đổ bộ vào Saigon, Đại tá Cedille, Tân ủy viên Công hòa Pháp ở Nam Kỳ đã nhảy dù xuống vùng Tây Ninh và đã được quân đội Anh đưa về Saigon.

Khí thế đấu tranh chống thực dân Pháp mỗi lúc một dâng cao trong quảng đại quần chúng. Trong khi đó thì ở Saigon, Trần Văn Giàu tìm đủ mọi cách nhờ đại tá Gracey (Anh) làm trung gian để liên lạc với đại tá Cedille (Pháp)

Bề ngòai tuy tỏ ra thiết tha với kháng chiến, nhưng bên trong bọn Trần Văn Giàu vẫn ngấm ngầm xin điều đình với Pháp để củng cố chánh quyền vừa đọat được. Phong trào kháng chiến ở Nam Bộ khi đó mạnh ai nấy đánh, chia từng nhóm chiếm cứ một địa phương như Bình Xuyên của Ba Dương, Bảy Viễn, đệ tam sư đòan cơ sở kháng chiến của QDĐ, của Cao Đài, của HH, Thanh Niên Tiền phong, Tự Vệ chiến đấu.

Những nhóm chiến đấu trên mạnh ai nấy đánh. Gặp giặc đánh giặc cướp súng, sống nhờ ủng hộ của nhân chúng, tự tạo lấy lực lượng. Còn VM thì thật ra chưa có một lực lượng chính yếu nào cả.

Trước âm mưu tái xâm lăng của Thực dân Pháp, những người yêu nước ở Nam bộ đều tỏ ra có thiện cảm với Liên Hiệp Thống Nhứt Hành Động lực lượng để kháng chiến, VM liền lợi dụng tinh thần yêu nước này đề ra chủ trương Liên Hiệp.

Bức Thơ Hùynh Văn Tiểng và Hòang Quốc Việt gửi ĐGC Hùynh Phú Sổ, bọn Tiểng, Việt đã thiết tha yêu cầu ĐGC chấp thuận chính sách Liên Hiệp Đòan kết đấu tranh chống Thực Dân.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đã chấp thuận lời thỉnh cầu của Hùynh Văn Tiểng và Hòang Quốc Việt, mặc dùông Lương Trọng Tường và nhiều vị chức sắc thân tín của Đức Thầy đã ngỏ lời xin đề phòng những âm mưu xảo trá.

Đức Thầy trả lời rằng:

–        Dù CS có âm mưu thế nào chăng nữa, khi họ đã ngỏ lời thỉnh cầu của Liên Hiệp Đòan Kết, Thầy vẫn chấp thuận để quần chúng nhân dân thấy rõ thiện chí, thành tâm yêu nước, yêu dân tộc của chúng ta. Chúng ta đòan kết là vì quyền lợi của dân tộc, nếu CS phản bội thì họ sẽ đắc tội với lịch sử, với nhân dân.

ĐỨC THẦY VÀ PHẠM THIỀU

VIII. Lời dạy chí tình của Đức Thầy làm mọi người không còn dám đệ lời cản ngăn nữa. Đức Thầy đã đồng trên quan điểm chí thiện, chí thành của người quân tử để hành động.

Đây là lần thứ 2 Đức Thầy chấp thuận Liên Hiệp với VM. Lần trước Đức Thầy nhận tham chính với chức ủy viên Xã hội của UBND Nam Bộ, để rồi bọn Trần Văn Giàu, Mai Văn Bộ, Lý Huệ Vinh phản bội, vây bắt Đức Thầy tại trụ sở VN Độc Lập Vận Động Hội ở số 8 đường Sohier Saigon.

Lần thứ 2 sau khi viết thơ phúc đáp Hùynh Văn Tiểng và Hòang Quốc Việt, Đức Thầy liền hẹn gặp gỡ thảo luận tại Hóc Môn, Gia Định ngày 2-10-45.

Hùynh Văn Tiểng và Hòang Quốc Việt nhận được thơ của Đức Thầy trở về Hóc Môn. Tại đây, Trần Văn Giàu và đồng đảng liền cho triệu tập cuộc họp giữa các đảng viên CS và một vài nhà CM chống Pháp tổ chức UB Hành Chánh Nam Bộ, Đức Thầy đến nơi với 4 vị chức sắc họp với Hùynh Văn Tiểng, Hòang Quốc Việt, Ung Văn Khiêm.

Cuộc họp đã kéo dài 3 ngày liền. Buổi tối Đức Thầy Hùynh Phú Sổ lại đàm luận với ông Đốc học Phạm Thiều, ông này tỏ ra quý trọng Đức Thầy và luôn luôn tìm cách đi bên cạnh Đức Thầy

Nhiều đệ tử, trí thức tỏ ý nghi ngờ vai trò của ông Đốc Phạm Thiều, Đức Thầy cười nói:

–        Thầy đã hiểu rõ ông Đốc Thiều lắm ! Hùynh Văn Tiểng, Hòang Quốc Việt cậy ông Đốc Thiều đi theo Thầy để dò xét.

Hể Thầy ngỏ ý chi với ông Đốc Thiều, thì chiều hôm sau hoặc sáng sớm hôm sau Hùynh Văn Tiểng, Hòang Quốc Việt và Ung Văn Khiêm đã biết hết rồi.

Đối với kháng chiến, ai cũng bằng lòng hy sinh, nhưng VM định lợi dụng danh nghĩa kháng chiến để mê hoặc lòng người nhứt là đối với những trí thức yêu nước.

Ông Đốc Thiều là ở trong trường hợp đó. Nếu tình trạng này kéo dài, thế nào ông Đốc Thiều cũng như các vị khác trở thành những tay sai trung thành với bọn CS.

Lời nhận định của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ từ tháng 10-1945 đến nay, quả là lời tiên tri. Ông Đốc học Phạm Thiều cũng như luật sư Phạm ngọc Thuần đã trờ thành lọai tay sai cho CS.

Cuộc họp ở Hóc Môn kéo dài 5 ngày thì đạt được kết quả tạm thời giữa 2 bên là chấm dứt ngay cuộc xung đột chém giết giữa VM ở vùng Hậu Giang và các tín đồ HH. Cả 2 bên đồng ý thành lập một UB Hòa Giải Liên Hiệp về Hậu Giang du thuyết.

Về phía Đức Thầy, Chính Đức Thầy đứng ra đảm nhiệm lãnh đạo thành phần thuộc UB Trung Ương Hòa Giải, còn phía VM, Ung Văn khiêm, giáo viên Tiểu học Vĩnh Long, làm đại diện .  Phái đòan du thuyết Đòan Kết Liên Hiệp do Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và Ung Văn Khiêm lãnh đạo bắt đầu về miền Tây từ ngày 18-10-1945.

IX. Ngày Đức Thầy Hùynh Phú Sổ chấp thuận Liên Hiệp với VM và sẽ cùng Ung Văn khiêm lãnh đạo phái đòan Trung ương về Hậu Giang du thuyết hòa giải cuộc xung đột giữa quần chúng tín đồ đạo HH yêu nước và các cán bộ VM khủng bố cũng là ngày quân đội pháp thình lình đánh chiếm Saigon, và chuẩn bị tiến quân về lục tỉnh.

Ngày 19-9-1945, quan đội Pháp tiến quân về Thủ Dầu Một và Biên Hòa bị đại đội kháng Pháp của Hòang Thọ chận đánh ở cầu Băng Ky.

Ở Hóc Môn, Đức Thầy nghe tiếng súng thở dài rồi nói với ông Đốc học Phạm Thiều

–        Tiếng súng kháng Pháp đã nổ, sự đòan kết là cần nhưng không hiểu người ta có thành thật đòan kết không ? Đó là điều tôi vẫn thắc mắc. Đã bảo người muốn đòan kết nhưng rồi có còn ai sống để đòan kết được đâu ông Đốc ?

Ông Đốc Thiều biết Đức Thầy muốn nhắc đến Hồ Văn Ngà, vợ chồng Hùynh Văn Phương, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm..vv.. nên ông Thiều vừa cười vừa nói

–        Cũng vì thế nên mới phải hô hào đòan kết, mới có cuộc hội đàm Liên Hiệp giữa Đức Giáo Chủ và anh em VM.

Với giọng cảm động, Đức Thầy bảo ông Đốc Thiều:

–        Tôi hiểu rõ nỗi lòng của ông Đốc lắm và tôi cũng biết rõ thành tâm, thiện chí của tín đồ chúng tôi chỉ có mong muốn được đòan kết kháng Pháp. Nhưng lần trước, em ruột tôi là Hùynh Phú Mậu, Chung Bá Khánh, ông Tú tài Thiện đã bị thủ tiêu vì chỉ muốn đòan kết với VM. Rôi đây ai sẽ là Hùynh Phú Mậu nữa / Lần này tôi đích thân đi giải thích cho anh em đồng đạo của tôi biết sự lợi ích của đòan kết trước sự tồn vong của dân tộc. Nhưng nếu bên VM phản bội, lừa dối chúng tôi nữa thì thật là hết. Ông Đốc ơi ! Không hiểu vì sao, tôi linh tính lần này sẽ cũng chẳng hơn chi lần trước.

Ông Đốc Thiều im lặng không trả lời. Thật ra 3 năm sau, khi ông Đốc Thiều tục huyền với cô Bảo, trong một buổi đi công tác chung ở Rau Răm Cà mau rồi về Bạc Liêu thăm ông Đốc phủ Phan Văn Chương và ông Trương Văn Giàu tư lệnh khu 9 (lúc bấy giờ Vũ Đức đã về Bắc, Hùynh Phan Hộ đã chết) kẻ viết bài này được nghe ông Đốc Thiều nhắc lại cuộc hội đàm đêm cuối cùng giữa ông và ĐGC Hùynh Phú Sổ ờ Hóc Môn, ông Đốc Thiều cho biết

–        Sau khi nghe ĐGC Hùynh Phú Sổ phàn nàn như thế, tôi không còn biết nói sao nữa vì tôi cũng dự đóan là cuộc hợp tác khó lâu dài lắm nhưng tôi trót nhận lời của anh Tiểng và anh Hà Bá Cang (tên tục của Hòang Quốc Việt) là vận động làm sao cho Đức Thầy Hùynh Phú Sổ chịu nhận hiệp tác, đi với anh Ung Văn Khiêm về Hậu Giang giải quyết những mâu thuẫn giữa 2 bên nên tôi đành lặng im không dám nói thêm câu nào nữa.

Buổi tối hôm ấy, sau bữa cơm chiều có Đức Thầy, Ung Văn Khiêm, anh Lê Công Lập, anh H.Siêu thì các anh Kiên, Siêu đi họp Đảng với Hùynh Văn Tiểng, Hòang Quốc Việt, anh Lập đi về Tỉnh bộ Gia Định. Trong nhà chúng tôi ở chỉ còn tôi và Đức Thầy ngồi uống nước trà Huế đàm đạo với nhau.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ là người đa cảm, nhiều tình đối với mọi người. Đức Thầy là người thành thật yêu nước. Tôi đọc một bài thơ mà Đức Thầy Hùynh Phú Sổ trả lời một thiếu nữ đã gởi đến xin được hầu hạ Đức Thầy. Bài thơ này Đức Thầy Hùynh Phú Sổ có đọc cho tôi nghe khi ở Hóc Môn.

Kẻ viết bài này xin được nghe:

–        Dạ thưa Thầy, xin Thầy cho con nghe bài thơ ấy.

Ông Đốc Thiều nói:

–        Tôi chỉ nhớ được 2 bài tứ tuyệt mà thôi. Đó là 2 bài hay nhất trong số 10 bài Đức Thầy làm.

Nói rồi ông Đốc Thiều tằng hắng ngâm cho ống Đốc Phủ Chương và tôi nghe:

Ta có tình yêu rất đượm nồng,

Yêu đời, yêu lẫn cả non sông.

Tình yêu chan chứa trong hòan vũ,

Không thể yêu riêng khách má hồng.

                           ***

Nếu khách má hồng muốn được yêu,

Thời trong tâm chí hãy xoay chiều,

Hướng về phụng sự cho nhơn lọai,

Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.

                       ***

Ta đã đa mang một khối tình,

Dường như thệ hải với sơn minh,

Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,

Yêu khắp muôn lòai lẫn chúng sinh

Miền Đông năm 1946

(Một thiếu nữ ở Saigon thầm yêu Đức Thầy trong khi Ngài còn ẩn lánh VM và Pháp. Thấy vậy, Đức Thầy bèn viết 3 bài thi trên đây để cảnh tỉnh cô ấy)

Bài thơ thật đượm tình yêu cao cả của một vị lãnh đạo tinh thần của một đạo giáo yêu nước như PGHH.

X. Ông Thiều thuật lại cuộc đàm đạo đêm 17-10-1945 giữa ông và Đức Hùynh Giáo Chủ tại Hóc Môn. Ông Phạm Thiều tỏ vẻ ân hận về vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ bị mất tích vào ngày 16-4-1947.

Với tất cả cảm tình đối với Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, ông Đốc Phạm Thiều thuật lại tôi nghe khi ông được lịnh của Hùynh Văn Tiểng, phó chủ tịch UBND Nam Bộ và Hòang Quốc Việt, vận động với Đức Thầy Hùynh Phú Sổ tham dự hội nghị Đòan kết Liên Hiệp Hòa giải vị tranh chấp giữa VM và các tín đồ HH.

Ông Phạm thiều nói:

–        Hồi ấy, tôi đang làm ủy viên tuyên truyền trong UBND Nam Bộ do Trần Văn Giàu là chủ tịch, Hùynh Văn Tiễng làm phó chủ tịch, còn Hòang Quốc Việt tức Hà Bá Cang thì là đặc phái viên của ĐCSĐD từ Bắc Việt phái vào.

Hòang Quốc Việt, Hùynh Văn Tiễng cử tôi làm sứ giả vận động với Đức Hùynh Giáo Chủ chấp thuận tham dự hội nghị hòa giải giữa VM và PGHH vì Việt và Tiễng biết Đức Thầy rất quý tôi.

Tôi tin rằng sứ mạng của tôi sẽ thành công và tôi có thể xin Đức Thầy xóa bỏ những tỵ hiềm trước kia do Lý Huệ Vinh, Trần Văn Giàu và Mai Văn Bộ gây ra… nhưng tôi vẫn lo ngại, nếu sau này có việc xảy ra thì tôi còn biết ăn nói sao với mọi người.

Liên lạc cho tôi biết Đức Thầy Hùynh Phú Sổ hiện đang ở trong liên quân 3, chi đội 4 và 5 của Bộ Đội An Điềm do Mưới Trí tức Hùynh Văn Trí chỉ huy. Tại bản doanh Bộ Đội An Điềm còn có anh Thảo, anh Phiệt, chú Hương đại diện của ông Cao Triều Phát ở Bạc Liêu lên.

Khi được biết Đức Thầy Hùynh Phú Sổ ở Tổng Bản Doanh Bộ Đội An Điềm, tôi liền thảo bức thơ của Hùynh Văn Tiễng và Hòang Quốc Việt đã gởi đến Đức Thầy cách đây 10 ngày và xin Đức Thầy cho biết tôn ý.

4 ngày sau, tôi tiếp được thơ phúc đáp của Đức Thầy với 5 bài thơ họa lại 5 bài thơ xướng của tôi.

Nói đến đây, ông Đốc Thiều lấy ra một chắc cặp con đựng nhiều bì thơ, chọn một bức thơ, đưa cho ông Đốc phủ Phan Văn Chương và tôi coi.

Đó là lá thơ của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ phúc đáp thơ của ông Đốc Thiều. Nét mực tuy đã hơi phai, màu giấy đã ngã nhưng nét chữ vẫn sắc sảo.

Xem xong, tôi trao bức thơ ấy lại cho ông Đốc Thiều. Ông Phạm Thiều nói tiếp:

–        Tôi đọc 5 bài thơ để các anh nghe, các anh sẽ thấy Đức Thầy Hùynh Phú Sổ là người thông minh suy xét rất kỹ lưỡng, nhìn xa trông rộng.

Ông Phạm Thiều uống ly nước nhấp giọng, lau lại đôi mắt kiếng, đưa lá thơ gần ánh đèn dầu rồi đọc:

Kính gời ông TRƯỜNG PHONG PHẠM THIỀU

Giữa lúc đang ngồi bàn chuyện quân cơ với chú Mười   thì tiếp được thơ của Tôn Ông. Mừng quá vội bóc ra đọc, thật là cảm ơn tri ngộ, vội viết thơ phúc đáp. Tâm sự của tôi gói gém trong 5 bài thơ họa nguyên văn của Tôn Ông

Đức Thầy họa:

Những nỗi đau thương mãi dập dồn,

Càng nhiều luân lạc lại càng khôn.

Lăng nhìn thế sự nào ai ngủ !

Chờ dịp vung tay dậy quốc hồn.

Từ bi đâu vướng mũi hiềm xưa,

Nhưng vẫn lọc lừa bạn sạch nhơ.

Nếu quả tri âm tri ngộ có,

Thì là hiệp lực, hiểu hay chưa ?

Nhìn sang Trung Quốc khách lân bang,

Cứ cố xỏ ngầm sao trị an ?

Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí,

Kẻ gây thảm kích phải qui hàng.

Lắm kẻ chực chờ đặng phỗng tay,

Mà sao chánh cách bắt dân đày

Vẫn còn áp dùng vì phe đảng ?

Chẳng muốn xông ra sợ cháy mày !

Thà ở trong quân mặc chiến bào,

Ngày qua sẽ biết thấp hay cao.

Nào ai đem sánh mình minh triết,

Mà dám lăm le mộng Võ hầu !

HÒANG ANH (biệt hiệu Đức Thầy)

Miền Đông, ngày 1-10-1946.

CỤ PHẠM THIỀU MỜI ĐỨC THẦY THAM CHÁNH:

Mưa gió thâu canh mãi dập dồn,

Âm u tràn ngập cả càn khôn.

Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy,

Có thấu tai chăng tiếng quốc hồn ?

Sao còn khắc khỏai nhớ niềm xưa ?

Trang sử chùi đi những vết nhơ

Gìn giữ tim son không chút bợn,

Mặc tòa dư luận thấu hay chưa.

Sao còn lãnh đạm với đồng bang,

Toan trút cho ai gánh trị an ?

Thảm kịch “tương tàn” chưa hết diễn,

Long Xuyên, Châu Đốc lụy muôn hàng.

Sao còn ngần ngại chẳng ra tay,

Trước cảnh xâm lăng, cảnh đọa đày ?

Ngọn lửa binh đao lan khắp đất,

Phật Trời soi thấu cũng châu mày.

Chẳng áo cà sa, chẳng chiến bào,

Về đây tham chánh mới là cao

Non song chờ đợi người minh triết,

Chớ để danh thơm chỉ Võ Hầu.

TRƯỜNG PHONG (biệt hiệu Cụ Phạm Thiều)

XI. Đọc xong 5 bài thơ họa của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, ông Đốc học Phạm Thiều khẽ thở dài, giọng của ông hạ xuống:

–        Lúc đó, thật ra sau khi đọc 5 bài họa của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thì tôi mừng thật. Mừng vị Đức Thầy chấp nhận đề nghị của tôi hợp tác với Giàu, Tiễng và Hà Bá Cang.

Điều mà tôi luôn luôn nhìn nhận là Đức Thầy có một thiện chí, một lòng quảng đại quân tử.

Lãnh đạo gần 2 triệu tín đồ, nếu không vì lòng yêu nước vô biên thì việc gì Đức Thầy phải lận đận, chịu bao cảnh đau thương, phải liên hiệp lần thứ 2 với những người mà lòng mình vẫn nghi ngờ thiếu thành tín ?

Câu:

Những nỗi đau thương mãi dập dồn,

Càng nhiều luân lạc lại càng khôn.

Chứng tỏ Đức Thầy đã nhìn thấu người ta định lừa gạt mình lợi dụng tinh thần kết đòan, lòng ái quốc của Đức Thầy.

Từ bi đâu vướng mũi hiềm xưa,

Nhưng vẫn lọc lừa bạn sạch nhơ.

Nếu quả tri âm tri ngộ có,

Thì là hiệp lực, hiểu hay chưa ?

Đọc đến đây, ông Phạm Thiều khẽ thở dài, ông Đốc phủ Phan Văn Chương châm điếu thuốc lên ngọn lửa rồi nói:

–        Câu này Đức Thầy trả lời ông Đốc phải không ?

–        Phải ! Đức Thầy chỉ mong có tri âm, tri ngộ chớ chưa cần đến người đồng tâm, đồng chí. Sau vị bị vây băt tại Saigon mà Đức Thầy tha thứ thì phải chăng lòng của Giáo Chủ rộng như biển cả.

Khi đến Hóc Môn họp với VM Đức Thầy Hùynh Phú Sổ có nhắc đến vị vậy bắt ngày 9-9-1945 với tôi và cười nói:

–        Họ lọc lừa (ám chỉ Giàu, Bộ) phản bội đã quen, tôi sợ rằng đời họ sẽ chết vỉ lọc lừa mà thôi.

Có lẽ câu “ Từ bi đâu vướng mối thù xưa” của Đức Thầy là để nhắc cho tôi nhớ lại câu chuyện cũ ở đường Sohier.

Đức Thầy có nói:”Nếu không vì kháng chiến, vì tinh thần yêu nước có lẽ chẳng còn ai chịu ở ngòai bưng nữa để chịu cái cảnh phe đảng này nữa ! Nhiều người rổi đây phải bỏ Bưng biền trốn về thành chỉ vì vậy”. ông Đốc Thiều nói tiếp: “Hôm rồi tôi đại diện cho UB Kháng Hành Nam Bộ đến thăm các Đề Lao Binh  , tôi lại càng nhớ đến 5 bài họa của Đức Thầy.

Đức Thầy viết mấy bài ấy với tất cả tấm lòng thành của Ngài. Khi dấn thân vào con đường họat động, chiến đấu chống Thực Dân, tranh thủ độc lập cho nước nhà, Đức Thầy chỉ biết Tổ quốc và dân tộc chớ Ngài không hề nghĩ đến lợi danh.

Thấy ông Đốc học Phạm Thiều thành thật, ông Đốc phủ Văn Chương mới hỏi:

–        Theo ông Đốc thì vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đi hội nghị ở Đốc vàng Thượng theo lời mời của Bủu Vinh và Trần Văn Nguyên rồi mất tích từ bấy đến nay là thế nào ? Đức Thầy Hùynh Phú Sổ còn sống hay đã mất rồi ? Còn sống thì hiện nay thầy ở đâu ? Và chết thì chôn cất thi hài Ngài ở đâu ?

Ông Đốc học Phạm Thiều suy nghĩ một lát rồi chậm rãi nói:

–        Câu chuyện còn dài lắm ! Hồi ấy tôi là Ủy Viên Tuyên Truyền Nam Bộ nên tôi theo dõi vụ này rất kỹ.

XII. Ông Trường Phong Phạm Thiều uống ly nước xong rồi nói:

–        Thật ra, sự mâu thuẫn giữa anh em Dân Xã (Hòa Hảo) và bên VM có nhiều yếu tố khó giải quyết lắm.

Đã có lần tôi đề nghị, một thành phần hòa giải gồm 3 người kiểu tam đầu chế. Một bên là đại diện HH, một bên là đại diện VM còn một bên nữa là đại điện Công Giáo. Cả 3 phe đều bằng lòng.

Bên CS cử Hòang Du Khương làm đại diện, bên HH Dân Xã cử ông Mai Văn Dậu làm đại diện, còn bên Công Giáo cử ông Nguyễn Bá Luật.

Ông Đốc Phủ Phan Văn Chương cười nói chêm vô:

–        Đưa ông Nguyễn Bá Luật vào làm trung gian thì bên Dân Xã phải kém phiếu rồi vị thật ra ông Luật là người CS nằm dòan bên Công Giáo.

Ông Đốc Thiều đưa mắt nhìn ông Đốc Phủ Chương mỉm cười:

–        Biết như thế ! Vả lại có như thế ông Nguyễn Bá luật mới được chọn vô làm trung gian hòa giải và hội nghị mới tan vỡ ngay. Ông Dậu, Dân Xã rất cương quyết nhưng cũng hết sức khôn ngoan. Hòang Du Khương và Nguyễn Bá Luật hiệp với nhau mà chẳng lừa nổi ông Dậu. Ngay trong phiên họp đầu tiên, Ông Mai Văn Dậu đã đặt ngay những điều kiện thảo luận làm cho cà Hòang Du Khương lẫn Nguyễn Bá Luật lắc đầu biết gặp thứ dữ quá không ngoan rồi.

Ông Mai Văn Dậu tố cáo trước hội nghị về hành động đảng phái của cán bộ VM trong giai đọan mà VM đề ra kế họach tiêu thổ kháng chiến theo đúng kiểu của CS Trung Hoa.

Cơ quan VM điều khiển các UB Hành Chánh Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cần Thơ đã ngấm ngầm ra lệnh tiêu diệt tất cả nhà cửa ở các xóm theo PGHH.

Còn nhà của cán bộ CS, thì tìm cách để lại, vì cán bộ VM áp dụng lịnh trên một cách quá dại dột nên làm cho mọi người đều uất hận, vì trong một xã có trên 400 nhà mà chỉ có nhà của bọn VM là không bị phá. Anh em bên Dân Xã cương quyết chống đối !

Các chi đội võ trang kháng Pháp của Dân Xã phải đến giúp đỡ các đảng viên chống lại những việc đốt phá nhà cửa của VM.

Chánh sách tiêu thổ của VM thi hành mạnh nhứt là ở Ba Dầu, Thọai Sơn, Chợ Thủ, Hòa Hảo, Mỹ Hội. Nhưng từ đầu tháng 10-1946 thì phong trào đấu tranh của Dân Xã lên rất cao.

Các tỉnh đảng bộ Dân Xã lập tức phái cán bộ đến các nơi có đảng viên, có tín đồ HH để lãnh đạo phong trào đấu tranh chống VM.

Một hội nghị tại Long Xuyên dưới quyền chủ tọa của Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây và Vũ Đức, tư lệnh khu 9 để tìm cách ly gián giữa đảng viên HH với dân chúng.

Mật lệnh được ban ra do Nguyễn Văn Tây và Trần Văn Nguyên đồng ký.

Đơn vị bị tấn công đầu tiên là Chi đội 30 Vệ Quốc Đoàn đóng tại Long Xuyên.

Bộ chỉ huy tất cả là 7 người bất ngờ bị vây bắt thủ tiêu. Giết xong 7 đảng viên Dân xã, Nguyễn Văn Tây cho tên Văn, 1 đảng viên CS chỉ huy, thay thế chi đội 30. Anh em Dân xã trong chi đội 30 không hay biết 7 vị chỉ huy bị vây bắt và thủ tiêu nên cứ tiếp tục tuân lịnh của Đức Thầy là hợp tác với VM.

Để phá lòng tin của dân chúng miền Tây đối với anh em Dân Xã, tên Văn vừa được thay thế liền tổ chức với vài tên bộ hạ ngay đêm hôm ấy, cái đêm 7 anh em Dân Xã bị thủ tiêu, xưng là chi đội 30 đi đánh cướp liền 8 nhà giàu.

Thế là tiếng đồn ầm lên là chi đội 30 do anh em Dân Xã chỉ huy đi đánh cướp nhà dân chúng. Lúc ấy bọn Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Nguyên mới tung ra tin vì chi đội 30 đi ăn cướp nên CS xử tử viên chỉ huy và 6 người chủ trương.

Và ngay sau khi có tin 7 người chỉ huy chi đội 30 bị giết, 8 nhà bị đánh cướp liền đến xin lại tài vật, 2 chủ nhà bị đánh cướp nhận được mặt tên Văn nên chỉ Văn mà nói:

–        Chính ông này chỉ huy vụ đánh cướp nhà chúng tôi.

Thế là tên Văn hùng hổ đánh 2 tài gia rồi ra lệnh tống giam ngay, 6 chủ nhà khác hỏang sợ rút lui.

Mối thù giữa anh em Dân Xã và VM ngày càng rộng lớn.

LÒNG DÂN PHẨN UẤT

XIII. Sau vụ 7 đảng viên Dân xã chỉ huy chi đội 30 Vệ Quốc Đòan bị thủ tiêu bại lộ, lập tức một số trung đội chiến đấu thuộc Chi Đội 30 ly khai hẳn Chi Đội 30 không chịu sự chỉ huy của tên Văn, nên rút về Sadec đóng.

Tình hình mỗi ngày một găng giữa bộ đội Dân Xã và bộ đội CS.

Ngày 29-3-1947, một đơn vị CS do tên Xuyến chỉ huy được lệnh của Trần Văn Nguyên, bí mật tiến quân vây trụ sở Tỉnh Đảng bộ Đảng Dân Chủ Xã Hội Sadec, bắt trọn Ban chấp hành  tỉnh SaDec trói thúc ké giải qua Cần thơ xử tội.

Lúc ấymột đơn vị thuộc chi đội 30 vừa ly khai được tin liền đuổi theo.

Sáng ngày 1-4-1947, đơn vị này đuổi kịp và cho liên lạc trao thơ cho tên Xuyến liền bị ngay tên Xuyến hạ lệnh xử tử người liên lạc rồi ra lịnh tấn công bộ đội Dân Xã, bắn chết 5 chiến sĩ Dân Xã.

Bị buộc phải tự vệ, bộ đội này đành phải bố trí vừa đánh vừa rút ra khỏi vòng vây.

Thế là tòan Ban chấp hành tỉnh đảng bộ Sadec bị giải lên Cần Thơ cho Nguyễn Văn Tây.

CS TẤN CÔNG TRỤ SỞ DÂN XÃ CHÂU ĐỐC

Ngày 5-4-1947 vẫn theo mật lệnh của tên Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây  của Trần Văn Nguyên, Vũ Đức, đại đội 60-22 bất ngờ chuyển quân về Tân Thành, Châu Đốc, bố trí bao vây Trụ sở Ban chấp hành tỉnh đảng bộ Dân Xã Châu Đốc.

16 tự vệ quân Dân Xã bảo vệ trụ sở Dân Xã Châu Đốc, đành phải chống đỡ mặc dầu địch có một lực lượng võ trang tòan lọai súng tốt do bộ đội Cửu Long ở Xiêm vừa về trang bị.

Đại đội 60-22 của CS gặp sức kháng cự mãnh liệt của 16 tự vệ quân Dân Xã nên cuộc tấn công chỉ kép dài trên 40 phút, bọn ác ôn CS đành phải rút lui.

Ban chấp hành Dân Xã Châu Đốc được bảo vệ chu tòan.

ĐỨC THẦY LẬT ĐẬT TRỞ VỀ

Trong khi tình hình ngày một căng thẳng giữa các đảng viên Dân Xã, các tín đồ HH và VM thì Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đang họat động cho UB Khán Hành Nam Bộ. Một tin sét đánh đưa đến làm Đức Thầy Hùynh Phú Sổ lật đật trở về Long Xuyên. Đó là tin tại Mỹ Hội Đông có 30 cán bộ CS được mật lệnh của Trần Văn Nguyên là phải tức tốc rời khỏi Mỹ Hội Đông về ngay đơn vị do tên Văn cán bộ CS chỉ huy để phối hợp tấn công vùng Cả Xòai, Kiến An, Long Điền, Long Xuyên, nơi có nhiều tín đồ HH và đảng viên Dân Xã cư ngụ.

Bọn tên Văn tấn công bất ngờ, bao vây ruồng bố từ vùng Cả Xòai xuống Kiến An, Long Điền bắt 12 đảng viên Dân Xã rồi lập ngay tòa án nhân dân xử tử bằng dao găm, thọc huyết 12 mạng người vứt xuống đìa. Ngày hôm sau bắt thêm 27 tìn đồ HH, trong đó cò một thiếu nhi lên 8 tuổi và một cụ già 72 tuổi, đem thủ tiêu luôn.

Máu oan cùu đổ loang cây cỏ, sông nước miền Hậu Giang, lửa uất hận bốc ngút trời xanh, các tìn đồ HH và các đảng viên Dân Xã không thể nào khoanh tay làm ngơ. Cuộc xung đột giữa dân xã và CS đi đến chỗ một mất một còn.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ lật đật đi gặp Hùynh Nhựt Thăng trong UB Hòa Giải bàn về kế họach giải quyết êm thấm mối thù sắt máu này. Đức Thầy bảo với Hùynh Nhật Thăng rằng:

–        Đã bao lần chúng tôi thiện chí cộng tác, liên hiệp trước nạn ngọai xâm đang lăm le tái chiếm Tổ Quốc Việt thân yêu của chúng ta. Nhưng lần nào cũng thế, chúng tôi càng tỏ thiện chí, hành động Liên Hiệp Đòan Kết đều bị anh em bên CS phản bội, dùng thủ đọan mưu kế sát hại chúng tôi. Cho đến bây giờ, hàng chục ngàn người dân HH, các đảng viên Dân Xã yêu nước bị giết hại oan uổng dã man.

Hùynh Nhựt Thăng không biết trả lời sao nữa, khi Đức thầy đưa cho Thăng coi mật lệnh hỏa tốc của Đức Thầy buộcc các đảng viên Dân Xã lập danh sách những cán bộ CS đang bị Dân Xã giữa làm con tin giao trả cùng với khí giới cho VM. Đức Thầy dằn từng tiếng:

–        Các tín đồ HH tuyệt đối tuân theo mạng lệnh của tôi đang trao trả khí giới và con tin cho anh em bên CS. Lần này là lần cuối cùng nếu anh em VM phản bội lời thề cộng tác, Đòan kết Liên Hiệp, vẫn xuống tay giết hại các tín đồ HH và Dân Xã, thì lúc này anh em tín đồ HH và Dân Xã sẽ không khoanh tay ngồi yên chờ chết. Huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt là lỗi của các anh em CS hết.

ĐỨC THẦY TRỞ VỀ BA-RĂNG

XV. Khi Đức Thầy Hùynh PhúSổ lật đật trở về Ba-Răng thì ở đây vừa xảy ra một vụ giết người rất thê thảm.

Ngày 13-4-1947, một chiến sĩ Dân Xã trong bộ đội lưu động số 1 đi hớt tóc tại chợ Ba-Răng bị 6 cán bộ VM ập vào bắt đem đi chặt đầu bêu trên ngọn tầm vông. Cùng ngày ấy, 54 đảng viên Dân Xã bị VM giam ở Tân Phú, bị đưa ra sông chặt đầu.

Xác 54 đảng viên Dân Xã nổi lềnh bềnh trên rạch giữa lúc Đức Thầy về tới Ba-Răng vừa được mấy hôm. Trước những sự thật đau lòng ấy, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đành gạt lệ. Đức Thầy biết rằng, các tín đồ của Đức Thầy cũng như các đảng viên Dân Xã chỉ tuân theo lời dạy của Đức Thầy tin vào chánh sách Liên Hiệp, Đòan Kết mà chưa có phản ứng nào.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ liền đến gặp UB Hòa giải, Ung Văn Khiêm lánh mặt không ra tiếp kiến Đức Thầy.

Thấy Ung Văn Khiêm cố tình lánh mặt, Đức Thầy cười gằn nói trước UB Hòa Giải rằng:

–        Tôi tưởng anh Khiêm không cần phải lánh mặt vì dù sao sự việc cũng đã xảy ra rồi. hàng ngàn tín đồ HH, các đảng viên Dân Xã cũng đã bị giết. như thế nầy tức là chính các anh đã phá vỡ tình đòan kết, chủ trương Liên Hiệp của các anh đưa ra.

Nói rồi ĐGC cùng với ông Mai Văn Dậu trở về.

Suốt trong mấy ngày liền từ 6-4-47 đến 16-4-47 hàng ngàn đảng viên Dân Xã bị thủ tiêu. Khắp miền Hậu Giang, căm thù xương máu ngút tận trời xanh.

BÍ THƠ TỈNH ĐẢNG BỘ RẠCH GIÁ BỊ MỔ BỤNG

Trong lúc mọi người đang hoang mang về kế họach khủng bố của VM thì một nguồn tin khác đưa đến chợ Ba-Răng làm mọi người đều uất hận. Đó là tin 16 người bị mổ bụng thủ tiêu hay cho “mò tôm” (trói thúc ké lại rồi neo nước sau khi chết rồi tôm bu lại rỉa).

Trong số đó, người ta nhận thấu có ông Hùynh Bội Kiến ở Phú Thành và ông Nguyễn Ngọc Phước, bí thơ tỉnh đảng bộ Dân Xã Rạch Giá bị trung đội 12 thuộc đại đội 66-22 bắt ngày 13-4-47 thì đêm 14 rạng ngày 15-4-47 bị đưa ra mổ bụng moi ruột gan.

ĐỨC THẦY RA LỊNH ĐIỀU TRA TỈ MỈ

Bị dồn vào bước đường cùng, không chống đối cũng chết nên các tìn đồ HH, đảng viên Dân Xã cùng đồng bào vùng Hậu Giang phản ứng quyết liệt chống lại VM.

Ai cũng biết, Đức Thầy rất cẩn thận trong việc nhận định công tội của kẻ khác. Đức Thầy còn ngờ rằng, đây là địa phương xuẩn động, chớ Trung ương đảng bộ CS đặc phái Nam Bộ không bao giờ có chủ trương tàn sát như thế ?

Đức Thầy hạ lịnh cho trung ương Dân Xã phải tìm cho ra bằng cớ coi ai đã chủ trương tàn sát Dân Xã và 2 tín đồ HH ? Chủ trương ấy do ai ra ? Từ cơ quan nào ?

Cuộc điều tra tiến hành nhanh chóng vì số tín đồ HH bị VM tàn sát ngày càng nhiều, nhứt là ở Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Vĩnh Long, Cần Thơ.

XVI. Tại Phú An, Châu Đốc, 15 đảng viên Dân Xã bị chặt đầu cắm thủ cấp vào gậy tầm vông đem treo trong làng tại Long Kiến, 4000 giạ lúa của những gia đình HH bị đốt. Tại Nhơn Mỹ, Long Xuyên, 135 ngôi nhà bị đốt.

Ban tình báo của Trung ương đảng Dân Chủ Xã hội VN được lịnh của Đức Giáo Chủ Hùynh Phú Sổ phải tìm cho ra manh mối, coi đầu dây vụ khủng bố này do đâu ban hành. Vì thật ra chẳng riêng chỉ PGHH bị khủng bố mà cả giáo phái Cao Đài ở Tây Ninh, miền Đông Nam phần. Ở Quảng Ngãi, trong một đêm có đến 300 tín đồ Cao Đài bị chôn sống, nhiều người Quốc Gia cũng bị giết luôn.

Đã biết việc khủng bố này là chủ trương chung của VM, Đức Thầy cũng phải tìm cho ra bằng cớ cụ thể.

Chẳng bao lâu sau, Ban tình báo trung ương Dân Xã Đảng đã tìm được 3 bản mật lịnh, chỉ thị cho các cán bộ từ xứ ủy Nam Bộ xuống đến tỉnh đảng bộ, huyện bộ, xã bộ và các chi bộ hạ tầng cơ sở phải tích cực họat động với mọi phương tiện, mọi cơ hội lọai các đảng phái Quốc Gia như đảng Xã hội Công Giáo, đảng Dân Chủ Xã hội VN, Giáo phái HH, Cao đài, các tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo, Tin Lành, các đảng viên của đệ tứ Quốc tế CS (nhóm Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm), nhóm Quốc Gia tiến bộ Nguyễn An Ninh, Bình Xuyên, VNQDĐ, Đại Việt QDĐ, Đại Việt Duy Dân, Đại Việt Dân Chính, VN Ái Quốc Đảng, VN Độc Lập Vận Động Hội, VN Cách Mạng Đồng Minh Hội ..vv.. Riêng về vụ xung đột với giáo phái HH các lãnh tụ Đông Dương CS đảng đặc trách Nam Bộ như Phạn Hùng, Kiều Tấn Lập, giám đốc sở Chánh trị thuộc nha công an Nam Bộ Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây, thanh tra chánh trị miền Tây Nam Bộ đã ký mỗi người một bản mật lệnh, chỉ thị cho các khu trưởng khu 7, khu 8, khu 9 và bí thơ khu của đảng phải tăng gia họat động tiêu diệt cho kỳ được tổ chức của PGHH và Dân Xã đảng.

Trong bản mật lệnh này có ghi chú một điều cần ghi nhớ nhứt cho công an thuộc thành phần đảng viên cốt cán phải đặc biệt theo dõi 2 người mà Phạm Hùng cho là 2 yếu nhân HH vô cùng nguy hiểm là các ông Ngô Tam Tư và Nguyễn Thành Hai. Ngô Tam Tư và Nguyễn Thành Hai ở đâu thì có quyền bắn chết và người nào hạ sát được Tư và Hai sẽ được trọng thưởng.

Bản mật lệnh của Kiều Tấn Lập ký ngày 26-12-1946 nội dung cũng vậy nhưng với kết họach thâm độc hơn là phải tìm đủ mọi cách ly gián giữa tín đồ HH và dân chúng miền Tây, đánh gục uy thế của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ.

Bản chỉ thị mật của Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây, thanh tra chánh trị miền Tây Nam bộ ký ngày 20-3-1947 thúc giục cán bộ quân sự Chánh trị ở vùng Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sađec phải phá diệt tất cả các cơ sở đảng bộ Dân Xã và PGHH.

Trong bản chỉ thị này, Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây gọi Đức Thầy Hùynh Phú Sổ la Tư Hòa Hảo. Nguyễn Văn Tây ra lịnh cho các tỉnh bộ VM các tỉnh Miền Tây phải tìm đủ mọi kế họach đập tan uy thế của Đức Thầy đồng thời đặt kế họach do chính các tín đồ PGHH hay các đảng viên Dân Xã hạ sát Đức Thầy hầu gây lục đục, bất mãn, bất hòa ngay trong hàng ngũ tín đồ HH và đảng viên Dân Xã Đảng.

Bằng chứng đã rõ rệt, lúc ấy ban chấp hành trung ương dân xã mới ra lệnh cho các đảng viên kết hợp đối phó chống bọn khủng bố.

XVII. 16-4-1947, ngày Đức Thầy Hùynh Phú Sổ vắng mặt ở Thánh Địa Hòa Hảo đến nay đã 16 năm trời.

16-4-1947, ngày ghi nhớ nhứt của nhân dân Hậu Giang nói chung, của tín đồ HH, các đảng viên đảng VN Dân Chủ Xã Hội nói riêng, ngày Đức Thầy Hùynh Phú Sổ “đơn thương, độc mã” đi vào chổ hang hùm, nơi bọn lãnh tụ VM bố trí kế họach hãm hại Đức Thầy.

Cứ theo truyền thuyết ở vùng Hậu Giang thì Đức Thầy chỉ vắng mặt trong giai đọan chưa nhứt định này, Đức Thầy sẽ trở về khi thuận tiện để lãnh đạo các tín đồ và các đảng viên Dân Xã.

Từ trước đến nay, dân chúng vùng Hậu Giang vẫn thường kể lại câu chuyện Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thọ nạn mà chúng tôi sắp thuật dưới đây. Nhưng trong cuộc điều tra về vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thọ nạn, kẻ viết bài này có gặp nhiều nhân chứng hiện còn sống, đã nhận rằng chính họ đã được mắt thấy, tai nghe lúc Đức Thầy bị thọ nạn. Đó là 2 người vệ sĩ của Trần Văn Trà, khu trưởng khu 8 ờ Nam bộ. Hiện nay Trần Văn Trà là Thiếu tướng phó tham mưu trưởng quan đội Bắc Việt kiêm thứ tướng Bộ quốc phòng đặc trách hậu cần.

Thật ra, cho đến nay, việc Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thọ nạn hết sức mơ hồ. VM thì cứ giả ngơ, giả điếc, cốt làm cho các tín đồ của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ hoang mang ngờ vực. Các nhân chứng phụ họa với VC thì sau khi Đức Thầy thọ nạn chúng cũng ngậm miệng luôn.

Do đó ở đây, chúng tôi hãy tâm thuật theo truyền khẩu từ trước đến nay về vụ Đức Thầy thọ nạn ở Đốc Vàng Thượng mà ai cũng cho thủ phạm là Bửu Vinh, chỉ huy trưởng lực lượng quân sự của VM ờ Sađec, Long Xuyên và Trần Văn Nguyên, chủ tịch UBND (Kháng Hành) Sađec và Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây, ủy viên chánh trị Nam Bộ kiêm thanh tra miền Tây Nam bộ.

Nguyên hồi tháng 4-1947, tình hình miền TâyNam bô vô cùng phức tạp. Trong khi Pháp đánh từ Saigon xuống vùng Lục Tỉnh, chiếm hết Mỹ Tho, Tân An, Gò Công rồi lan xuống Miền Tây, thế quân Pháp mạnh như chẻ tre. Bọn cán bộ VM ngày càng chạy tránh vào những căn cứ an tòan để mặc cho những đơn vị địa phương do những người yêu nước tập hợp cướp súng giặc, giết giặc.

Ngược lại, những cán bộ CS chính thống cấp xứ ủy như Ung Văn Khiêm, Phạm Hùng, Trần Văn Trà, Nguyễn Văn Tây, Trần Văn Giàu lại chuyên dùng bộ đội để củng cố địa vị độc chiếm sân khấu chánh trị ở Nam Bộ.

Do đó, chuộc chiến đấu chống VM của Dân Xã Đảng và PGHH bùng nổ. Khắp các vùng thuộc miền Hậu Giang, các gia đình theo PGHH phải đòan kết hổ trợ lẫn nhau chiến đấu chống VM để tự vệ.

Những trận chém giết, bắt cóc, thủ tiêu lẫn nhau trong vùng Hậu Giang mỗi ngày một khủng khiếp.

Vũ Đức, Trần Văn Nguyên, Trần Văn Trà, Bửu Vinh thấy rõ dân chúng có cảm tình với Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và sẵn sàng đứng về phe Đức Thầy nên vội họp hội nghị mật ở Long Xuyên để tìm cách đối phó.

Cuộc hội nghị này được đặt dưới quyền chủ tọa của Phạm Hùng, ủy viên trung ương Đông Dương CS đảng phụ trách Xứ ủy Nam bộ.

XIX. Để kích thích những người như Bửu Vinh, Lê Sanh, Ung Văn Khiêm vu khống Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đã liên lạc với đại tá Cedille, ủy viên Công hòa Nam Việt của Pháp để làm nội ứng cho quân đội Pháp đánh lấy miền Tây Nam phần rồi giao cho Đức Thầy cai trị 6 tỉnh miền Hậu Giang với chức Tổng Trấn Tây Nam phần.

Ung Văn khiêm đưa ra một bản đồ của sở Địa đồ Pháp ở Saigon về vùng Hậu Giang, vạch những đường tiến quân của quân đội pháp và cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của Đảng Dân chủ Xã hội, thực hiện kế nội công ngọai kích bắt sống hết các cán bộ VM.

Giữa lúc lòng dân đang sôi lên vì uất hận thực dân Pháp nay lại nghe nói có kẻ theo Pháp, tức nhiên người ta sẽ căm thù, óan ghét bọn bán nước Việt Gian. Đó là tâm trạng của những người ngồi nghe Ung Văn khiêm trình bày.

Kết luận, Ung Văn Khiêm đề nghị với hội nghị phải thảo luận tìm kế họach phá tan thế cùm kẹp của người Pháp và sự liên kết của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ.

Khi Ung Văn Khiêm vừa dứt lời, cử tọa tranh nhau phát biểu ý kiến. Hăng hái nhứt là Bửu Vinh, Vũ Đức, Trần Văn Nguyên, đã cho rằng muốn trừ diệt tín đồ HH và đảng Dân Xã thì chỉ có một kế vẹn tòan nhứt là thủ tiêu Giáo Chủ Hùynh Phú Sổ, ông Lương Trọng Tường, ông Mai Văn Dậu, bác sĩ Cửu, ông Đỗ Văn Trực và ông Nguyễn Văn Huê mà VM cho là những nhân vật lãnh đạo trọng yếu.

Ung Văn Khiêm chấp thuận biện pháp lọai cho bằng được Đức Thầy Hùynh Phú Sổ.

Hội nghị giao trách nhiệm sát hại Đức Thầy cho Bửu Vinh, Trần Văn Nguyên. Phụ trách giám sát và lãnh đạo kế họach thì giao cho Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây, thanh tra chính trị miền Tây Nam Bộ.

Hội nghị bế mạc.

Trong khi ấy Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đang ở Chợ Mới Long Xuyên thì ngày 15-4-1947, Đức Thầy được công văn của tỉnh bộ quân sự tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sadec gọi tắt là Long Châu Sa thỉnh Đức Thầy tới Tân Phú dự hội nghị quân sự bí mật đồng thời để họp luôn UB Hòa Giải VM và Dân Xã.

Ngoài công văn (của Bửu Vinh) còn có thơ của Trần Văn Nguyên, nhân danh đại diện văn phòng thanh tra chánh trị miền Tây Nam bộ gời sang Hùynh Phú Sổ, ủy viên Nam bộ, mời Đức Thầy sang Tân Phú hội đàm việc cơ mật.

Tiếp được 2 bức thơ cùng 1 lúc, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ cười nói với đệ tử đứng quanh đấy hầu Đức Thầy rằng:

–        Bửu Vinh, Trần Văn Nguyên sợ Thầy không sang thì kế họach mai phục hãm hại Thầy của họ sẽ tiêu tan nên một lúc chúng gửa 2 bức thơ liền.

Nói rồi Đức Thầy trao 2 công văn của Bửu Vinh, Trần Văn Nguyên cho mọi người coi. Đọc 2 công văn mọi người đều nghi ngờ có rắp tâm lừa Đức Thầy đến dự hội nghị để sát hại nên mọi người đều đệ lời xin Đức Thầy thận trọng.

Ông Mai Văn Dậu bí thơ của Đức Thầy hồi bấy giờ là người được Đức Thầy tin cậy nhứt cũng ngỏ lời xin Đức Thầy hãy xét cẩn thận rồi hãy nhận lời.

Ông Trần Văn Sóai tức Năm Lửa là chỉ huy trưởng tự vệ quân HH ngỏ lời xin được đưa quân đi hộ vệ Đức Thầy.

XX. Đức thầy Hùynh Phú Sổ nghiêm nghị nói:

–        Mời Thầy sang Tân phú là độc kế của VM. Họ cho rằng diệt được Thầy là hết người lãnh đạo, anh em như rắn mất đầu, chúng không đánh cũng phải tan.

Ông Mai Văn Dậu nghe Đức Thầy dạy như thế liền ngỏ lời xon:

–        Dạ trình Đức Thầy, khi Thầy đã biết rõ dã tâm của bọn vô thần, âm mưu hãm hại những người yêu nước, chúng tôi xin Thầy thận trọng đối với lời mời của Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây và Trần Văn Nguyên.

Đức Thầy trả lời:

–        Nếu không đến dự hội thì họ sẽ phao vu rằng Thầy cố tình không chịu đòan kết.

Ngày xưa Quan Vân Trường đơn đao sang Đông Ngô phó hội mặc dầu biết rõ sự nguy nan. Quan Vân Trường ra đi với lòng thành của người quân tử, không sợ bọn tiểu nhân. Nếu chẳng may có bị Đông Ngô sát hại thì Quan Vân Trường lưu danh hậu thế và chính Tôn Quyền đã tự lột mặt nạ tiểu nhân.

Nay Thầy ra đi phó hội có khác nào trường hợp của Quan Vân Trường ngày xưa.

Nếu Thầy chấp thuận cho đại đội phòng vệ đi theo mà VM muốn âm mưu sát hại Thầy thì chỉ gây thêm đổ máu, chưa chắc đã phá được âm mưu của họ khi ấy Thầy đã ở trong khu vực kiểm sóat của CS rồi.

Chi bằng thầy đi với 2 người đệ tử theo hầu như ngày thường là được rồi.

Nghe Đức Thầy nói vậy, mọi người đành phải tuân theo.

Thế là ngày 16-4-47, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ cùng người vệ sĩ sang Tân Phú bằng ghe riêng của Đức Thầy vẫn dùng.

Khi đó Ung Văn khiêm, Trần Văn Nguyên và Nguyễn Văn Tây liền bố trí kế họach ám hại Đức Thầy giao cho Bửu Vinh chỉ huy trưởng lực lượng địa phương thi hành.

Bửu Vinh bố trí quân lính dọc 2 bên bờ sông, nơi ghe của Đức Thầy đi về Tân Phú phó hội. Khi Đức Thầy đến địa điểm liên lạc để vô địa điểm hội nghị thì chỉ có 1 viên đại đội trưởng đến cho biết, theo lệnh của Bủu Vinh thì những người vệ sĩ theo hầu Đức Thầy phải ở lại ghe, chỉ có 1 mình Đức Thầy được vào địa điểm hội họp.

2 vệ sĩ của Đức Thầy phản đối không chịu để Đức Thầy đi một mình, 2 thanh niên yêu nước, trung thành với Thầy, với Đạo cương quyết đòi phải được ở bên Đức Thầy để bảo vệ Đức Thầy. Một thanh niên nói:

–        Thà chết, chúng tôi không bao giờ xa Đức Thầy chúng tôi nửa bước.

Nói rồi 2 anh tiến theo Đức Thầy.

Giữa lúc xuất kỳ bất ý, bộ đội CS nổ súng bắn 2 vệ sĩ của Đức Thầy ngã gục.

Đức Thầy hỏi tên đại đội trưởng:

–        Các anh là bọn khốn nạn, sát nhân bắn lén những người thành thật yêu nước.

Đức Thầy nói chưa dứt lời, thì bọn này dùng võ lực dẫn Đức Thầy xuống ghe chờ đi.

Kể từ ngày 16-4-47 đến nay đã được 16 năm rồi, Đức Thầy vắng bóng nhưng những lời chỉ dạy của Đức Thầy vẫn còn văng vẳng bên tai các tín đồ PGHH. Song song với những nhiệm vụ trau dồi đạo đức, phát huy đạo lý của Đức Thầy đã truyền dạy các tìn đồ HH, các đảng viên đảng Dân chủ Xã hội VN đã đẩy mạnh phong trào chống cộng bảo vệ tín ngưỡng chờ ngày ĐGC Hùynh Phú Sổ trở về với 2 triệu tín đồ HH.

XXI. Một buổi chiều tại Ba-lê vào buổi cuối thu, tuyết đã bắt đầu rơi lã tã như những đám bông gòn từ trên không rụng xuống lơ lững mắc trên những cành cây khẳng khiu trơ cảnh trụi lá. Trong một căn nhà ờ đường Do Thái, ngọai ô thành phố Ba-lê, chúng tôi gồm 6 sinh viên VN sang du học ở Pháp đang ngồi bên lò sưởi để đàm đạo.

Chúng tôi là nhữngthanh niên của thời đại đã từng tham gia cuộc chiến đấu giành độc lập cho nước nhà, biểu tình ở Saigon ngày 20-8-1945, đã từng chiến đấu trên khắp đường phố Saigon, Cholon chận đánh đám quân rạch mặt ở Cầu Bộng, cầu Băngky, đã từng vào bưng để sống cuộc đời chiến sĩ kháng chiến chống xâm lăng.

Tháng 9-1947, lần lượt từng người chúng tôi trở về thành với gia đình vì không còn có thể chịu đựng được chính sách hà khắc, chia rẽ đảng trị của VM. Về Saigon, chúng tôi lại không chịu được những chướng tai gai mắt do bọn thực dân và bọn Việt gian đội lốt Quốc Gia nên không hẹn mà gặp chúng tôi đều sang Pháp để học thêm.

Chiều hôm ấy, chúng tôi ngổi bên lò sưởi nói chuyện với nhau, câu chuyện trong Bưng thường là đầu đề trong những buổi họp mặt của chúng tôi.

Hôm ấy chúng tôi vừa được mấy anh em ở Saigon gởi sang cho tập báo Quần Chúng do ông Nguyễn Văn Sâm, vị khâm sai Đại Thần hồi cụ Trần Trọng kim làm thủ tướng đứng điều khiển.

Một trong số báo Quần Chúng có bài tố cáo Bửu Vinh và Trần Văn Nguyên đã hãm hại ĐGC Hùynh Phú Sổ ổ Tân Lập ngày 16-4-47.

Đọc tin trên, anh Lê Công L. trao lại tờ báo cho anh Ch.V.A. và nói:

–        A. mày đọc tin này mày nghĩ sao ?

A.cầm tờ Quần Chúng đọc tin trên rồi liệng tờ báo xuống bàn nói:

–        Sai hết ! ĐGC Hùynh Phú Sổ bị hãm hại trước mặt tao. Có thể nói rằng tao là người được chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thọ nạn.

Nghe A. nói, anh Hùynh Đ.Th. người vùng Long Xuyên liền hỏi:

–        Vụ án CS hãm hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ rất bí mật. theo các báo cáo cũng như những tín đồ HH kể lại thì Đức Thầy Hùynh Phú Sổ bị Bửu Vinh, Trần Văn Nguyên, Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây và Ung Văn Khiêm âm mưu hãm hại tại Tân Lập.

Nhưng cách đây chừng 2 tuần lễ, tôi có gặp Bửu Đ, em ruột Bửu Vinh vừa ở SG sang Ba Lê học, tôi có trách anh em Bửu Vinh mù quáng hãm hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ gây ra thảm trạng huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt thì Bửu Đ. nói:

–        Tôi không hiểu vì sao đi đến đâu tôi cũng nghe người ta nói anh Vinh đã hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ. Thật ra theo tôi biết thì Đức Thầy Hùynh Phú Sổ không bị hại ở Tân Lập.

A. ngồi nghe rồi mỉm cười nói:

–        Tao đã nói là chính mắt tao trông thấy từ đầu đến cuối. Chúng mày còn nhớ, hồi ở Bưng, bọn VM cấm ngặt không cho bàn tán, nói đến vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ không ?

Chúng tôi đều gật đầu. A. kể tiếp:

–        Từ ngày các đảng phái quốc gia ngồi yên để chính quyền lọt vào tay VM, Trần Văn Giàu, xứ ủy Nam bộ của ĐD CS làm chủ tịch UBND Nam bộ, Hùynh Văn Tĩễng là phó chủ tịch. Về bên Kỷ bộ VM thì Lê Duẩn làm chủ nhiệm, Kỳ bộ Nam bộ có Hòang Quốc Việt, tục danh Hà Bá Cang, đại diện trung ương đảng bộ đặc trách Nam bộ, Ung Văn Khiêm làm phó chủ nhiệm, Trần Văn Trà là bí thơ kiêm UB quân sự Gia Định, tao quen với Trần Văn Trà từ trước nên Trần Văn Trà nhận tao là bí thơ cho Trà.

–        Khi quan đội Pháp đổ bộ vào Saigon ngày 23-9-1945, Trần Văn Trà được cử làm tư lệnh khu 8 và Phạm Văn Bạch được cử làm chủ tịch UB Kháng Hành Nam bộ thay Trần Văn Giàu.

XXII. A.kể tiếp:

–        Vào làm bí thơ cho Trần Văn Trà nên Trà đi đâu, tôi cũng ở bên cạnh. Hồi bấy giờ, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đang ở Miền Đông, trông bộ đội 30 của Tư Tỵ và Mười Trí cùng với anh Thao, anh Phiệt. Mười Trí là một tướng lãnh Bình Xuyên nhưng rất quý trọng Đức Thầy nên Mười Trí thường cho Mười Phiệt vệ sĩ của Trí, đi theo hầu Đức Thầy luôn.

Trần Văn Giàu dùng kế phản gián xúi dục Bình Xuyên thủ tiêu Đức Thầy. Giàu liền in hình của Đức Thầy, tấm hình Đức Thầy Hùynh Phú Sổ để tóc dài quá bờ vai, rời bí mật phân phát cho bộ đội kháng chiến nói rằng: “ Đây là hình của một Việt gian cao cấp, đang lẫn lộn trong hàng ngũ kháng chiến để họat động gián điệp. Hễ ai gặp tên này có thể thủ tiêu ngay rồi báo cáo sau”.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đã biết rõ âm mưu đê hèn này nên từ ngày Đức Thầy thoát khỏi vụ mưu sát ở đường Sohier (Tự Đức) của Lý Huệ Vinh, Đức Thầy cắt tóc ngắn, đi lại bất thường. Đức Thầy Hùynh Phú Sổ ở Miền Đông nhưng lúc nào cũng ở chung với Mười Trí và thường được giới Bình Xuyên gọi là Cậu Tư chớ không ai gọi tên Đức Thầy.

Mười Phiệt đã từng nghe danh Đức Thầy nhưng chưa biết mặt, nay dù được hân hạnh  làm vệ sĩ cho Đức Thầy, Mười Phiệt cũng không ngờ, đó là vị lãnh đạo đầy uy tìn của gần 2 triệu tín đồ HH. Mười phiệt chỉ biết Đức Thầy là Câu Tư nhưng Mười Phiệt rất phục Đức Thầy, thích nghe Đức Thầy nói chuyện.

Mười Phiệt cũng được tấm hình của Đức Thầy do bọn VM gởi đến vu khống người trong hình là Việt gian. Một hôm, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ vừa ở hội nghị Nam bộ họp ở Hóc Môn ra, Mười Phiệt nhìn Đức Thầy na ná giồng người trong bức hình của CS gởi cho anh. Mười Phiệt liền lấy tấm hình ra so sánh. Anh nhìn Đức Thầy rồi lén nhìn tấm hình thì ngay lúc ấy Đức Thầy từ xa đi lại. Thấy Đức Thầy đã đi lại gần mình rồi Mười Phiệt liền cất tấm hình đi thì Đức Thầy lại vỗ vai Mười Phiệt hỏi:

–        Anh Mười nhìn tấm hình coi giống tôi không ?

Mười Phiệt giựt mình trả lời:

–        Giống lắm Cậu Tư ạ ! Nhưng có lý nào người tài trí, một lòng yêu nước như Đức Thầy bao giờ lại làm Việt gian.

Đức Thầy cảm động trước lời nói thành thật của Mười phiệt.

Khi Trần Văn Giàu bị cất chức, Phạm Văn Bạch được cửa làm chủ tịch UN Kháng Hành Nam bộ. Bạch liền hội đàm riêng với Trần Văn Trà, tư lệnh khu 8, Nguyễn Bình tức Nguyễn Phương Thảo vừa ở khu Hồng Quảng Bắc Việt vô làm ủy viên quân sự kiêm tư lệnh khu 7,9 để bàn về kế diệt trừ HH và Đức Thầy Hùynh Phú Sổ.

Phạm Văn Bạch cho biết, theo chỉ thị của Trung ương miền Bắc, ký tên Trần Hũu Dực, thứ trưởng tại phủ chủ tịch, đại diện HCM gởi vô cho Lê Duẩn, buộc phải thanh tóan cho mau xong Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, PGHH và đảng Dân Chủ Xã hội VN.

Trần Văn Trà đưa ra kế họach triệu tập các khu trưởng các quân khu 7,8 và 9 cùng các ủy viên Nam bộ, các giám đốc sở. Dĩ nhiên Đức Thầy Hùynh Phú Sổ là ủy viên Xã Hội cũng phải có mặt trong buổi hội nghị này. Lúc ấy trước hội nghị Phạm Văn Bạch hoặc Trần Văn Trà sẽ đứng lên buộc tội Đức Thầy và PGHH cũng như Đảng Xã Hội VN.

Trong cuộc họp này 99% là người của CS sẽ hùa nhau thảo luận thị uy với Đức Thầy. Và sau đó sẽ tùy theo không khí của hội nghị mà hành động hoặc giữ Đức Thầy hoặc sát hại Đức Thầy ngay khi ấy.

Nguyễn Bình vừa mới vô Nam nêm im lặng không phát biểu ý kiến. Phạm Văn Bạch theo kết họach của Trần Văn Trà vì Trà là một trong những cán bộ lãnh đạo của CS Nam bộ.

Phạm Văn Bạch đạt giấy mời các khu trưởng các quân khu 7,8 và 9 cùng với bộ tham mưu quân khu, các chỉ huy trưởng các đơn vị quân đội từ tiểu đòan trưởng trở lên, các ủy viên trong UB Kháng Hành Nam bộ, các giám đốc Sở về họp.

Địa điểm liên lạc là huyện Đức Hòa thuộc tỉnh Chợ Lớn, nay là Long An.

XXIII. Nhậm được thơ mời của Phạm Văn Bạch, các khu trưởng, khu phó các quân khu như Trần Văn Trà, khu trưởng khu 8; Trương Văn Giàu, khu phó khu 8; Nguyễn Bình, khu trưởng khu 7; Lê Văn Viễn, khu phó khu 7; Hùynh Phan Hộ, khu trưởng khu 9; Trịnh Khánh Vàng, khu phó khu 9; Hùynh Văn Trí, chỉ huy trưởng Liên quân 2 và Bộ đội An Điềm và Đức Thầy Hùynh Phú Sổ lục đục kéo về Vườn Thơm, quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn.

Trong chương trình nghị sự Phạm Văn Bạch đã nói rõ mục đích của cuộc họp là bàn về vấn đế thống nhứt các lực lượng võ trang địa phương.

Phải nói rằng Trần Văn Trà không ngờ chính vì cái chương trình nghị sự này mà kế họach hãm hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ của bọn Bạch, Tiễng và Trà không thể nào thi hành được vì vấn đề thống nhứt các lực lượng võ trang địa phương đã va chạm đến quyền lợi Mười Trí, Lê Văn Viễn và nhiều chỉ huy quân sự khác. Do đó, các chỉ huy lực lượng quân sự địa phương, dù muốn hay không cũng phải là hậu thuẩn của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ.

Kế họach của Trần Văn Trà là đưa Phạm Văn Bạch chủ tọa cuộc họp để lái cuộc thào luận có lợi cho kết họach hãm hại Đức Thầy.

Nào ngờ khi Phạm Văn Bạch đã tuyên bố lý do và vừa yêu cầu những người tham dự cuộc họp đề nghị chủ tọa, Trần Văn Trà chưa kịp mở miệng thì Hùynh Văn Trí đã đề nghị Đức Thầy Hùynh Phú Sổ là chủ tọa cuộc họp và Lê Văn Viễn vỗ tay hoan nghinh.

Thế là Trần Văn Trà bị lỡ bộ nên đành phải đề nghị thêm Phạm Văn Bạch và Trương Văn Giàu để lập thành chủ tọa đoàn.

Suốt ngày đầu hội nghị chỉ thảo luận xung quanh vấn đến quân đội Pháp mở cuộc tấn công vào phủ chủ tịch ở Hanoi.

Sau đó Nguyễn Bình nhân danh ủy viên quân sự trong UB Kháng Hành Nam bộ thuyết trình về chiến thuật và chiến lược ở Nam bộ.

Bản thuyết trình này có nêu vấn đề thống nhứt các lực lượng võ trang địa phương và của các giáo phái, các đảng phái.

Sau mỗi ngày hội, buổi tối lại có những cuộc thảo luận riêng trong tổ. Đức Thầy Hùynh Phú Sổ ở chung với Mười Trí, Trịnh Khánh Vàng và Lê Văn Viễn. Trần Văn Trà liền cử Lê Công Lập một cán bộ CS và tổ của Đức Thầy để giám sát và báo cáo những họat động của tiểu tổ có Đức Thầy Hùynh Phú Sổ tham gia.

Trần Văn Trà thấy cuộc bố trí hãm hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đã hỏng nên định dùng mưu cho người thích khách Đức Thầy. Nhưng kế họach này không làm sao thực hiện được vì có 3 người vệ sĩ không lúc nào rời Đức Thầy một bước. Suốt ngày đêm, họ thay phiên nhau canh gách cho Đức Thầy nghỉ ngơi và lúc nào súng của họ cũng đã lên đạn.

Nói đến đây, Ch.V.A. nhấn mạnh rằng:

–        Tôi chú ý đến âm mưu của Trần Văn Trà nên phải thành thật mà nói rằng không một thủ đọan nào có thể qua mặt được Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, một người rất bình tĩnh, tinh anh.

Hình như Đức Thầy đã biết rõ âm mưu của Trần Văn Trà nên trong cuộc thảo luận trong tiểu tổ, Đức Thầy đã thuyết phục được Mười Trí, Lê Văn Viễn và ngay cả Lê Công Lập, một cán bộ CS.

Theo Lê Công Lập kể lại cho tôi nghe thì Đức Thầy Hùynh Phú Sổ có lối nói rất quyến rũ, ai nghe cũng phải mê. Đức Thầy lại còn có lối thuyết phục kẻ thù rất khéo. Chỉ ngồi nghe Đức Thầy nói một lúc là phải thán phục rồi tùy theo Đức Thầy sai khiến.

Đức Thầy thu phục kẻ thù bằng sự thành thật, bằng đức độ, bằng quân tử chí tình nên một khi đã phục thì chẳng bao giờ phản Đức Thầy cả.

XXIV. Sáng ngày thứ 2 của cuộc họp, Trần Văn Trà làm thuyết trình viên đưa ra những nhận xét về các cuộc xung đột giữa quân lực VM kiểm sóat và các lực lượng địa phương võ trang kháng chiến.

Trần Văn Trà đang định đưa vụ xung đột giữa cán bộ CS và các tín đồ PGHH thì Mười Phiệt xin phát biểu ý kiến.

Đức Thầy chủ tọa buổi họp liền trao lời cho Mười Phiệt.

Vốn là chiến sĩ quả cảm trung thực trong bộ đội An Điềm, anh Mười Phiệt liền dõng dạc kể lại những vụ bộ đội CS lấn át hà hiếp bộ đội An Điềm. Cụ thể như là sau khi chận đánh 2 đại đội lê dương, Maroc và thân binh Miên đi ruồng bố ờ vùng Lái Thiêu thuộc Thủ Biên ngày 20-10-46 lấy được 40 súng, vừa súng trường, vừa tiều liên nhưng 1 tiểu đội bị chết, 2 tiểu đội mang chiến lợi phẩm trờ về địa điểm đóng quân thì bị phục kích.

2 tiều đội bị phục kích chết 8 người nên đành bỏ lại 30 khẩu súng mà rút. Các anh em chiến sĩ đinh ninh là quân đội Pháp tiếp viện đã phục kích đánh bộ đội An Điềm nhưng 1 ngày sau mới biết là đại đội 42 của Lê Tất Hiển, một cán bộ quân sự của CS thuộc tỉnh đội Thủ Biên phục kích đánh cướp chiến lợi phẩm.

Uất ức vì bị đại đội trưởng Lê Tất Hiển phục kích, Mười Trí và Mười Phiệt liền kiện lên khu ủy khu 7. Nhưng khi báo cáo đến khu 7 mặc dầu có Lê Văn Viễn đích thân can thiệp việc này không được xét đến.

Khi đó thì đại đội 42 của Lê Tất Hiển đóng ở Rạch Sỏi.

Mười phiệt dõng dạc kết án các cán bộ CS không thành tâm đòan kết.

Mười Phiệt vừa dứt lời, Đức Thầy mời Lê Văn Viễn phát biểu ý kiến với danh nghĩa là nhân chứng. Lê Văn Viễn công nhận sự việc Mười Phiệt vừa nói. Viễn còn cho biết, Viễn nhân danh khu phó khu 7 yêu cầu bộ tư lệnh khu đưa Lê Tất Hiển ra trước tòa án Binh nhưng bị Nguyễn Bình bác bỏ đề nghị của Viễn. Không khí cuộc thảo luận trở nên nặng nề khi Lê Văn Viễn đưa Nguyễn Bình ra trước hội nghị để tố cáo Bình bao dung cho bọn tay em hòanh hành, đàn áp bộ đội bạn. Thấy cuộc thảo luận đã chuyển sang hướng khác một cách quá sôi nổi, Phạm Văn Bạch nhân danh một nhân viên của chủ tịch đòan cắt đức cuộc thảo luận.

Thế là trọn ngày thứ 2, âm mưu của Trần Văn Trà định đưa vụ HH xung đột với VM ờ Miền Tây ra để buộc tội Đức Thầy bị thất bại, không thực hiện được.

Buổi tối hôm ấy, Đức Thầy làm bài thơ tặng bộ đội Bình Xuyên, đại khái trong bài thơ Đức Thầy khen những người đã khét tiếng trong làng “anh chị” biết hiên ngang đem tòan lực ra kháng Pháp và chống bọn giả danh Cách Mạng.

Như bài này của anh Mười Phiệt, thuộc nhóm Bình Xuyên (làm đã từ lâu) đọc có ý kích thích Đức Thầy trong khi Ngài đang nằm nghĩ trưa. Đức Thầy liền ứng khẩu đáp họa liền làm cho anh em Bình Xuyên vỗ tay nhiệt liệt.

Anh Phiệt xướng:

Non nước ngửa nghiêng vẫn ngủ ỳ ?

Ai ôi tỉnh dậy, dậy rồi đi.

Đi lo sự nghiệp trai thời lọan,

Khỏi thẹn người xưa lúc gặp thì.

Đức Thầy họa:

Lặng lẽ tính toan đâu ngủ ỳ !

Chỉnh tu binh mã để rồi đi.

Khi đi muôn sói đều tan vỡ

Rõ mặt hùng anh tạo thế thời

          (Miền Đông, mùa xuân năm 1947)

TẶNG CHIẾN SĨ BÌNH XUYÊN

Trước khét tiếng trong làng dao búa,

Lúc quân thù thống trị nước non Nam,

Khác giang hồ tụ ngũ, tùng tam,

Quyết khuấy nước chọc trời cho thỏa chí.

Dân chúng trách đám người không biết nghĩ,

Cứ quanh năm suốt tháng phá hương thôn.

Vì an ninh giặc Pháp cứ binh dồn,

Khi sa lưới phải lao tù nơi hải đảo.

Rồi vượt biển bao nài cơn gió bão,

Về quê nhà tánh cũ cứ nghinh ngang.

Lúc hòan cầu tiếng súng nổ vang.

Bừng tỉnh giấc bàng hòang suy nghĩ lại.

Từ thuở bé bao phen tang hả,

Khí kiêu hùng đem lại những chi đâu ?

Nhìn non sông đượm vẻ âu sầu,

Lòng yêu nước bắt đầu tim sóng dậy.

Cờ độc lập Bắc, Nam, Trung phe phẩy,

Trước gió chiều hãnh diện với lân bang.

Bỗng phương Âu vô số bọn tham tàn,

Tàu, bôm, súng đem sang non nước Việt.

Ách nô lệ dân ta đà chán biết,

Nên quyết lòng nổi dậy chống xâm lăng.

Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng:

Thà cam chết, không làm dân bị trị.

Bọn cách mạng giả danh đang rối trí,

Khu Bình Xuyên tiếng súng nổ vang tai.

Đòan dũng binh tiếng đếm một hai..

Nhắm hướng có quân thù xông lướt đến.

Đạp thành lũy cứu giống nòi yêu mến,

Làm rơi đầu, đổ máu biết bao ngàn.

Tiếng anh hùng nổi dậy khắp giang san,

Thay những tiếng bạo tàn cơn thất chí.

Xông trận địa nêu gương trang dũng sĩ,

Tự hào rằng Nam Việt, kém chi ai.

Ngàn muôn năm ghi nhớ khách anh tài,

Trong sách sử tiếng Bình Xuyên luôn chói rạng.

          (Miền Đông, 10-1-1947)

TẾT Ở CHIẾN KHU

Tăng bạn ngày xuân chén ruợu nồng,

Uống rồi vùng vẫy khắp Tây-Đông.

Đem nguồn sống mới cho nhơn lọai,

Để tiến, tiến lên cõi đại đồng.

Rượu xuân càng nhắp càng say,

Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.

Ngày tết năm nay ở chiến khu,

Bưng biền gió lốc tiếng vi vu.

Xa xa súng nổ thay trừ tịch,

Dân Việt còn mang nặng mối thù.

Mối thù nô lệ trả chưa xong,

Pháp tặc còn trêu giống Lạc Hồng.

Dùng thói dã man mưu thống trị,

Thì ta quyết chiến dễ nào không !

Dễ nào không dám gắng hy sinh,

Giữ vững non sống đất nước mình.

Tự lập nghìn xưa gương chói rạng,

Anh hùnh khởi xuất chốn dân binh.

Dân binh Nam-Việt mấy ai bì ?

Không súng tầm vông cũng vác đi

Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh

Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.

Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn,

Lòng mang Đại-Nghĩa để thân khinh.

Máu đào xương trằng phơi đầy nội,

Quyết đổi tự do mới thỏa tình.

Thỏa tình được sống dưới trời Đông,

Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng.

Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt,

Từ đây non nước thóat nguy vong.

          (Bình Hòa (Chợ Lớn) ngày 2-1 Đinh Hợi 1947)

KỶ NIỆM RỪNG CHÀ LÀ

Rừng chà là, rừng chà là vạn tuế ..!

Thành lũy ấy chông gai bao xiết kể,

Muôn quân thù đâu dám dẫm chơn vô.

Đây là nơi tướng Việt thiết mưu mô,

Chờ cơ hội quét tan lòai xâm lược.

Tranh độc lập để bảo tồn non nước,

Biết bao lần chúng giặc phải cuồng điên.

Vì đem quân cả phá Bình Xuyên,

Chạm trán với chiến binh hùng dũng

Một năm qua bền gan không nao núng,

Dù thảo lương thiếu túng chịu gian nan.

Nơi rừng xanh chịu lắm cảnh cô hàn,

Mưa nắng táp, gió sương dầu dãi.

Nước Nam Việt ờ ven bờ Nam Hải,

Ngàn xưa từng chống lại họa xâm lăng.

Bạch Đằng Giang công nghiệp ấy ai bằng,

Quân Việt ít đánh tan Mông Cổ mạnh.

Nay giặc Pháp buông lung, kiêu hãnh,

Ỷ lại vào tàu chiến với phi cơ.

Nơi sa trường chúng gặp cảnh bất ngờ,

Sức kháng chiến ngàn xưa nay sống dậy.

Nơi hành dinh gió vàng phe phẩy,

Khách viễn phương mượn lấy ờt hoa.

Vài câu văn thô kịch gọi là,

Để kỷ niệm chốn “Bình Xuyên” anh dũng.

          (HH tặng chiến sĩ liên khu Bình Xuyên (2-47))

XXV. Đức Thầy Hùynh Phú Sổ ngày được  nhiều cảm tình với một số chỉ huy quân sự các bộ đội không thuộc hệ thống của VM, trong số đó có Mười Trí, Bảy Viễn, Mười Phiệt..vv..

Sáng ngày thứ 3, Trần Văn Trà không muốn mang tiếng cố tình ly gián, nên giao nhiệm vụ thuyết trình viên cho Hùynh Phan Hộ, khu trưởng khu 9.

Hùynh Phan Hộ đưa ra những vụ xung đột ở miền Tây giữa bội đội HH và bộ đội VM. Sau đó Hùynh Phan Hộ mới buộc Đức Thầy phải chịu trách nhiệm về hành động của ông Trần Văn Sóai, ông Lâm Thành Nguyên và ông Nguyễn Giác Ngộ đã gây ra những vụ xung đột ở miền Tây.

Sau khi Hùynh Phan Hộ nói xong, Trần Văn Trà đúng lên buộc tội, đổ lỗi cho Dân Xã không có thiện chí liên hiệp nên hàng ngày thường xảy ra những vụ chém giết lẫn nhau, gây nên cảnh huynh đệ tương tàn.

Lúc này, không khí trong hội trường sát khí đằng đằng. Nhưng có điều rất lạ là ngồi trên ghế chủ tọa, lúc nào Đức Thầy vẫn tươi cười, bình tĩnh.

Trần Văn Trà nói xong, Đức Thầy liền hỏi:

–        Đồng chí Mười Phiệt phát biểu ý kiến.

Mười Phiệt đang chăm chú theo dõi lời buộc tội của Hùynh Phan Hộ và Trần Văn Trà thì Mười Phiệt nghe Đức Thầy hỏi. Như có một lực lượng huyền bí thúc đẩy Mười Phiệt đứng phắt dậy, nói thao thao bất tuyệt. Ngày thường Mười Phiệt rất ít nói vì anh nói không thông thạo. nhưng lạ thay, hôm nay Mười Phiệt phát biểu ý kiến rất thông suốt, đả kích lại lối buộc tội một chiều vu khống của Hùynh Phan Hộ và Trần Văn Trà. Mười Phiệt nói:

–        Các đồng chí khu trưởng khu 9, Hùynh Phan Hộ, đồng chí khu trưởng khu 8, Trần Văn Trà nói rằng ông Trần Văn Sóai chỉ huy bộ đội địa phương của Dân Xã và tín đồ HH chém giết bộ đội VM. Điều đó hòan tòan vô căn cứ vì ông Trần Văn Sóai không có mặt ở miền Tây. Chúng tôi đoan chắc với các đồng chí là ông Trần Văn Sóai hiện có mặt trong bộ tham mưu của bộ đội An Điềm ở miền Đông từ trong Tết cho tới nay.

Tôi có thể đóan chắc với các đồng chí là các vị lãnh đạo đảng Dân Chủ Xã hội VM, nói thẳng là Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đây rất thiện chí liên hiệp. Đức Thầy đã biết rõ thế nào cũng có người cố tình vu khống cho Đức Thầy và đồ đệ của ngài, nhứt là đồng chí Trần Văn Sóai nên Đức Thầy ra lịnh đổi ông Trần Văn Sóai từ Ba-răng miền Tây lên miền Đông là nơi bộ đội An Điềm đóng để tránh lời vu khống là những vị chỉ huy bộ đội Dân Xã đảng cố gây mâu thuẫn với bộ đội VM.

Trong khi Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và Trần Văn Sóai ở miền Đông thì ờ Miền Tây những vụ chém giết, thủ tiêu vẫn xảy ra mà ai cũng biết, nạn nhân là các tín đồ HH, anh em chiến sĩ Dân Xã đảng, các đồng chí Hùynh Phan Hộ, Trần Văn Trà lại buộc tội Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và ông Năm Lửa Trần Văn Sóai.

Như vậy sự thật ở đâu ? Ai là thủ phạm giết hàng lọat dân quê vô tội xuống các đìa, các rạnh ở miền Tây ?

Mười phiệt đã binh vực Đức Thầy và ông Trần Văn Sóai rất hăng nên lúc Mười Phiệt gọi ông Sóai bằng đồng chí, khi bằng anh, bằng ông.

Mười phiệt nói dứt lời thì cử tọa đều vỗ tay hoan nghinh.

Thế là âm mưu của bọn Phạm Văn Bạch, Trần Văn Trà, Hùynh Phan Hộ, một lần nữa bị gãy vỡ, không thực hiện được mặc dầu Đức Thầy chưa hề lên tiếng trả lời.

Trần Văn Trà, Hùynh Văn Tiễng, Hùynh Phan Hộ không hiểu vì sao Mười Phiệt lại phát biểu binh vực Đức Thầy như thế ?

Lúc đầu Trần Văn Trà ngỡ âm mưu của mình bị tiết lộ, nên Đức Thầy làm sẵn bài biện hộ cho Mười Phiệt học thuộc lòng nên Mười Phiệt mới phát biểu rành rẽ, lý luận vững chắc như thế. Nhưng về sau bọn Trà điều tra rành mạch mới biết việc Mười Phiệt phát biểu ý kiến là do Mười Phiệt ứng khẩu.

Sang ngày thừ tư là ngày cuối cùng của hội nghị, âm mưu sát hại Đức Thầy ờ Vườn Thơm của bọn Trần Văn Trà bị thất bại hòan tòan.

XXVI. Sau 4 ngày hội họp ở Vườn Thơm, âm mưu sát hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ của Trần Văn Trà, Phạm Văn Bạch, Hùynh Văn Tiễng không thành vì Đức Thầy lôi cuốn được Mười Trí, Mười Phiệt, Bảy Viễn làm hậu thuẫn để chống lại lời buộc tội của Trần Văn Trà và Hùynh Phan Hộ.

(Hùynh Phan Hộ, sau vì VM nghi ngờ nên tử chiến bỏ mình tại trận đánh ờ Ba-rinh, Sóc Trăng)

Thấy hội nghị Vườn Thơm không mang lại kết quả chi cả Phạm Văn bạch đề nghị lập UB Hòa Giảo lần thứ 3 nữa. Lần này Trần Văn Trà làm đại diện cho phe VC thay Ung Văn khiêm.

Theo thời khóa biểu ngày 14-4-47, UB Nam bộ làm lễ bế mạc hội nghị (để sáng ngày hôm sau, 15-4-47,  Đức Thầy sẽ cùng với Trần Văn Trà đi thẳng về miền Tây.

Nhiệm vụ của các UB hòa giải lần thứ 3 này là về tận nơi đang xảy ra những vụ xung đột để tìm giải pháp liên hiệp, đòan kết các lực lượng đối lập.

Chiều ngày 14-4-47, lễ truy điệu các chiến sĩ trận vong được tổ chức ờ ngay Vườn Thơm.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ được cử làm Chủ Tế do lời đề nghị của Mười Trí. Theo Mười Trí thì cách đây (hồi bấy giờ) nửa năm, khi bộ đội An Điềm và đại đội 42 đóng ở Vườn Thơm thuộc Đức Hòa thì có tin quân đội Pháp đến tấn công Vườn Thơm.

Thế là bộ đội An Điềm và đại đội 42 bố trí nghênh chiến 2 đại đội vừa Pháp vừa Maroc võ trang đầy đủ đi tàu đổ bộ nhắm vùng Vườn Thơm trực chỉ. Có máy bay và tàu chiến của Pháp yểm hộ.

Mặc cho quân Pháp bắn phá dọ đường, bộ đội An Điềm và đại đội 42 nằm lỳ phục kích.

Một lúc sau, tiếng máy tàu bỗng ngưng bắn. Tiểu đội xích hầu của trung đội 12 liền nổ súng vì quân đội pháp vừa ào lên, 4 tên Pháp ngã gục. Bọn lính Pháp gầm lên và hô xung phong vang dội, đòan quân Pháp  đổ bộ vừa bắn vừa chạy về phía tiểu độ xích hầu của trung đội 12. Cuộc chiến đấu càng gay go quân đội Pháp chết càng nhiều trước khi tiểu đội xích hầu của trung đội 12 bị hòan tòan tiêu diệt.

Trận đánh kéo dài từ 10 giờ sáng cho đến 4 giờ chiều, cả đại đội 42 và bộ đội An Điềm bị chết 46 người. Quân đội Pháp và Maroc nhờ có võ khí tối tân nên chúng đã chiếm được Vườn Thơm.

Nhưng vỉ bộ đội An Điềm và đại độ 42 phục kích quấy rối hàng ngày nên quân đội Pháp phải rút lui, sau 1 tuần chiếm đóng Vườn Thơm.

Sau khi quân đội Pháp và Maroc rút lui, bộ chỉ huy bộ đội An Điềm và đại độ 42 liền tổ chức truy điệu các chiến sĩ trận vong vào ngày 1-10-1946. Hồi ấy Đức Thầy Hùynh Phú Số đang ở trong bộ chỉ huy bộ đội An Điềm nên các chiến sĩ thỉnh mời Đức Thầy làm chủ tế. Hôm đó Đức Thầy có làm bài văn tế Chiến Sĩ Trận Vong ờ Vườn Thơm lời lẽ rất hào hùng, bi ai thống thiết.

Ngày 14-4-47, trong buổi lễ truy điệu Trận Vong Chiến Sĩ ở Vườn Thơm, các chiến sĩ và UB địa phương xin Đức Thầy đọc lài bài văn tế buổi cuối thu năm ngóai ờ Vườn Thơm.

Giọng Đức Thầy sang sảng, bài văn tế lại thống thiết, mọi người đều ngậm ngùi rơi lệ:

TẾ CHIẾN SĨ TRẬN VONG Ở VƯỜN THƠM

Trên linh tọa hương trần ghi ngút,

Tắc lòng thành cầu chúc vong linh.

Sa trường hỡi các sĩ binh,

Vườn Thơm tuyệt mạng hiến mình non sông.

Thiệt chẳng hổ giống nòi Nam Việt,

Từng nêu cao khí tiết Lạc Hồng.

Đã mang lấy nợ non sông,

Quyết lòng báo quốc tồn vong sá gì

Gương yêu nước đáng ghi đáng nhớ,

Chí hy sinh nhắc nhở mai sau,

Sống không hổ kiếp anh hào,

Không ham tiền bạc, sang giàu cá nhân.

Thân chiến sĩ, vì dân, vì nước,

Vì tự do, hạnh phước đồng bào.

Bao nài nguy hiển gian lao,

Một năm kháng chiến ra vào chông gai.

Bom, đạn thét không phai tâm ý,

Súng gươm rền nung chí hùng anh.

Quyết đem xương máu hy sanh,

Hy sanh cứu nước rạng danh muôn đời.

Thù giặc Pháp làm người phải trả,

Trừ tham quân bởi quá ngang tàng.

Nước mất đâu dễ ngồi an,

Mượn gươm Lê, Lý dẹp tan quân thù.

Ngày hôm ấy tàn thu sương đượm,

Quân Pháp đem lực lượng tấn công.

Máy bay, tàu thủy, súng đồng,

Lục quân cơ khí quyết lòng hại dân.

Chúng gặp phải liên quân anh dũng,

Hạ phi cơ, tuốt súng, lấy bom.

Quanh tàu vây chặt mấy vòng,

Cả kinh giặc Pháp phục tòng rút lui.

Phận rủi ro riêng xui mạng bạc,

Khiến anh hùng cỡi hạc xa bay.

Nước non đang thiếu anh tài,

Tử thần vội cướp đưa ngay chầu Trời.

Hồn tử sĩ nghe lời than tiếc,

Trừ tham quân tận diệt xâm lăng.

Nam binh sát khí đằng đằng,

Thề nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi.

Kể chết đã yên rồi một kiếp,

Người sốngcòn tái kiếp noi gương.

Lòng thành thắp một tuần hương,

Vái hồn liệt sĩ bốn phương tựu về.

Nơi làng vắng cam bề đơn giản,

Lễ mọn này trước án bày ra.

Hiển linh xin chứng gọi là…

          (Quéo Ba ngày 1-10-46 Bính Tuất)

XXVII. Kể đến đây, Ch.V.An rút điếu thuốc Gauloise châm lửa hút rồi thở dài, nói tiếp:

–        Sau khi làm lễ truy điệu các chiến sĩ trận vong ờ Vườn Thơm, mọi người chia tay. Nguyễn Bình về chiến khu D, tổng hành dinh của UB Quân Sự Nam bộ và là bộ tư lệnh khu 7. Lê Văn Viễn trở về Rừng Chà Là, Mười Trí và Mười Phiệt về chiến khu Dương Minh Châu. Hùynh Phan Hộ về khu 9 với Trương Văn Giàu. Còn Đức Thầy Hùynh Phú SỔ cùng mấy người theo hầu xuống ghe đi với Trần Văn Trà. Tôi thì đáp ghe tam bản dọc theo sông Vàm Cỏ Đông xuôi về bộ tư lệnh khu 8, hồi bấy giờ đang đóng ở Kinh Năm Ngàn, giáp với Kinh Thiên Hộ.

Chúng tôi khởi hành từ Vườn Thơm hồi 6 giờ chiều cho đến 4 giờ sáng về đến kinh Năm Ngàn.

Được tin Trần Văn Trà và Đức Thầy Hùynh Phú Sổ về, bác sĩ Văn Thủy quân y cục trưởng khu 8 ở chợ Thiên Hộ liền cùng với Tô Ký ra đón.

Khi lên bờ, Đức Thầy vẫn bình thản vui vẻ, riêng Trần Văn Trà lại có vẽ mặt hầm hầm giận dữ.

Từ bờ kinh Năm Ngàn vô chỗ đóng quân của bộ tư lệnh khu 8 độ 2 cây số, có 1 trung đội hộ vệ, 4 vệ sĩ của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đều mang Thompson đi theo cạnh Đức Thầy không rời nửa bước. Thấy trung đội hộ vệ của Trần Văn Trà đóng dọc 2 bên đường, 4 vệ sĩ của Đức Thầy sợ bọn Trần Văn Trà hãm hại Đức Thầy nên họ đi bọc lấy Đức Thầy.

Vào đến bộ tư lịnh khu 8 thì đã 5g30 sáng. Cần vụ của bộ tư lịnh khu 8 dọn dẹp căn phòng riêng cho Đức Thầy và Trần Văn Trà ở. Tôi là bí thơ của Trà nên tôi và một hai cán bộ khu ủy nữa cũng được ở chung 1 gian nhà với Đức Thầy và Trần Văn Trà.

Suốt ngày hôm ấy, Trần Văn Trà sang kinh Thiên Hộ còn Đức Thầy ở nhà thảo kế họach hòa giải giữa bộ đội VM và bộ đội Dân Xã.

Chiều tối hôm ấy, Đức Thầy và Trần Văn Trà cùng ngồi ăn cơm chung, cơm nước xong Đức Thầy đưa cho Trần Văn Trà bản kế họach hòa giải.

Trần Văn Trà đốt đèn cầy lên coi. Đôi bên tỏ ra bất đồng ý kiến với nhau nên cuộc thảo luận rất sôi nổi. nhiều lúc Trần Văn Trà đập bàn nói lớn. Ngược lại Đức Thầy cũng tỏ ra hết sức bình tĩnh, nói năng rất khoan thai.

Cuộc thảo luận kéo dài đến 1 giờ đêm vẫn không có kết luận thông cảm giữa Đức Thầy và Trần Văn Trà.

Đã quá mệt mỏi, Trần Văn Trà và Đức Thầy cùng đi ngủ. Nhưng khi lên giường nằm 2 bên lại tranh luận với nhau.

Hình như Trần Văn Trà đã họach định sẵn kế họach hãm hại Đức Thầy rồi nên khi Đức Thầy và Trần Văn Trà bất đồng ý kiến, Trần Văn Trà nói lớn:

–        Nếu như thế này, chính anh là người cố tình phá họai. Thảo nào bao lần hòa giải không xong. Bản báo cáo Ung Văn Khiêm về sự ngoan cố của anh thật không sai.

–        Nếu anh không hạ lịnh cho tất cả lực lượng võ trang của Dân Xã hạ súng thì chúng tôi cương quyết tiêu diệt anh trước.

Nghe Trần Văn Trà dọa thủ tiêu, Đức Thầy cười rộ lên rồi nói:

–        Khi đi với các anh, tôi đã biết có cái hậu quả này rồi. anh chẳng cần phải dọa nạt làm chi.

Trần Văn Trà nói:

–        Anh thách tôi phải không ?

Thế là Trần Văn Trà vùng dậy gọi một cận vệ:

–        Sang bên ông Hương Bảy mời anh Thanh Sơn sang đây !

Lúc nghe Trà cho mời Thanh Sơn Nguyễn Văn Tây sang, Đức Thầy mới rõ VM đã có sẵn kế họach hãm hại Đức Thầy rồi.

Thật ra, Trần Văn Trà đã dặn trước mấy người cận vệ là khi nào Trà cho gọi Thanh Sơn là ám hiệu ra lệnh cho bộ đội cảm tử bắt 4 vệ sĩ của Đức Thầy, giam lại một nơi.

Đợi lúc lâu không thấy Nguyễn Văn Tây đến, Đức Thầy như đã biết rõ âm mưu của Trà nên Đức Thầy liền hỏi Trà:

–        Có phải anh đã ra lịnh bắt giam những vệ sĩ của tôi ?

Rồi Đức Thầy cười gằng:

–        Anh chả cần hành động qúa cẩn thận như thế ! Tôi ở đây là đất của các anh rồi. vả lại giữa thời lọan lạc này, biết bao nhiêu người chánh kến bất đồng với các anh như Dương Văn Giáo, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hùynh Văn Phương, Hồ Vĩnh Ký cũng đã bị các anh sát hại thì nay hành động của các anh đối với tôi đâu có lạ gì ?

Trần Văn Trà tái mặt vì giận dữ.

Trời đã sáng tỏ, 1 tiểu đội võ trang bằng súng máy kéo đến đưa Đức Thầy đi để hạ sát.

Theo 1 người trong tiểu đội đó kể lại thì Đức Thầy đã thọ nạn về tay CS. Thế là CS lại ghi thêm một tội ác tày trời nữa.

Thân chiến sĩ vì dân, vì nước

Vì tự do hạnh phúc đồng bào

Bao nài nguy hiểm gian lao..

Phận rủi ro riêng xui mạng bạc

Khiến anh hùng cởi hạc xa bay

Nước non đang thiếu anh tài,

Tử thần vội cướp đưa ngay chầu Trời.

Hồn tử sĩ nghe lời than tiếc,

Trừ tham quân tận diệt xâm lăng

Nam binh sát khí đằng đằng,

Thề nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi.

Kể chết đã yên rồi một kiếp,

Người sốngcòn tái kiếp noi gương.

Lòng thành thắp một tuần hương,

Vái hồn liệt sĩ bốn phương tựu về.

Nơi làng vắng cam bề đơn giản,

Lễ mọn này trước án bày ra.

Hiển linh xin chứng gọi là…

TÌNH HÌNH MIỀN TÂY SAU NGÀY ĐỨC THẦY THỌ NẠN.

XXVIII. Thiên điều tra, hồi ký về vụ VM âm mưu hãm hại Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, giáo chủ PGHH đã được đồng bào, bạn đọc các giới hoan nghinh nhiệt liệt nhứt là các tín đồ HH đồng bào miền Tây Nam bộ, nơi hồi sanh tiền Đức Thầy thường qua lại giảng kinh và độ thế.

Khi viết thiên điều tra hồi ký trên, chúng tôi thu thập tài liệu ờ khắp nơi Đức Thầy qua lại trước ngày Đức Thầy bị mưu hại cũng như những tài liệu, những truyền ngôn, truyền thuyết về những cuộc hành trình của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ sau ngày có tin Đức Thầy bị mất tích.

VM loan tin, chúng đã hãm hại Đức Thầy, thả trôi sông để khủng bố tinh thần 2 triệu tìn đồ HH do Đức Thầy lãnh đạo.

Còn các tín đồ HH thì tin tưởng rằng Đức Thầy chỉ vắng mặt.

Trước ngày bị hãm hại Đức Thầy đã nhiều lần cho các tín đồ HH biết, Đức Thầy sẽ vắng mặt trong một thời gian.

Vậy các tín đồ bây giờ vững lòng tin ,tiếp tục hành đạo theo đúng chân lý Thiện cảm, bác ái, từ tâm, cứu khổ, cứu nạn.

Các tín đồ xin Đức Thầy cho biết thời gian xa cách. Đức Thầy trả lời sẽ tùy theo hòan cảnh, thời gian không thể định trước được.

Viết thiên điều tra hồi ký này mục đích của chúng tôi ngòai việc kể lại một sự việc lịch sử, tội ác của VM đối với các nhân sĩ yêu nước, với một vị Giáo chủ có 2 triệu tín đồ.

Chúng tôi còn muốn tìm ra những bằng chứng là Đức Thầy Hùynh Phú Sổ còn sống hay đã mất rồi.

Chúng tôi không dám kết luận mà chỉ đưa ra những bằng chứng rồi tùy sự tham khảo suy luận của bạn đọc để tìm ra đáp số.

Cách đây nửa tháng, chúng tôi được hân hạnh tiếp kiến một vị chức sắc trong PGHH và cũng là một nhân sĩ yêu nước. Trong câu chuyện trau đổi về vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ lâm nạn, chúng tôi được vị chức sắc ấy kể lại như sau đây.

Ngày 9-4-1947, sau khi được tin VM ngày càng giết hại, đốt phái tài sản, nhân mạng của các tín đồ HH, Đức Thầy vội về từ Miền Đông, trong bộ tư lệnh bộ đội An Điềm. Đức Thầy Hùynh Phú Sổ trở về Ba-răng rất đột ngột nên các tín đồ ít người hay biết trừ một số người thân tín của Đức Thầy. Cùng đi với Đức Thầy có ông Hùynh Hữu Thiện bí thơ riêng của Đức Thầy và 4 vệ sĩ trung tín.

Từ ngày VM cố tâm rình mò hãm hại, Đức Thầy thường đi về rất đột ngột bất ngờ. Khi Đức Thầy còn ờ Miền Đông, thì có tin VM cố ý gây mâu thuẫn với ông Trần Văn Sóai. Đức Thầy liền ra lệnh gọi ông Sóai về miền Đông, nơi Đức Thầy đang trú ngụ.

Được lịnh gọi, ông Trần Văn Sóai vội vã lên đường. Khi Đức Thầy trờ về Ba-răng. Ông Sóai không được theo về.

Về đến Ba-răng, Đức thầy xem xét tình hình, họp một số chức sắc đến hội đàm. Nhưng từ ngày Đức Thầy về Ba-răng, những nguồn tin đau thương dồn dập đưa đến. Nào vụ 50 đảng viên Dân Xã bị giam ở Tân Phú bị VM thủ tiêu. Nào ông Hùynh Bộ Kiến ở Phú Thành, ông Nguyễn Ngọc Phước, bí thơ tỉnh đảng bộ Dân Chủ đảng ở Rạch Giá cùng với 2 đảng viên được tin Đức Thầy trở về Ba-răng liền đi về Ba-răng để yết kiến Đức Thầy đã bị đại đội 66-22 của VM đón bắt mổ bụng moi gan lấy ruột.

VM tìm đủ mọi cách, mọi cơ hội để sát hại các tín đồ HH và đảng viên Dân Xã. Lúc này Đức Thầy mới thấy sự khổ đau của những người yêu nước trong hàng ngũ HH và Dân Xã.

Bọn CS quyết tâm tiêu diệt Dân Xã đảng và PGHH.

Nguồn tin Đức Thầy về Ba-răng lan rộng. Các tín đồ ở các nơi kéo về bái yết Đức Thầy mỗi ngày một đông. Đức Thầy gởi thơ cho ông Hai Ngóan (Lâm Thành Nguyên), Ba Cụt Lê Quang Vinh ở Long Kiến về Ba-răng. Hồi bấy giờ khu Ba-răng do ông Nguyễn Giác Ngộ bảo vệ an ninh.

Suốt ngày 15-4-1947 tức là ngày 24 tháng 2 âm lịch năm Đinh Hợi, Đức Thầy ở tại nhà riêng thảo kết họach Kháng Chiến và Liên Hiệp. Chiều ngày 15-4-1947, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ cho đòi ông Hùynh Hữu Thiện, bí thơ riêng của Đức Thầy vô hầu. Đức Thầy liền sai ông Hùynh Hữu Thiện sáng mai đi công tác ở Long Xuyên.

Sáng này 16-4-1947, Đức Thầy tiếp được thơ của Bửu Vinh ủy viên quân sự ở Rạch Giá Long Xuyên mời Đức Thầy đến Tân Phú hội họp với Trần Văn Nguyên, ủy viên Nam bộ, đặp phái viên của thanh tra miền Tây Nam bộ gồm 3 tỉnh Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Đốc để bàn về kế họach kháng chiến chống Pháp.

XXIX. Được thơ mời của Bủu Vinh, Đức Thầy ra lịnh chuẩn bị ghe thuyền. Sở dĩ Đức Thầy bằng lòng đi phó hội là vì trong chương trình nghị sự kèm theo bức thơ mời Đức Thầy có ghi rõ là cuộc hội nghị này bàn về kế họach Kháng Pháp.

Đức Thầy Hùynh Phú Sổ là người thiết tha đến cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời gian trú ngụ tại bộ tư lịnh bộ đội An Điềm ở miền Đông, Đức Thầy đã sốt sắng tham dự những trận kháng Pháp.

Trong bài thơ “Chí Nam Nhi” Đức Thầy làm tại bộ tư lịnh bộ đội An Điềm ngày 10-1 năm Bính Tuất (1946) đã nói rõ tâm trạng sắt đá của Đức Thầy, quyết lòng kháng Pháp.

CHÍ NAM NHI

Nam nhi nung chí cả

Bao tấm lòng sắt đá

Thương giống nòi dẹp bả vinh hoa

Lướt đạn bom giữ vững một lời thề

Tàn sát hết quân thù xâm lược

Tranh độc lập tự do cho nước

Cho giống nòi rạng rỡ trước năm châu

Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu

Un đúc giống anh hùng vang bốn bể

Gương sáng ấy soi chung hậu thế.

(Làm tại miền Đông ngày 10 tháng giêng năm Bính Tuất (1946)

Bửu Vinh và Trần Văn Nguyên đã gợi đúng tâm lý yêu nước của Đức Thầy nên khi tiếp được thơ của Bủu Vinh đại biểu quân sự vùng Rạch Giá Long Xuyên thỉnh mời Đức Thầy ủy viên Xã hộ UB Kháng Hành Nam bộ đến Tân Phú, nơi tư lịnh của Bửu Vinh đóng hội đàm về kế họach kháng chiến chống Pháp ở miền Tây , lập tức Đức Thầy nhận lời ngay.

Để tránh máy bay của Pháp, hàng ngày vẫn bay đi khủng bố, bắn phá ghe thuyền đi trên sông, trên rạch, Đức Thầy cho lịnh khởi hành vào hồi 6 giờ tối ngày 16-4-1947 tức là ngày 25-2 âm lịch năm Đinh Hợi.

Các đệ tử thấy Đức Thầy sốt sắng ra đi, tuy lòng e ngại nhưng chẳng ai dám ngỏ lời cản ngăn. Những đệ tử thân cận chỉ đến bái yết Đức Thầy mà thôi.

Theo hộ vệ Đức Thầy, 2 đệ tử chèo ghe và 4 vệ sĩ do anh Mười Tỷ chỉ huy xuống ghe khởi hành rời Ba-răng từ 6 giờ chiều ngày 16-4-47.

Trên sông nước bềnh bồng, chiếc ghe ngược Tân Phú khi trời chập chọang tối. Các đệ tử tiễn đưa Đức Thầy chỉ có vài vị chức sắc vì Đức Thầy đã ra lịnh không được đưa đón ồn ào.

Từ Ba-răng đi Tân Phú, nước ngược nên ghe phải đi gần 2 tiếng đồng hồ mới đến nơi. Trên đường đi Tân Phú, Đức Thầy thường bịn rịn ra đầu ghe ngóng nhìn 2 bên bờ sông thỉnh thỏang mới có một vài ngôi nhà le lói ánh đèn.

Khi ghe ghé bến Tân Phú đã có 1 tiểu đội võ trang của Bủu Vinh đứng đón. Trước bến Tân phú là ngôi nhà gạch làm trụ sở liên lạc. Trong ngôi nhà có thắp một ngọn đèn dầu lửa sáng choang. Bửu Vinh cũng có mặt ngay bến Tân Phú để đón Đức Thầy.

Từ trên ghe bước lên, Bủu Vinh chào hỏi Đức Thầy rồi mời Đức Thầy đi thẳng vào ngôi nhà gạch trước bến. 4 vệ sĩ hộ vệ Đức Thầy liền tiến lên đi theo Đức Thầy.

Vừa thầy 4 vệ sĩ tiến tới bên Đức Thầy thì 8 tên cán bộ VM võ trang liền đi kèm theo 4 vệ sĩ của Đức Thầy. Như dã có kế họach sắp đặt trước, Bủu Vinh đi kèm sát Đức Thầy, còn 8 tên cán bộ VM võ trang kia thì cứ 2 người kèm 1 vệ sĩ đưa vào đền hiên nhà gạch là một tên cặp cổ vệ sĩ của Đức Thầy còn 1 tên rút dao găm đâm chí tử.

Hành động của bọn ác ôn sát nhơn VM đã làm cho anh Mười Tỷ một vệ sĩ rất giỏi võ nghệ phải đề phòng. Bởi vậy khi Mười Tỷ thấy tên cán bộ VM định ôm lấy anh cho tên kia đâm, anh Mười Tỷ liền dùng thế võ hất anh cho tên kia đâm rồi lòn ra sau. Tên cầm dao lao một lưỡi thật mạnh vào anh Mười Tỷ. Nào ngờ Mười Tỷ đã vọt ra sau khi tên cán bộ VM định ôm anh ra để lấy lưỡi dao bên kia.

Thế là tên VM định ôm anh Mười Ty bị đâm trúng mạng mỡ, hét lên một tiếng thê thảm. Anh Mười Tỷ vột chạy vụt ra bến, vừa chạy anh vừa quay lại nhìn coi Đức Thầy ở đây thì anh thấy Đức Thầy tiến đến thổi tắt ngọn đèn dầu lửa làm gian nhà tối đen như mực.

Một tràn Thompson bắn đuổi theo anh Mười Tỷ..!

XXX. Đạn lóe lửa sáng làm anh Mười Tỷ thấy bên trong phòng vắng tanh. Đức Thầy đã biến mất.

Mười Tỷ tránh được làn đạn vừa lúc anh nhào xuống bờ sông núp bắn trả lại.

Tiếng súng nổ ròn, đạn bay vèo tóe lửa bay vụt như những ngọn pháo bông bay ngang, bay dọc.

Lòng xót thương đau khổ, khi thấy ĐứcThầy lâm nạn mắc vào vòng vây của VM, khi thấy 3 người  vệ sĩ đồng đạo bị sát hại, anh Mười Tỷ, người chiến sĩ gan dạ của PGHH, của Đảng Dân Xã, nghiến răng, tay ghì súng bấm cò bắn vào chổ bọn VM đang bắn ra.

1 chọi 10, anh Mười Tỷ vẫn gan da chiến đấu, phục dưới bờ sông, nước lạnh thấm vào người, anh Mười Tỷ vẫn không chút sờn lòng.

Trên 200 viên đạn đã rời khỏi nòng súng, anh Mười Tỷ nghiến răng uất hận vì đạn đã hết mà thù của các bạn đồng đạo chưa trả được còn Đức Thầy thì chưa biết ra sao?

Người chiến sĩ kính Thầy, yêu đồng đội ấy vội hụp lặn ra xa để tránh lằn đạn. Cây súng vướng vào rễ cây, Mười Tỷ đành phải vứt cây súng xuống rạxh rồi lặn một hơi thật xa mới ngóc đầu lên thở.

Lấy hơi thứ 2, Mười Tỷ lại lặc một hơi nữa sang bên kia bờ rạch rồi bò lên bờ. Nước mắt trào ra lẫn với nước sông ngấm ướt từ đầu đến chân.

Vì lòng căm thù uất hận đến cao độ, anh Mười Tỷ không còn biết nhọc mệt chi nữa. anh Mười Tỷ chạy một mạch trở về Ba-răng để báo tin cho các đồng đạo biết tin chẳng lành là Đức Thầy đã bị bọn Bửu Vinh, Trần Văn Nguyên hãm hại, 3 vệ sĩ bị sát hại.

Anh Mười Tỷ chạy tới 4 giờ sáng ngày 16-4-47 tức 25 tháng 2 âm lịch mới về tới Ba-răng.

Điều đáng nói, đáng ghi nhứt là ông Trần Văn Sóai bị Đức Thầy buộc phải về miền Đông ở.

Tự nhiên thấy lòng nóng như lửa đốt, tim hồi hộp, ông Trần Văn Sóai có linh tình như có chuyện chẳng lành đã xảy ra. Nhưng lịnh Đức Thầy đã ra là phải ở Miền Đông Nam bộ, ông Sóai không thể rời bỏ đi nơi khác được.

Suốt mấy ngày liền, ông Sóai khổ sở từng ngóng tin ở miền Tây nhưng rồi đến sáng ngày 16-4-47, ông Sóai không còn có thể chịu đựng được nổi sự xốn xang, lo sợ cho tình hình ở khu Thánh địa nữa, ông đành phải vọng bái Đức Thầy xong trở về miền Tây.

Ông Sóai lên đường lúc 4 giờ sáng ngày 16-4-47, từ giã bộ tư lịnh bộ đội An Điềm, ông Sóai đi suốt ngày đêm, lòng chỉ mong sao cho mau về đến Ba-răng.

Ông Hai Ngóan Lâm Thành Nguyên ở Rạch Giá cũng như Ba Cụt Lê Quang Vinh ờ Long Kiến cũng cùng một tâm trạng như ông Sóai. Lệnh của Đức Thầy gọi về nhưng vì quân cơ không về kịp mà lòng người nào cũng hốt hỏang lo ngại.

Không hẹn mà gặp, sáng sớm ngày 17-4-47 tức là ngày 26-2 âm lịch, ông Trần Văn Sóai vừa về đến Ba-răng thì ông Lâm Thành Nguyên, Ba Cụt Lê Quang Vinh cũng vừa đến Ba-răng.

Tin anh Mười Tỷ, vệ sĩ của Đức Thầy vừa thóat nạn về báo cáo cho mọi người biết tin Đức Thầy đã lâm nạn vì âm mưu đê hèn của Bủu Vinh Trần Văn Nguyên, và 3 vệ sĩ đồng đạo bị VM sát hại.

Mọi người đều nghẹn ngào ứa lệ khi nghe tin Đức Thầy bị hãm hại. Các vị chủ huy quân binh Dân Xã đều nhứt lọat định kéo binh về Tân Phú quyết một trận sống mái với Bửu Vinh để cứu Đức Thầy thì có liên lạc đưa về 1 lá thơ của Đức Thầy gởi về nguyên văn sau đây:

Ông Trần Văn Sóai và ông Nguyễn Giác Ngộ,

Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu vinh bỗng có sứ biến cố xảy ra, tôi và ông Vinh súyt chết, chưa rõ nguyên nhân còn điều tra; trong mấy anh em phòng vệ không biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng tin và đừng náo động.

Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ.

Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bủu Vinh điều tra kỹ lưỡng rồi về sau.

Phải triệt để tuân lịnh

Ngày 16-4-47; 9 giờ 15 đêm.

Ký tên: S.

Đọc lá thơ của Đức Thầy gởi về mọi người đều sửng sốt. Quả là nét chữ và chữ ký của Đức Thầy rồi. Nhưng  lạ thay ! Khi ĐứcThầy ra đi ông Trần Văn Sóai chưa về.

Ông Sóai vừa mới về đến sau khi anh Mười Tỷ chạy về đến Ba-răng báo tin thì làm sao Đức Thầy lại biết ông Sóai đã về để gởi thơ cho ông Sóai và ông Nguyễn Giác Ngộ biết buộc ông Sóai và ông Nguyễn Giác Ngộ phải án binh bất động, không được đưa quân đi cứu, không được nghe tin đồn nhảm về việc Đức Thầy bị sát hại ?

Nhưng dù Đức Thầy có gởi thơ về căn dặn như thế, các đệ tử của Đức thầy cũng không làm sao mà yên tâm được khi nghe anh Mười Tỷ, nạn nhân duy nhứt thóat chết về thuật lại thì chính Bủu Vinh đã âm mưu hãm hại Đức Thầy.

Mọi người đều nóng lòng sốt ruột đứng ngồi không yên. Ba chỉ huy quân sự liền họp lại để thào luận kế họach. Ba Cụt Lê Quang Vinh nóng lòng đòi đưa ngay quân đến chổ VM phục kích sát hại Đức Thầy.

Lúc này các đệ tử mới nhớ lại, ngày thường Đức Thầy thường căn dặn rằng: Thầy sẽ phải rời xa các đệ tử một thời gian chưa biết bao lâu, tùy theo thời cuộc. Rồi sau này Đức Thầy sẽ trở về với các đệ tử.

Đức Thầy xa cách các đệ tử của Ngài cho đến nay đã được 16 năm tròn rồi. Ngày Đức Thầy ra đi sắp đến ngày 25 tháng 2 âm lịch, ngày mà 2 triệu tìn đồ HH vẫn còn ghi trong tâm khảm một mối thù bất cộng đái thiên với CS.

Hàng năm cứ đến ngày 25 tháng 2 âm lịch, 2 triệu tìn đồ HH tự nguyện tự giác vọng về Thánh Địa, nghĩ đến Đức Thầy, nêu cao mối căm thù với VM, bọn đã âm mưu hãm hại Đức Thầy để cầu mong với Phật Trời thiên địa xin Đức Thầy trở về với các tín đồ, gìn giữ mối giềng của Đạo.

UB quân sự họp cùng với các vị chức sắc bàn về việc Đức Thầy lâm nạn để  tìm ra giải pháp để coi Đức Thầy hiện nay ở đâu.

Mọi ngừơi đều tin tưởng rằng Đức Thầy không thể bị VM bắt được nhứt là khi Đức Thầy lánh mình vào trong ngôi nhà dùng nơi liên lạc, Đức Thầy liền thổi tắt ngay ngọn đèn dầu lửa đặt trên bàn làm chính Bửu Vinh cũng lúng túng không tìm ra Đức Thầy lúc bấy giờ nữa.

Chẳng lẽ tin như thế rồi không làm gì cả, ngồi khoanh tay chờ đợi chăng !

Mọi người bàn cho liên lạc thay hình, đổi dạng về Tân Phú dò xét coi tình hình ra sao ? Bộ đội của VM còn đóng ở đấy không ? Một mặt vẫn chuẩn bị sẵn sàng quân đội hễ nghe tin Đức Thầy ở đâu là ập đến giải nguy ngay.

Chiều hôm ấy, liên lạc trở về cho biết, anh ta đã đến tận nơi, bọn Bửu Vinh đã bỏ đi hết cả rồi. khu này không còn 1 người nào hết. Tất cả đều vắng lạnh. Ngồi nhà làm nơi liên lạc để Đức Thầy đến hội nghị thì vết đạn bắn nhau còn in trên những bức tường. Quanh đó, trên những vách tường, máu me tung tóe chứng tỏ nơi đây vừa xảy ra một cuộc ác chiến.

Mọi người đều rơi lụy vì không ai hiều Đức Thầy hiện nay ở đâu ? Đức Thầy đã thóat khỏi vòng vây của bọn CS hay chưa ?

Tin Đức Thầy thọ nạn lan đi rất mau và lòng mọi người đều sôi lên một mối căm thù đối với bọ vô thần VC.

UB quân sự của Dân Xã đảng và các vị chức sắc trong đạo liền cho người đi tìm khắp các nơi để dò thăm coi Đức Thầy hiện nay ở đâu ?

Nhưng kể từ sau ngày 16-4-47 tức là ngày 25-2 âm lịch, không còn ai biết chắc chắn Đức Thầy ở đâu nữa.

XXXII. Thật ra từ 1945 đã hơn mấy lần, VM mưu hại Đức Thầy dùng súng máy ám sát, hoặc  bất ngờ võ trang đến vây bắt Đức Thầy. Lần nào cũng như lần nào, Đức thầy đều ở trong tình trạng thập phần tử nhứt phần sinh cả. VM đinh ninh rằng thế nào cũng sát hại được Đức Thầy, thế mà Đức thầy đã vượt qua được một cách rất lạ thường…

Một lần tại đường Miche, Đức Thầy vừa ở trụ sở UBND Nam bộ về thì một tên công an xung phong của VM dùng tiểu liên hạ sát Đức Thầy. Súng nổ nhưng không một viên đạn nào phạm đến Đức Thầy.

Một lần khác, một cán bộ VM được lịnh Trần Văn Giàu rình mưu sát Đức Thầy, ngày 12-8-1946 tên cán bộ này gặp Đức Thầy ở Hóc Môn, hắn định dùng súng sáu sát hại Đức Thầy nhưng vì có anh Mười Phiệt đi theo hầu Đức Thầy, hắn chưa dám ra tay hành động. Hắn vờ ngồi uống cà phê thì Đức Thầy đi lại ngồi bên hắn hỏi:

–        Em năm nay bao nhiêu tuổi ? Đinh Mão phải không  Em mới 20 tuổi đã dùng súng, nhận lịnh đi giết người thì trách sao về sau chẳng mang tội !

Nói đến đây Đức Thầy ngừng lại. Tên cán bộ tay sai của Trần Văn Giàu tái mặt, sờ tay vào bụng định rút súng ra thì Đức Thầy đã mỉm cười nói:

–        Qua đã biết âm đức nhà em rất dày nên em tránh được tai họa về sau.

Em rút súng ra coi lại đạn thì em rõ. Súng của em có đạn đâu mà em bắn ? Số đạn vộ em đã lấy ra cất dưới gối em nằm. qua thương em còn trẻ, chớ em rút súng ra bắn qua thì anh em kháng chiến ở đây bắn em chết mất, em có biết không ?

Tên này run sợ, ức lệ nghẹn ngào. Hắn cảm động vì lòng nhân từ của Đức Thầy đã lấy ân là cứu sống hắn. Thật vậy, nếu Đức Thầy không thương hắn báo cho biết là súng của hắn không có đạn, mà hắn rút sùng ra bắn Đức Thầy theo lệnh của tên ác ôn Trần Văn Giàu thì hắn chết rồi. Hắn rút súng ra coi quả nhiên không có đạn ! hắn vội cúi đầu xuống lạy tạ ơn Đức Thầy.

Những việc đã qua làm cho tín đồ PGHH tin tưởng rằng Đức Thầy không thể nào bị bọn VM sát hại được. Đức Thầy vắng mặt vì bọn bá đạo hòanh hành lúc vận nước gặp hồi tao lọan.

Các tín đồ nóng lòng trông đợi tin Đức Thầy sau khi tiếp được thủ thơ của Đức Thầy gởi về. Như mấy ngày hôm sau vẫn bặt vô âm tín. Những nhân viên tình báo gián điệp, những người có công dò xét tin tức của Đức Thầy trở về không thu lượm được một tin chi thêm cả.

Ngày thừ ba các tìn đồ được tin do VM loan ra rằng : sau khi Bửu Vinh bắt được Đức Thầy rồi, chúng đã đưa Đức Thầy ra hành hình, chặt làm 3 đọan, thả trôi sông một nơi cách Tân Phú 14 cây số.

ĐỨC THẦY CÒN SỐNG ?

XXXIII. VM đưa tin sát hại Đức Thầy chặt hình hài của Đức Hùynh Giáo Chủ làm 3 đoạn thả xuống sông là cốt khủng bố tinh thần các tín đồ, làm giảm bớt lòng tin tưởng của các tín đồ đối với Đức Thầy.

Nhưng bọn vô thần CS đã lầm: ý thức duy vật của CS không làm sao lay chuyển được lòng tin tưởng vô biên của 2 triệu tín đồ HH đối với ĐGC Hùynh Phú Sổ. Đạo đức Cách mạng, Nhân Hòa, Bác ái của Đức THầy trong mấy chục năm trời hành đạo đã bao trùm khắp nông thôn miền Tây, tin VM giết Đức Thầy chỉ làm cho mọi người đều căm thù, óan ghét bọn khát máu CS hơn.

Nay đã gần đến ngày kỷ niện đệ thập thất chu niên ngày Đức Thầy lâm nạn, do âm mưu của CS, chúng tôi kẻ viết bài này, trong suốt 15 năm trời theo dõi, điều tra, sưu tầm về những họat động của Đức Thầy trước ngày cũng như sau ngày Đức Thầy vắng mặt, xin thuật lại với bạn độc 2 nguồn tin chúng tôi dò hỏi được nhân dịp gần gũi với những người trước kia có tham gia kháng chiến, đã lầm lỡ nghe lờ dụ dỗ của CS đã kể lại hành trình của Đức Thầy khi Đức Thầy bị CS hãm hại.

Từ ngày Đức Thầy xa Thánh Địa, xa các tín đồ thân yêu, bọn CS tìm đủ cách phao tin là Đức Thầy đã bị chúng giết rồi. Mỗi lần có tim Đức Thầy bị giết ở đâu là các tín đồ PGHH tìm đủ mọi cách đến nơi cho được để dò xét tin tức, nếu quả VM đã sát hại Đức Thầy thì họ sẽ đào đưa hình hài về Thánh Địa.

Lần VM phao đồn đã chặt Đức Thầy làm 3, các tín đồ cũng đến tận nơi thì được biết hôm trước bọn CS có giết 1 người đã trọng tuổi, chặt làm 3 khúc phơi xác ngòai đồng nên thân nhân của người này đã đến lấy xác đi chôn rồi.

Các tín đồ HH đã quyết tâm tìm cho ra manh mối coi Đức Thầy còn sống hay đã mất thì khi thu thập mọi nguồn tin, ngay cả những nguồn tin xuất phát từ CS đã chứng tỏ rằng Đức Thầy không hãm hại được Đức Thầy. Đức Thầy vẫn còn sống. Đức Thầy đã vắng mặt một thờI gian đứng như lời Đức Thầy hằng căn dặn các tín đồ trước ngày Đức Thầy bị VM bày độc kế hãm hại.

MỘT NGUỒN TIN ĐÁNG TIN CẬY:

ĐỨC THẦY CÒN SỐNG.

Cách đây 9 năm vào tháng 10-1955, thời gian nhân dân VNCH đi bỏ phiếu lật đổ chế độ quân chủ lỗi thời thiết lập chế độ Cộng Hòa hiện hữu.

Hồi bấy giờ, kẻ viết bài này được sống chung với một số chánh trị phạm trong nhà lao Gia Định.

Thường ngày sau bữa cơm chiều cánh cửa sắt vừa khép lại, những anh em tội nhân quây quần với nhau để kể lại những câu chuyện trong thời gian kháng Pháp. Nhân câu chuyện Trần Văn Giàu chủ tâm tiêu diệt những người quốc gia yêu nước không chịu gia nhập Đông Dương CS đảng, một người có nêu lên vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ bị Bửu Vinh và Trần văn Nguyên hãm hại ở Tân Phú thì có anh Hùynh Văn Đạt, người Sóc Trăng (Ba Xuyên) kể lại một câu chuyện Đức Thầy thóat khỏi ngục của VM như sau đây:

–        Vào khoàng trung tuần tháng 5-1947, anh Hùynh Văn Đạt làm trưởng cơ quan biệt động đội khu 9 thì có tin bộ tư lịnh khu 9 gởi lên 6 Việt gian nguy hiểm, để giam tại nhà giam riêng của biệt động đội.

Văn phòng biệt động đội khu 9 đóng tại một khu rừng trong vùng giáp biên giời Miên-Việt, cùng chung với tóan du kích người Miên do lãnh tụ CS Miên, Sơn Ngọc Minh làm lãnh tụ. Ở đây chỉ có chừng 20 nhà của người Miên rải rác trong khu vực rộng 3 cây số và 1 ngôi chùa Miên goi là Sóc Preng.

Theo thường lệ thì những tội nhân nào mà khu 9 hoặc khu 8 gởi lên đây là những người mà CS cần khai thác trước khi thủ tiêu.

Khi được tin có 6 tội nhân nguy hiểm gởi lên thì Lê Hà, tiểu đòan trưởng, biệt động đội liền gọi anh Hùynh Văn Đạt đến cho biết là cho gởi 1 trung đội đi đón 6 tội nhân ấy tại trạm liên lạc C.48. Là trạm liên lạc bí mật của tiểu đòan biệt động đội khu 9. Những người ngòai cơ quan chỉ được đến trạm C.48 mà thôi.

Sau khi anh Hùynh Văn Đạt ra lệnh cho 1 trung đội võ trang lên C.48 đón 6 tội nhân thì Lê Hà lại còn cho anh Đạt biết là phải gọi ngay tổng giám thị trại giam lên.

Anh đạt thấy Lê Hà có vẻ đặc biệt chú ý đến 6 tội nhân của khu 9 gửi lên lắm.

XXXIV. Lát sau Tư Tín, tổng giám thị trại giam của biệt động đội đến, Lê Hà cho gọi Tư Tín vô.

Vài phút sau Lê Hà cho gọi anh Hùynh Văn đạt vô, Lê Hà bảo với Đạt:

–        Cấp thêm cho đồng chí 40.000 đ nữa để đồng chí Tín lấy tiền chi phí cho đám tội nhân sắp đến.

Hùynh Văn đạt lấy làm lạ vì ít khi nào có việc cấp thêm tiền để phục vụ cho đám tội nhân, nhứt là đám tội nhân phải đưa lên Sóc Preng này là 10 phần chắc chết cả 10. Đưa lên Sóc Preng để Lê Hà khai thác xong là thủ tiêu luôn tội nhân. Bởi Vậy Tư Tín làm tổng giám thị trại giam mà không có nhà lao giam tù. Những tội nhân đưa lên Sóc Preng đều bị bịt mắt đưa vào nhà giam trong vựa thóc, trong buồng riêng hoặc trong chuồng trâu của tư gia. Mỗi nhà có thể nhờ giam 2 tội nhân có 2 công an thay phiên nhau canh gác.

Hùynh Văn Đạt vâng lịnh của Lê Hà đi lấy 40.000đ giao cho Tư Tín. Sự tò mò, thắc mắc, không biết tội nhân là ai mà khi giam lại phải chi thêm tiền mua thức ăn phụng sự cẩn thận trong khi các cán bộ cũng không được như vậy làm cho Hùynh Văn Đạt không còn giữ được 5 điều cấm lệnh là không được hỏi công tác của người khác.

–        Anh Tư ! Có biết tay nào mà lại được trọng đãi như thế đó không ?

Tư Tín nheo mắt cười, rồi ghé gần tai đạt nói:

–        Cậu Tư Hòa Hảo ! Cho ăn để khai thác và khai thác xong thì cho vô rừng .

Nhân dân miền Nam nghe đến Cậu Tư Hòa Hảo thì ai cũng biết là ông Đạo Khùng, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ rồi.

Nghe Tư Tín nói Cậu Tư Hòa Hảo sắp bị đưa về đây, Hùynh Văn đạt thấy lòng bồi hồi, lo sợ, chỉ mong sao cho được gặp mặt Đức Thầy để coi Đức Thầy là người như thế nào, mà anh chỉ văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình . Trước năm 1945, Đạt từng được nghe cha mẹ và mấy cô bác lối xóm kể lại những hành động cứu nhân độ thế của Đức Thầy đối với mọi người, nhứt là đối với đám nông dân hiền lành chất phác.

Đạt liền hỏi Tư Tín:

–        Mấy giờ giảu về đến đây ? Giam Cậu Tư ở đâu?

–        Độ 6 giờ tối thì về đến đây ! Định đưa về nhà ông Trần Sen, giam trong vựa lúa của ông ấy, giam ở đó chắc chắn vì ông Trần Sen chỉ có 2 vợ chồng, còn các con đều tham gia đòan thể thóat ly theo bộ đội cả.

–        Không biết cậu ấy người như thế nào mà trước kia tôi nghe người ta đồn hòai về ông Đạo Khùng, Cậu Tư Hòa Hảo hậu thân của Đức Thầy Tây An. Lát nữa tôi đến coi mặt cậu Tư đó anh Tư nghen ?

–        Ừ chút nữa lại, nhưng giữ kín đừng cho ai biết đó nghen ! Lộ ra ngòai cho dân chúng biết là họ kéo đến coi đông thì lộ hết.

Rồi Tư Tín ra hiệu hăm dọa:

–        Lộ hình tung cậu Tư là đi Đề lao binh đó nghen bồ !

Hùynh Văn Đạt mỉm cười gật đầu.

Tư Tín lấy bút viết tờ biên nhận 40.000đ để lãnh tiền của Đạt giao.

Vào khỏang 7 giờ tối, sau khi ăn cơm xong, Hùynh Văn Đạt vừa thắp đèn lên để làm việc thì Tư Tín đến. Tư Tín báo với Đạt:

–        Lạ quá hình như ông Trần Sen biết là có Đức Thầy Hòa Hảo giam ở nhà ổng nên ổng thu xếp quét dọn nhà cửa sạch sẽ lắm. Tối nay ở nhà ổng lại có ông Lục Thạch Khum đến làm lễ cúng Phật nữa.

Hùynh Văn Đạt lo ngại sợ Tư Tín nghi Đạt thông tin cho ông bà Trần Sen biết là có Đức Thầy đưa đến nhà ông ta giam nhờ nên Đạt phải phân chứng ngay:

–        Tôi ở cơ quan cho đến bây giờ chưa đi đâu hết! Vừa ăn cơm xong lại định thắp đèn đánh báo cáo cho bộ tư lệnh.

Tư Tín cười nói:

–        Có ai dám ngờ anh đâu mà anh phải phản chứng. Nghe người ta nói, thì có chuyện rất lạ, dị đoan khó mà tin cho được.

XXXV. Tư tín ngồi xuống cạnh Hùynh văn Đạt và nói nhỏ:

–        Theo Tám Gồng thuật lại thì khi anh đến nhà ông Trần Sen mượn cái vựa lúa để giam tội.

Anh vô thình lình nên ông Trần Sen nói chuyện với ông Lục Thạch Khum về Đức thầy Hòa Hảo Hùynh Giáo Chủ. Anh Tám Gồng liền dừng lại đứng lắng nghe bên vách và ghé mắt nhìn thấy ông Trần Sen nói với ông Lục thạch Khum với giọng thành kính:

–        Dạ thưa Lục, tôi rất lạ về giắc mơ tối qua nên mới thỉ Lục lại để hỏi ý kiến thì nay Lục lại kể câu chuyện cũng giống như tôi kể. Thật ra lạ quá chừng !

Ông Lục Thạch Khum nghiêm nghị nói:

–        Chuyện này rất lạ, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa…

Nói rồi ông Lục Thạch Khum nhìn ra ngòai sân, ngắm ánh sáng giọt tranh xế ra đến cây xòai tượng mà nói:

–        Bây giờ đến 5 giờ chiều rồi, mà chưa thấy ai đến cả, có lẽ đây là một giấc mơ thường mà thôi.

Ông Trần sen quả quyết:

–        Rõ ràng, tôi thấy 3 người đàn ông tóc để dài tới vai, mang mỗi người một khẩu súng vỗ vai tôi nói:

–        Hôm nay có Đức Thầy của chúng tôi đến đây phiền ông chỗ nghĩ ngơi !

Tôi quay lại hỏi:

–        Đức Thầy các ông là ai ? Sao lại đến đây, nơi bộ đội của VM đang đóng ?

Một trong 3 người nói:

–        Đức Thầy Hùynh Phú Sổ sẽ đến đây.

Nói rồi tôi giựt mình tỉnh dậy thì trời còn tối, tiếng gà đang gáy.

–        Lúc nãy tôi nghe Lục kể lại giấc mơ cũng giống hệt giấc mơ của tôi.

Ông Lục Thạch Khum cẩn thận hỏi lại:

–        Ông còn nhớ người trả lời Đức Thầy Hùynh Phú Sổ sẽ đến đây dáng người ra sao ?

–        Tôi nhớ rõ người ấy có một vết thẹo trên trán.

Ông Lục Thạch Khum vỗ đùi giật mình:

–        Đúng rồi ! Chính người có cái thẹo trên trán ! Lạ thật, giấc mơ này rất kỳ lạ.

Đứng nghe rõ ràng câu chuyện, sau đó một lúc Tám Gồng vô nhà, nói lại với ông Trần Sen để mượn nhờ vựa lúa để giam tội.

Vừa nghe Tám Gồng hỏi nhờ vựa lúa, ông Trần Sen và ông Lục Thạch Khum nhìn nhau ngạc nhiên nhưng đầy tin tưởng.

Tám Gồng trở về thuật lại cho Hùynh Văn Đạt hay câu chuyện giữa ông Trần Sen và ông Lục Thạch Khum.

Hùynh Văn đạt nói:

–        Những câu chuyện lạ kỳ như chuyện Trần Sen vừa thấy đó về Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, hồi tôi đi học vẫn thường nghe ba con lối xóm nói.

Tư Tín cười:

–        Chẳng qua dân mình tin dị đoan, mê tín nên mới có những chuyện tưởng tượng mạnh như thế đó !

Tuy không đồng ý với Tư Tín về lối luận Duy Vật như thế nhưng Hùynh Văn Đạt vẫn không dám phản đối. Đạt hỏi sang chuyện khác:

–        Đã giải tội về chưa ?

–        Vừa về ! Tôi đang cho tập trung ở ngòai đồng ông Tám để lát nữa trời tối bịt mắt đưa vào nhà.

–        Tôi đi với anh coi mặt Cậu Tư, anh Tư nghen !

–        Ừ thì đi !

Đạt thu xếp hồ sơ rồi theo Tư Tín ra đồng ống Tám coi mặt Đức Thầy Hùynh Phú Sổ.

XXXVI. Đạt theo Tư Tìn ra đồng ông Tám, 1 trung đội lính của VM giải 6 tội nhân về Sóc Preng đứng gác rãi rác cách nhau chừng 20 thước 1 người. Sáu tội nhận bị trói thúc ké ngồi chụm lại với nhau.

Trời đã tối, gió đồng nội lộng thổi, tiếng dế trùng rền rĩ pha lẫn với tiếng nhái kêu tạo thành một bản đàn sầu muộn, 6 người ủ rủ ngồi bên nhau. Tư Tín bấm Hùynh Văn Đạt chỉ một người trạc ngòai 30 tuổi, tóc dài phủ gáy, người mảnh khảnh, ngồi xếp chân bàn tròn, mắt nhắm như người định thần, mà nói:

–        Đó ! Cậu Tư Hòa Hảo.

Trời tối đen không nhìn rõ mặt Cậu Tư nhưng không hiểu vì sao lòng Đạt luôn luôn nghĩ đến cậu Tư Hòa Hảo.

Đúng 8 giờ rưỡi, Tư Tín hạ lệnh bịt mắt từng người rồi đưa vào Sóc Preng. Cậu Tư Hòa Hảo được lính biệt động dắt về trụ sở liên lạc của Tư Tín giao cho Tám Gồng đưa về nhà ông Trần Sen.

Mắt Đức Thầy vẫn bịt kín nên Tám Gồng phải đi bên Đức Thầy, khoác tay dắt Đức Thầy đi như 2 người đi chơi, chớ không phải là một thầy chú dắt tội.

Đến nhà ông Trần sen, Tám Gồng đưa Đức Thầy theo cửa sau vô nhà chứa thóc. Trong nhà đã quét dọn sạch sẽ. Ông Trần Sen đã có 1 ghế bố cho Đức Thầy nằm. Khác với những tội nhân trước kia cũng bị giam trong nhà chứa thóc này, không có gối phải nằm dưới sân tráng xi măng còn Đức Thầy thì đầy đủ tiện nghi gối , nước uống.

Vì đã biết ông Trần Sen nằm mơ có người báo mộng cho biết Đức Thầy sẽ bị giam trong nhà nên Tám Gồng cũng để mặc cho ông  Trần sen hầu hạ Đức Thầy.

Tư Tìn để Tám Gồng ở lại nhà ông Trần Sen để trông coi Đức Thầy Hùynh Phú Sổ. Vào hồi 10 giờ tối, ông Trần Sen làm thịt một con gà, rượu đế lên cúng xong hạ xuống mời Tám Gồng ăn nhậu.

Trong bưng ăn uống rất đói khổ. Thường là phải ăn cơm với cá khô hoặc muối vừng, ít khi có thịt cá. Còn thịt gà thì là “ưu điểm”. Bởi vậy hôm nay ông Trần Sen đưa thịt gà, rượu đế lên cùng xong hạ xuống mời Tám Gồng ăn nhậu.

Trong thấy thịt gà luộc vàng bóng vì mập thơm phưng phức đưa lên bàn thờ cúng, Tám Gồng đã thèm chảy nước miếng ra rồi. Tám Gồng chỉ còn chờ ông Trần Sen mời là anh ta nhào vô ăn uống ngay.

Cúng xong, ông Trần Sen trịnh trọng mời Tám Gồng:

–        Tối nay tôi cúng gia tiên, gọi là chút lộc mời đồng chí cùng chúng tôi vui chung.

Tám gồng nhận lời và nhậu rượu đế với thịt gà cho đến gần 12 giờ đên tàn cuộc. Ăn uống xong thì Tư Tín đi ngang nhà nhìn vô thấy Tám Gồng vẫn còn thức. Tư Tín sung sướng cho rằng Tám Gồng là cán bộ tốt, làm tròn nhiệm vụ, chớ rõ đâu Tám Gồng đang say rồi.

Một lúc sau là Tám Gồng đã vùi đầu ngủ say.

Giữa lúc ấy, ông Trần Sen mới cho ngưới gác ở ngòai rồi ổng đích thân mang thức ăn, cơm vào dân Đức Thầy. Với cử chỉ rất trịnh trọng, thành thực, ông Trần Sen thuật lại cho Đức Thầy nghe giấc mộng đêm trước ông vừa thấy có 3 người mang súng vào nhà ông báo tin Đức Thầy về ở.

Ông Trần Sen trình với Đức Thầy bằng giọng thành thật chí tình. Ông Thỉnh Đức Thầy dùng cơm của ông dâng. Trong phòng để lúc, ông Trần Sen không dám thắp đèn sợ bôn cán bộ VM thấy. Ông nói chuyện với Đức Thầy rất nhỏ vì ông sợn bọn lính trong nghe.

Ông Trần Sen xin được mở khăn bịt mắt Đức Thầy mà bọn VM đã bịt chặt từ khi đưa Đức Thầy từ đồng ông Tám về nhà ông Trần Sen.

XXXVII. Tám Gồng nằm ngủ say sưa, không còn biết trời đất gì nữa cho đến trời gần sáng mới giựt mình thức dậy thấy trong nhà vẫn còn yên ngủ. Tám Gồng lại nằm ngủ thêm một giấc nữa cho đến 6 giờ sáng mới dậy ra sân rửa mặt.

Hắn vào nhà kiếm nước trà uống không thấy ông Trần Sen đâu. Hắn tưởng ông Trần Sen có việc phải đi vắng. Tám Gồng vẫn đinh ninh tội nhân mà hắn canh giữ vẫn còn nằm trong căn buồng để lúa.

Đến 7 giờ 30, Tư Tín cho Sáu Chương đến thay cho Tám Gồng. Tám Gồng phải giao tội nhân lại cho Sáu Chương:

–        Ê có bộ trong buồng đó nghen !

Sáu Chương cũng đinh ninh như Tám Gồng nên hắn gật đầu:

–        Trong đó có 1 trự thôi chứ ?

Tám Gồng vui vẻ nói:

–        Chẳng lẻ tính thêm anh nữa à.

Sáu Chương hay tin dị đoan. Nghe Tám Gồng nói gở những câu quái dị như thế, Sáu Chương có ý không bằng lòng:

–        Bậy ! Đừng nói bậy. Nếu anh thích thì tính thêm anh vô chớ tôi xin miễn cho !

Tám Gồng cười khanh khách nói:

–        Mất ông này thì anh phải thế để đi đề lao binh chứ còn gì nữa!

Khi Tám Gồng ra về thì Sáu Chương bước vào buồng chứa lúa. Nhìn chẳng thấy bóng dáng người nào cả, Sáu Chương hốt hỏang chạy ra gọi Tám Gồng. Thấy Tám Gồng đi đã xa, Sáu Chương liền chạy theo gọi:

–        Anh Tám! Anh Tám! Quay lại gấp ! Mau đi !

Tám Gồng nghe tiếng Sáu Chương liền quay lại hỏi:

–        Chuyện chi mà chạy, kêu la dữ vậy ?

Sáu Chương chạy lại gần Tám gồng nói nhỏ:

–        Tội nhân đâu ? Chơi chi mà lạ vậy bồ ! Hổng có một người nào hết, bồ định trác tôi làm chi tội nghiệp !

Tám Gồng cau mặt hỏi:

–        Anh Sáu nói gì lạ cậy? tội ờ torng buồng chứa lúa của ông Năm Sen đó !

–        Đâu có ! Không có một ma nào hết !

Tám Gồng tái mặt, nhưng anh ta vẫn còn n gờ Sáu Chương trác nên nói với Sáu Chương:

–        Thôi mà ! Bồ đứng có oiỡn cái lối đó nghen ! Tội trong buông lúa đó. Tôi trói cẩn thận lại bịt mắt thì có trốn đằng trời.

Sáu Chương nghiêm nghị:

–        Tôi nói thật mà ! Mất tội rồi ! Tôi vô coi chẳng thấy ai hết. Anh trở lại mà coi.

Thấy Sáu Chương nói một cách đứng đắn, Tám Gồng mới run sợ, quay lại nhà ông Năm Sen.

Tám Gồng và Sáu Chương vào trong buồng để lúa, Tám Gồng thấy chiếc khăn bịt mặt, mẫu dây thừng. Còn Đức thầy chẳng thấy đâu ?

Lúc này Tám Gồng run lên. Viễn ảnh tù tội đã hiện ra trước mắt Tám Gồng. Tám Gồng muốn chối cho nhẹ tội đã để Đức Thầy thóat được:

Rõ ràng 4g sáng tôi vừa thấy ông ta nằm ở đây, lẽ nào lại đi nhanh thế này? Chết rồi, ông này mà đi mất thì mình chết.

Sáu Chương sợ vạ lây cũng phân bua:

–        Tôi vô đã không thấy  tội nhân đâu, tôi mới chạy đi gọi đồng chí lại.

Tám Gồng im lặng. Sáu Chương báo với Tám Gồng:

–        Bây giờ tôi và đồng chí phải về báo cáo anh Tư biết để nhờ anh Tư giải quyết hộ.

Tám Gồng và Sáu Chương về trụ sở tổng giám thị lao xá, trại giam của biệt động đội ở vùng ven biên giới Miên Việt để gặp tổng giám thị Tư Tín.

Cái tin sét đánh làm Tư Tín tái mặt là khi Tám Gồng vừa khóc, vừa báo cáo Đức Thầy đã trốn rồi.

XXXVIII. Tám Gồng và cả Sáu Chương cùng bị tống giam để điều tra.

Tin Đức Thầy Hùynh Phú Sổ trốn khỏi nhà ông Trần Sen làm mọi người đều ngẩn ngơ. Lê Hà, tiểu đòan trưởng biệt động đội lồng lộn, tức giận và đích thân điều tra và báo cáo nội vụ cho bộ tư lịnh khu 9 biết.

Khi hỏi cung Tám Gồng và Sáu Chương, Lê Hà cho rằng Tám Gồng đã nhận hối lộ của ông Trần Sen nên để cho ông Trần Sen đưa Đức Thầy đi trốn. Lê Hà tra tấn Tám Gồng sống đi, chết lại nhiều lần. Lê Hà còn cho biệt động đội, nửa đêm vào chùa Miên trong Sóc Preng bắt ông Lục Thạch khum đưa về trụ sở tra tấn.

Cuối cùng cả Tám Gồng lẫn ông Lục Thạch Khum bị đưa đi an trí ở đề lao binh Đồng Tháp Mười và cả 2 đều chết trong ngục thất của VM.

Anh Hùynh Văn Đạt là trưởng văn phòng tiểu đòan biệt động đội VM đóng ờ Sóc Preng nên những công văn, phúc trình về vụ ông Trần Sen một đồng bào Việt gốc Miên cứu Đức Thầy và đưa Đức Thầy đi trốn do anh thảo. Bởi vậy anh Hùynh Văn Đạt được đọc hết những tài liệu, những khẩu cung của Tám Gồng, Sáu Chương, Tư tín và ông Lục Thạch khum.

Trong những bản cung khai chỉ có lời khai của ông Lục Thạch Khum là đáng chú ý nhứt. Chúng tôi xin thuật lại đúng với lời thuật của anh Hùynh Văn Đạt một nhơn chứng đã từng được đọc đi đọc lại nhiều lần bản cung của ông Lục Thạch Khum.

Như các bạn biết ông Lục Thạch Khum là ông Lục cả tại chùa sóc Preng. Vốn là người hiền từ chất phác, ông Lục Thach khum chỉ biết tu niệm, cầu mong cho mau thóat vòng Sinh, Lụy, Tử.

Từ ngày có bộ đội VM về đóng tại đây, chúng gây nhiều trở ngại cho việc nhân dân đến chùa cúng vái, chúng lại còn bài xích tôn giáo, cho việc đi lễ chùa là mê tín, coi các ông Lục, Thầy Chùa là người lưu manh dối thế. Nhưng người Việt cũng như Miên là người tôn sùng đạo Phật, nhứt là người Miên coi đạo Phật là Quốc giáo nên CS chẳng làm sao cho người Việt hay Miên xa đạo được.

Một đêm sau trận mưa lớn trời trở lạnh, ông Lục Thạch Khum lễ Phật xong và mấy ông sãi đóng cửa chùa nên tất cả đều đi nghỉ. Mọi người an giấc điệp chỉ có một mình ông Lục Thạch Khum tuổi già trằn trọc mãi.

Đồng hồ đã điểm 2 giờ sáng, ông Lục thạch Khum mới nhắm mắt được vài phút bỗng có tiếng động ngòai cửa. Tiềm thức ông Lục Thạch khum bào Lục nên ngồi dậy xem coi nhưng không hiểu vì sao, đôi mắt ông không mở được và ông cũng không cựa quậy được. Ông Lục vẫn tỉnh táo nên ông nghe rõ có tiếng chân người đi vô. Ông Lục mơ màng thấy 3 người đàn ông có mang súng đi thẳng đến ông Lục lễ phép chào hỏi. Ông Lục nhìn  kỷ thì đúng 3 người này rất lạ, không phải là những người lính thường đóng ở Sóc Preng.

Ông Lục Thạch Khum bèn hỏi:

–        Các Thầy vô chùa có việc chi ?

Một người trạc độ 26 tuổi, dáng cao lớn, tóc cắt ngắn, lễ phép thưa với ông Lục Thạch Khum:

–        Dạ, bẩm Lục cả, chúng tôi là những người theo hầu Đức Thầy của chúng tôi, đến trình với Lục Cả một việc.

Ông Lục Thạch Khum liền hỏi:

–        Đức Thầy của các anh là ai ?

–        Đức Giáo Chủ của PGHH.

Nghe đến đây ônng Lục Thạch Khum giựt mình, trống ngực ông đập mạnh, ông nhớ như đã có nghe ai nói nhiều lần đến Đức Thầy Giáo Chủ Hòa Hảo. Người đó nói tiếp:

–        Ngày mai, Thầy chúng tôi sẽ đến đây và ở tại nhà ông Năm Sen.

Ông Lục Thạch Khum hỏi:

–        Các ông đã gặp ông Năm chưa?

–        Dạ rồi ! Ông Năm đã biết việc Đức thầy chúng tôi sẽ đến nhưng muốn để ông Năm tin tưởng, chúng tôi xin vô lễ Phật để báo Lục Cả hay, nhờ Lục cả nói hộ với ông Năm.

Người này vừa nói đến đây thì bỗng nhiên bên ngoài có tiếng súng nổ là ông Lục Thạch Khum vùng trờ dậy. Ông mở mắt nhìn chẳng thấy một ai. Trên bàn thờ Phật, ngọn đèn vẫn cháy… Ông Lục bèn thức dậy niệm Phật một lúc lâu rồi mới đi nghỉ.

Sau khi ông Lục Thạch Khum qua  bên nhà ông Trần Sen sẽ được ông Trần Sen nói trước giấc mơ vừa qua.

XXXIX. Sáng hôm sau ông Lục Thạch Khum đến nhà ông Trần Sen thì quả nhiên ông Trần Sen chạy ra mời ông Lục Thạch Khum vô nói rằng:

–        Dạ thưa Lục, tôi định đến thưa với Lục một việc rất lạ kỳ.

Thế rồi Ông Năm Sen kể lại cho ông Lục Thạch Khum nghe giấc mơ đêm qua. Ông Năm Sen cũng kể y như giấc mơ của ông Lục Thạch khum. Ông Lục Thạch Khum đang bàn với ông Năm Sen chờ coi giấc mộng có linh ứng không ?

Trong khi đang bàn thì Tám Gồng đến xin mượn vựa lúa làm nơi giam tội nhân. Lúa ấy ông Năm Sen lại càng tin là giấc mơ sẽ linh ứng.

Vào khỏang 9 giờ tối hôm Tám Gồng đưa Đức Thầy đến, ông Năm Sen có chạy đến chùa ông Lục Thạch Khum cho hay là có Đức Thầy Hòa Hảo bị VM bắt giam trong nhà vựa lúc của ông.

Ông Thạch Khum liền bày ra việc làm thịt gà, mua rượu đế cho Tám Gồng nhậu say rồi ông Lục thạch Khum sế đến gặp Đức Thầy.

Ông Năm Sen làm theo kế của ông Lục Thạch Khum và Tám Gồng nhậu say lăn ra ngủ. Ông Lục Thạch Khum đến, đi cửa sau vào nhà vựa lúc giữa lúc Đức Thầy đang ngồi nói chuyện, ông Năm Sen đứng vòng tay hầu. Vừa trông thấy Đức Thầy, ông Lục Thạch Khum liền phục quỳ xuống vái Đức Thầy, Đức Thầy vội đỡ ông Lục Thạch Khum.

Tuy là lần thứ nhứt được diện kiến Đức Thầy, Lục Thạch Khum cũng như ông Trần Sen hết sức lễ phép, cung kính. Đức Thầy kể lại cho ông Lục Thạch Khum và ông Trần Sen nghe vụ VM âm mưu hãm hại Đức Thầy.

Là những người từng chứng kiến VM thủ tiêu những nhà chính trị quốc gia, không chịu khuất phục theo CS, ông Lục Thạch Khum và ông Trần Sen đều hết sức lo ngại cho tính mạng Đức Thầy. Ông Trần Sen thưa với Đức Thầy rằng:

–        Kính thưa Đức thầy. Chúng con ở đây đã từng chứng kiến nhiều vụ thảm sát khủng khiếp. Hàng trăm người bị VM bắt đưa đến đây hòi han tra tấn. Không ngày nào là dân ở Sóc Preng này không nghe tiếng người la khóc, rên rỉ vì không chịu được những đòn tra tấn dã man.

Họ tra tấn lấy khẩu cung xong là đem nạn nhân đi thủ tiêu. Không có người nào ở đây được trọn 1 tháng. Giỏi lắm sau 15 ngày là bị chúng hạ sát. Thường đêm chúng dẫn tội nhân vượt sang bên kia biên giới rồi đâm chết vứt xuống những lỗ đã đào sẵn.

Chúng con lo sợ bọn chúng sẽ hãm hại Đức Thầy.

Nói đến đây cả ông Lục Thạch Khum lẫn ông Trần Sen đều ứa lệ. Đức Thầy im lặng suy nghĩ.

Bỗng ông Trần Sen đề nghị:

–        Nay nhân lúc bọn VM không để ý, con xin đưa Đức Thầy đi lánh nạn. Ở đây, đi khỏi con rạch, sang bên kia là địa phận của xứ Cao Miên rồi.

Đức Thầy liền hỏi ông Trần Sen:

–        Tôi trốn thì yên thân tôi rồi, gia đình ông phải liên lụy, tôi không an tâm.

Câu nói nhân nghĩa, hậu tình của Đức Thầy làm ông Năm Sen và lông Lục Thạch Khum càng cảm động hơn nữa. Ông Trần Sen nhứt định xin được đưa Đức Thầy đi trốn.

Vào hồi 1 giờ đêm Đức Thầy Hùynh Phú Sổ và ông Trần Sen ra đi. Ông Lục Thạch Khum đã trao lại Đức Thầy mấy bộ quần áo của các nhà sư Cao Miên để Đức Thầy cải trang.

Khi được biết Đức Thầy và ông Trần Sen trốn đi rồi. Lê Hà liền ra lịnh bắt ông Lục Thạch Khum. Bị tra tấn suốt 1 tuần lễ, ông Lục Thạch khum cũng không chịu khai. Mãi cho đến ngày thứ 10, Lục Thạch khum tin rằng Đức Thầy và ông Trần Sen đã trốn thoát rồi, ông mới chịu khai về cuộc ra đi của Đức Thầy và ông Trần Sen.

XL. Anh Hùynh Văn Đạt kể đến đây, thở dài não nuột rồi nói với chúng tôi rằng:

–        Để cho Đức Thầy đi mất, Lê Hà uất ức lắm ! Hắn cho liên lạc hỏa tốc ngay công văn về bộ tư lệnh khu 9 và bộ tư lệnh khu 8 báo tin Đức Thầy bị một số người Việt gốc Miên giải thóat nhưng Lê Hà đề nghị giữa tuyệt đối bí mật không cho lọt tin trên ra ngòai. Còn 5 tội nhân cùng bị đưa lên Sóc Preng một lượt với Đức Thầy, sau khi khai thác xong, Lê Hà cho đưa đi thủ tiêu ngay.

Lê Hà chỉ bắt cóc một cách bí mật ông Lục Thạch Khum, không đá động gì đến gia đình ông Trần Sen.

Sau khi Đức Thầy thóat nạn được 1 tuần lễ, Lê Hà cho người rình rập coi ông Trần Sen có trở về thăm gia đình không và cho người theo dõi tất cả những người trong gia đình ông Năm Sen.

Nhưng sau đó bỗng Lê Hà ra lịnh rút hết cơ quan đóng tại Sóng Preng đi nơi khác nhưng vẫn bó mật cho người bao vây gia đình ông Năm Sen và ngôi chùa Miên ở Sóc Preng.

Quả nhiên chỉ 4 ngày sau khi Lê Hà cho dọn cơ quan đi, ông Trần Sen lần vể thăm nhà. Ông Trần Sen là một trong những gia đình khá giả ở Sóc Preng nên khi bộ đội của Lê Hà đến đóng tại Sóc Preng thường được ông Trần Sen giúp đỡ, mời ăn uống. Do đó ông Trần Sen rất quen thuộc bọn cán bộ VM.

Vào buổi chiều đầu tháng 5-47, ông Trần Sen trở về thăn gia đình ông bị bọn Năm Cảnh, Hai Chà, Năm cứng gặp khi ông Trần Sen vừa ở bên kia biên giới về. Năm Cảnh nhìn thấy ông Trần Sen đang cắm đầu đi về phía Sóc Preng. Năm Cảnh liền chạy theo gọi:

–        Ông Năm ! Ông Năm !

Vừa trông thấy ông Năm thì Hai Chà, Năm Cứng cũng đã ập lại đón đầu. Ông Năm Sen nhìn bọn Hai Chà, Năm Cảnh, Hai Cứng mà nói rằng:

–        Các anh định bắt tôi phải không ?

Hai Chà trả lời:

–        Không ! Ông làm chi mà tôi bắt ông, chúng tôi muốn hỏi thăm ông một việc này.

Ông Năm Sen lắc đầu, trả lời:

–        Tôi biết các ông định bắt tôi để điều tra vụ Đức Thầy ra đi. Nhưng thà tôi chịu các anh giết chớ chẳng bao giờ tôi nói gì về Đức Thầy.

Nói rồi ông Năm Sen nhào chạy. Bọn Hai Chà, Năm Cảnh, Năm Cứng chạy phóng theo bắt.

Năm Cảnh theo kịp nhảy tới ôm cứng lấy ông Năm Sen. Năm Cứng cũng nhào tới bắt ông Năm Sen. Nhưng lạ thay, Năm Cứng thấy ông Năm Sen nằm gục xuống. Hắn liền lật ông Năm Sen lên thì máu miệng ông trào ra, mắt trợn cứng. Năm Cứng hỏang hốt không hiểu sao ông Năm Sen vì lẽ gì mà bất tỉnh. Không lẽ chỉ vì khi té xuống đụng phải Ha Chà mà ông Trần Sen có thể bất tỉnh được. Năm Cứng liền ghé tai lắng nghe ngực ông Trần Sen, thì tim ông Sen hết đập rồi.

Bọn Năm cứng, Năm Cảnh và Hai Chà không hiểu vì sao mà ông Năm Sen chết nhanh chóng đến thế. Bọn Hai Chà bàn với nhau là cứ để xác ông Năm Sen nằm đó rồi cho xem xét sau, coi có phải ông Năm Sen chết thật hay đánh lừa bọn chúng. Bọn Hai Chà bố trí rình rập.

Độ 1 giờ sau, người Sóc Preng đi làm ngòai đồng gặp thi hài ông Năm Sen mới hô lên, báo tin cho gia đình ông Năm Sen biết đưa về nhà làm ma chay, tống táng.

Sau khi chôn cất ông Năm xong, bà Năm Sen và bà con của ông Năm Sen bí mật dời nhà về Cam Bốt.

Thế là vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thóat khỏi ngục tù của VM được hòan tòan giữ bí mật, không còn ai dò ra tung tích nữa.

XL!. Mặc dù không phải là tín đồ PGHH hoặc đảng viên Dân Xã đảng, cũng như tất cả các tìn đồ PGHH, ai đã từng nghiên cứu về cuộc đời của Đức Thầy Hùynh Phú Sổ hoặc biết qua giai đọan lịch sử đen tối của Nam Bộ trong mấy ngày đầu kháng chiến giữa 2 thứ kềm kẹp của VMCS và của thực dân xâm lược cũng công nhận rằng kể từ ngày 16-4-1947 (25 tháng 2 Đinh Hợi) Đức Thầy Hùynh Phú Sổ vắng bóng, biệt hình luôn.

VM tung tin nói rằng họ đã âm mưu bắt cóc được Đức Thầy và đã hành quyết Đức Thầy, chặt xác thân của Đức Thầy là làm 3 khúc rồi đem bỏ xuống sông.

Trái lại, các tín đồ PGHH thì tin tưởng sắt đá rằng Đức Thầy Hùynh Phú Sổ vẫn còn sống và đang ẩn hình đâu đó.

Cũng theo dư luận của các phần tử nói trên thì âm mưu sâu độc của VMCS là phao tin đã hạ sát Đức Thầy để nhằm chia rẽ hàng ngũ tín đồ PGHH gây hoang mang và khiến cho các nhân vật có địa vị trong PGHH tranh giàn ngôi thứ, chém giết lẫn nhau.

Bọn VMCS cũng đồng thời nhắm mục tiêu đánh đổ hẳn uy thế của đức Thầy, làm cho các tín đồ mất hẳn lòng tin ở Đức Thầy.

CS biết rõ rằng Đức Thầy Hùynh Phú Sổ là vị lãnh đạo tihn thần và tôn giáo duy nhứt được tín đồ Hòa hảo tôn sùng. Nếu nay làm cho các đệ tử và các đồng chí của Đức Thầy tin rằng Đức Thầy đã mất, thì những hàng đệ tử của Đức Thầy có thể sẽ tạo mầm bất mãn, bất phục trong hàng ngũ PGHH. Và một khi đã xảy ra sự tranh giành nhau địa vị và ảnh hưởng thì thế nào cũng có những vụ tương tàn, tương sát chỉ có lợi cho CS.

Nhưng bọn vô thần dù có quỷ quyệt, ác độc đến đâu cũng không thể diệt được đức tin vững như núi như non của các tìn đồ đối với Đức Hùynh Giáo Chủ được coi như là một vị Phật sống.

Nhưng phải nói rõ là đức tin của các tín đồ PGHH không phải do ở sự mê tín, dị đoan mà họ tin Đức Thầy vẫn còn sau khi đã mở cuộc điều tra tỉ mỉ, rất khoa học căn cứ vào nhiều bằng chứng hẳn hoi.

Ngay sau khi Đức Thầy bị mất tích ở Tân Phú ngày 16-4-47, mặc dầu Đức Thầy đã ra lệnh bằng thơ có thủ bút rành rành gởi cho 2 ông Trần Văn Sóai và Nguyễn Giác Ngộ dạy phải án binh bất động, không được làm cho nhân tâm xao xuyến và cho biết Đức Thầy vẫn bình yên, các tín đồ PGHH, cũng đã chia nhau thay phiên đi đi về Tân phú, đến tận nơi đã xảy ra vụ mưu hại Đức Thầy để điều tra tỉ mỉ.

Trong thời gian Đức Thầy vắng mặt, bất cứ có tin nào về Đức Thầy hoặc nghe nói Đức Thầy ở đâu là các tín đồ tự động đi tìm. Vào tháng 9-1949 có tin đồn Đức Thầy Hùynh Phú Sổ đang ở Cao Lãnh và vài ngày Đức Thầy lại ra diễn thuyết cho dân chúng trong vùng nghe một lần, thế là các tín đồ HH không ai bảo ai, kéo ùn ùn về Cao Lãnh để cầu mong tận mắt nhìn thấy Đức Thầy cho bỏ lòng mong nhớ kính mến bấy lâu.

Bọn VMCS phao lên hiều tin đồn về Đức Thầy nhưng không làm sao lung lạc nổi đức tin của các tín đồ HH, cũng không làm suy yếu được thế lực của đạo PGHH ngày càng phát triển mạnh.

…..

ĐỨC THẦY CÒN HAY MẤT ?

Tác giả: P.T.A.Đ

 

Phần 2: LỜI ĐỨC THẦY TRUYỀN LẠIIMG.619

XLII. Về vụ Đức Thầy Hùynh Phú Sổ thất tung từ ngày 16-4-47 tức là ngày 25-2 Đinh Hợi, các tín đồ HH vẫn tin tưởng đức Thầy còn sống vì trong mọi dịp tìm   kiếm,mọi cơ hội dù là do tin đồn của dân chúng hay là do chính CS tung tin ra, các tín dồ HH lập tức tìm đến tận nơi để tìm ra sự thật thì chằng lần nào là đúng cả

Đức tin của các tín đồ HH căn cứ vào sự thật. Và nhứt là 2 ông Trần Văn Sóai và Nguyễn Giác Ngộ lại còn tiếp được một lá thơ của Đức Thầy căn dặn chớ nao núng về tin Đức Thầy bị sát hại, hãy án binh bất động rồi Đức Thầy sẽ trở về. Bức thư ấy chứng tỏ trong biến cố 9h tối ngày 15-4-47 Đức Thầy vẫn bình an vô sự.

Nhưng rồi sau đó, Đức thầy vẫn tiếp tục vắng mặt.

Theo ông Mai Ngọc Quế thuật lại thì ngày 12-4 năm Ất  Dậu (1945), Đức Thầy đến Phụng Hiệp (Ngã Bảy) thuộc Cần Thơ dự cuộc mít tinh của dân chúng Phụng Hiệp tôn kính Đức Thầy. Đức Thầy đứng nói chuyện. Và sau cùng Đức Thầy hỏi dân chúng Phụng Hiệp.

Tôi là người tu hành, lẽ thì vào chốn non cao, núi thẳm, tu tâm, dưỡng tánh, cớ sao hôm nay lại can vào việc họat động chính trị ?”

Nhưng không một tìn đồ nào dám đặt câu hỏi đó, nên Đức Thầy cau mày rồi ứng khẩu đọc một bài thơ tứ tuyệt trả lời câu hỏi trên. Bài thơ ấy như sau đây:

“Yêu nước bao đành trơ mắt ngó !

“Thương đời chưa vội ẩn non cao

“Quyết đem tâm sự tâu cùng Phật

“Coi lệnh Từ Bi dạy lẽ nào ?”

4 câu thơ trên đây đã nói lên tất cả tâm trạng của Đức Thầy đứng trước sự biết chuyển dồn ập của thời  thế ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của Dân tộc Việt. Đức Thầy Hùynh Phú Sổ, một người yêu nước nhiệt thành không thể cầu an lên non ẩn tu như những người tiêu cực khác.

Đức Thầy đã dấn thân vào công cuộc đấu tranh chung. Hồi Pháp thuộc, Đức Thầy đã phải giả đóng vai người khùng để dễ bề họat động.

Sau ngày quân đội Nhựt Bổn đảo chánh ở Đông Dương, bọn VM đã từng lợi dụng danh nghĩa Đức Thầy, tung ra một bài Sấm Ngữ, nói rằng tháng 8 năm Ất Dậu là tận thế, trời đất sẽ tối tăm, nhà cửa tang hoang, người chết đầy đường. Bọn VM phao tin Sấm ấy là của Đức Thầy Hòa Hảo.

Thấy bọn CS gian manh, định lợi dụng lòng tin tưởng của quần chúng với Đức Thầy, đem mê tín dị đoan  tuyên truyền lôi cuốn quần chúng, Đức Thầy Hùynh Phú Sổ liền đưa ra một bài thơ đính chánh tin ngoa truyền ấy của bọn VMCS.

ĐÍNH CHÍNH

Gần dây lắm kẻ ngoa truyền

Một bài Sấm Ngữ nơi miền Hậu Giang.

Nói rằng: tháng tám tai nàn,

Tối tăm trời đất tan hoang cửa nhà.

Kẻ gần rồi đến người xa,

Từ trong thôn dã đến ra thị thành.

Hại cho quốc kế dân sanh,

Ruộng đồng tươi đẹp, dân đành ngó lơ.

Thương thay những kẻ ngu khờ,

Lầm mưu gian trá, ngẩn ngơ ưu sầu.

Hỏi rằng: Sấm ở nơi đâu ?

Nói: “Ông Hòa Hảo làm đầu truyền ra”

Buộc lòng tôi phải đính ngoa,

Cho trong tòan quốc gần xa được tường.

Chuyện ấy là chuyện hoang đường

Của bọn phá hoai, chủ trương hại mình.

Anh em ta hãy đồng tình,

Nếu gắp “nắm óc” đem trình “công an”.

Chúng ta giải quyết lẹ làng,

Đứng để chuyện huyển tràn lan ra nhiều.

(Ký tên: HÒA HẢO, làm tại Saigon tháng 4 năm Ất Dậu 1945)

HÒAI CỔ

Bình tâm cất bút tỏ lời

Xét xem hai chữ vận thời còn xa,

Liếc nhìn thế giới can qua,

Ngàn muôn binh tướng xua ra chiến trường.

Dốc lòng tranh bá đồ vương,

Đem câu danh lợi lấp đường nghĩa nhân.

Gieo điều tàn khốc cho dân,

Khiến lòng tăng sĩ bâng khuân lo lường.

Tiếc thay đạo nghĩa luân thường,

Thánh nhơn đã vạch sẵn đường từ xưa.

Để cho quân tử lọc lừa,

Ở ăn hợp lẽ ráng chừa tiểu nhân.

Trên vua minh chánh cầm cân,

Dưới quan liêm tiết xử phân công bình.

Quyền cha quản xuất gia đình,

Dạy con phải phép vẹn gìn hiếu trung.

Từ ngày cách mặt cửu trùng,

Thay đời đổi cách bất tùng Thánh-Tiên.

Bút lông dẹp với dĩa nghiên,

Thế vào bút sắt cùng viên mực tròn.

Lần lần thế đạo suy mòn,

Nền xưa nếp cũ, hỡi còn mấy ai.

Nên ta thở vắn than dài,

Cúi đầu lạy Phật niệm hòai mấy câu.

Dứt trần mang bộ sồng nâu,

Trông ngày chư quốc chư hầu tỉnh tâm.

Đứng gây chinh chiến ù ầm,

Để gây hạnh phúc mà tầm Phật Tiên.

Ta bà thật cảnh ưu phiền,

Duyên trần cấu kết oan khiên báo đền.

Thiều quang thấm thóat đường tên,

Mắc vòng sanh tử có bền được đâu.

Chi bằng theo học Đạo mầu,

Sớm qua khổ hải theo hầu Phật Tiên.

Than chi giả tạm của tiền,

Như chim vào lưới xích xiềng trói thân.

Tính xong món nợ lần khân,

Thóat vòng cương tỏa  pháp thân nhẹ nhàng.

Tiêu diêu đạo đức  luận bàn,

Vân du võ trụ thanh nhàn biết bao

(Bạc Liêu, năm Nhâm Ngọ 1942)

DỤNG KINH-QUYỀN

Hỡi ôi ! Trời đất mấy muôn trùng,

Muốn dụng kinh quyền đạt hiếu trung,

Ngặt nỗi thân phàm vương vấn nạn

Trường thi chưa mở trống chưa thùng.

Trống chưa thùng sĩ tử vẫn chờ trông

Mong ngóng mau mau thấy mặt rồng.

Bảng hổ danh đề tên chí sĩ,

Đem tài thao lược giúp non sông.

Giúp non sông trong lúc chịu gian truân,

Thảm lệ tràn tuôn mãi chẳng ngừng.

Mịt mịt, mờ mờ mưa gió đạn,

Phong trần đày đọa mấy mươi xuân.

Mấy mươi xuân vắng chúa, trông hoài,

Thân gởi nơi người nợ chẳng vay.

Trời đất lẽ nào không xét đến,

Để cho dân Việt khổ lâu dài.

Khổ lâu dài nay sắp mãn hay chưa,

Cầu nguyện Phật trời gội móc mưa.

Kịp mở Long Hoa xây máy tạo,

Cho dân Hồng Lạc thọ ân thừa.

Thọ ân thừa mà được cảnh nhà an,

Trăm họ đầu đê trước Thánh Hòang.

Nguyện giữ cang thường gìn Phật Đạo.

Giao hòa mãi mãi với lân bang.

Với lân bang sẽ dứt mối thâm thù,

Trên dưới một lòng chí nguyện tu.

Chẳng dám trễ bệ đường đạo đức,

Đặng mong chẳng vướng cảnh ao tù.

Cảnh ao tù giờ vẫn còn mang,

Nặng trịu trên đầu héo ruột gan.

Chí dốc thóat ly vòng xích tỏa,

Cầu trên Thánh-Chúa vững ngai vàng.

Chúa Vững ngai vàng sãi mới yên,

Rời ngay cảnh tục trở về Tiên

Chẳng còn tham luyến nơi trần thế,

Vì cả thế gian hết não phiền.

(Bạc liêu, năm Nhâm Ngọ 1942)

HỎI PHỖNG ĐÁ (cổ thi)

Ông đứng làm chi đấy hỡi ông ?

Trơ trơ như đá vữngnhư đồng.

Giữ gìn non nước cho ai đó ?

Dâu bể cuộc đời có biết không ?

PHỖNG ĐÁ TRẢ LỜI

Ông đứng đây cho chúng biết ông,

Kêu lên một tiếng tợ chuông đồng.

Khắp trong thiên hạ đều lay tỉnh

Bước xuống thuyền từ đến cửa không.

Đứng chờ thời vận đến cho ông,

Rải Đạo huyền vi khắp Đại Đồng,

Bao bọc non Hồng cùng nước Lạc,

Việc đời cũng biết chớ sao không ?

Đứng chờ Đại Chúng trọng tôn ông,

Dựng cuộc hòa minh khắp Đại Đồng,

Mao-Việt giang sơn bờ cõi vững,

Đuổi lòai Phiên tặc lội về không.

(HỒNG VÂN CƯ SĨ– biệt hiệu Đức Thầy- Sài gòn năm 1943)

GỌI ĐÒAN

Hởi anh em trong nhà Nam Việt !

Nhớ nước ta hùng liệt thuở xưa.

Ngàn năm Bắc địch vày bừa,

Mà còn đứng dậy tống đưa quân thù.

Hồn chiến sĩ ngàn thu  rạng tỏ

Gương anh hào chói đỏ như châu.

Non sông thanh bạch một bầu,

Ngọn cờ độc lập bay hầu khắp nơi.

Lịch sử cũng rạng ngời mấy đọan,

Lắm anh hùng hảo hán xuất thân,

Sanh vi tướng, tử vi thần,

Câu châm ngôn ấy truyền lần đến nay.

Tới Nguyễn trào sa tay một phút,

Lũ Tây dương bòn rút mấy mươi năm.

Thương dân ruột tím gan bầm,

Rửa chưa xong hận còn căm mối hờn.

Nay chẳng lẽ ngồi đờn những bản,

Vong quốc ca cho bạn chung nghe.

Thôi thì ta hãy hiệp bè.

Cùng nhau  đòan kết đang khoe sức hùng.

Khắp Bắc Nam đùng đùng một trận,

Ấy mới mong quốc vận phản hồi.

Trước là dẹp lũ Tây bồi,

Sau đưa quốc tặc qui hồi Diêm cung.

Nếu nay chẳng vẫy vùng cương quyết,

Thì ắt là tiêu diệt giống nòi.

Muôn năm chịu kiếp tôi đòi,

Thân người như thế còn coi ra gì ?!

(Saigon năm 1943)

GỌI ĐÒAN THANH NIÊN

Hởi thanh niên trong nhà Nam Việt,

Thanh niên đừng mài miệt truy hoan.

Cùng nhau hiệp bạn vầy đòan.

Luyện rèn thao lược đặng toan báo cừu.

Cứu được nước danh lưu thanh sử,

Noi tinh thần quân lũ Phù Tang.

Lòng yêu Tổ Quốc hòan tòan,

Xông pha chiến địa gian nan sá gì.

Chớ có ngủ li bì trong mộng,

Để dân ta mãi sống khốn cùng.

Á đông súng nổ đùng đùng,

Thì ta cũng phải vẫy vùng thóat ly.

Đừng nhu nhược, mê si tửu sắc,

Mà buông tha lũ giặc cùng đường.

Thanh niên nghĩa vụ phi thường,

Phận là phải biết yêu thương giống nòi.

Nay chẳng lẽ ngồi coi thắng bại,

Của cọp, rồng trên giải đất ta.

Một mai cọp đã lìa nhà,

Biết rồng có chịu buông tha chăng cùng ?

Vậy anh em phải chung lưng lại,

Dùng sức mình đánh bại kẻ thù.

Tỏ ra khí phách trượng phu,

Vung long tuyền kiếm tận tru gian thần.

Xưa nước đã bao lần khuynh đảo,

Được cứu nguy nhờ máu anh hùng.

Hy sinh báo quốc tận trung,

Đem bầu nhiệt huyết so cùng sắt gang.

Việt Nam là giống Hồng Bàng,

Muôn đời xa lánh tai nàn diệt vong.

(Saigon 1943)

HUẤN LỊNH

Hỡi các thiện nam tín nữ !

Ngày mà chúng ta chịu khổ dưới gót giày của người Pháp và bọn quan lại hung tàn đã vừa qua. Khể từ ngày tôn giáo của chúng ta sẽ tự do truyền bá. Vậy tôi nhân cơ hội này tỏ cho các người được hiểu rằng:

Đạo Phật là đạo từ bi bác ái, dĩ đức háo sanh khoan hồng đại độ; tuy tình thế đổi thay chớ tấm lòng nhơn chẳng đổi.

Vậy hãy coi tòan dân cũng như anh em một nhà, mong họ liên kết với chúng ta để kiến thiết lại quê hương cùng nền Đạo nghĩa. Những kẻ bạo tàn từ trước đến giờ, nay đã ăn năn giác ngộ thì hãy dĩ đức nhiêu dung tội trạng của họ, để sau này quốc gia định đọat, còn mình chỉ khuyên họ trở lại đường lành, chớ chẳng nên làm điều gì thái quá mà động đến từ tâm của chư Phật.

Mong các người hãy tuân theo huấn lịnh này.

(Saigon ngày 2-2 Ất Dậu 1945)

HỠI ĐỒNG BÀO VN

Nước nhà đã tuyên bố độc lập. kẻ thù giết cha ông của chúng ta hầu hết đã bị giam cầm. Giờ đây bổn phận vủa mỗi người VN cần phải làm thế nào cho sự độc lập hòan tòan của nước nhà chóng thực hiện.

Vậy tôi xin khuyên tất cả đồng bào muốn tỏ ra xứng đáng với một người dân một nước tự do thì chúng ta hãy nên đòan kết chặt chẽ cùng nhau, hãy quên hết những mối thù hiềm ganh ghét, đừng bày ra cái họa nồi da xáo thịt khiến cho ngọai nhơn khinh bỉ một dân tộc như dân tộc VN ta đã có nhiều tấm lòng nhân hậu và những trang lịch sử vẻ vang, còn bọn sâu dân mọt nước để sau này cho Tòa án quốc gia định đọat…

Nhân danh cho VN độc lập

Vận Động Hội kiêm Cố Vấn danh dự

VN Ái Quốc Đảng

Ký tên Hòa hảo.

Saigon tháng 2 Ất Dậu (1945).

LỜI RIÊNG CHO BỔN ĐẠO.

Tôi ở Saigon khi cuộc đảo chánh xảy ra, vẫn đóan biết sẽ có vài chuyện chẳng hay trong quần chúng, lập tức gởi thơ về khuyên giải mọi người, nhưng vì đường giao thông bất tiện mà thơ ấy đến rất chậm trễ, tôi lấy làm không vui mà thấy một vài người trong Đạo và ngòai đời nhận thấy cái danh từ của tôi mà làm một ít cử chỉ trả thù không có xứng đáng với tấm lòng đạo đức từ bi; trước kia chúng nó hà khắc ta, chúng nó đành; ngày nay ta hà khắc lại, sao đành. Vì lòng chúng nó đầy sự hung tàn, còn lòng ta lại đầy nhân ái !

Nên kể từ nay kẻ nào trong Đạo còn làm điều gi không có mạng lịnh sẽ bị lọai ra khỏi Đạo và giao nhà đượng cuộc xử một cách gắt gao.

Ký tên: Hòa Hảo.

Saigòn tháng 2 Ất Dậu (1945)

HIỆU TRIỆU

Hỡi đồng bào VN,

Vì một cái chánh sách sai lầm của tiền nhân ta mà đế quốc Pháp có cơ hội tốt để chiếm lại lãnh thổ nước VN gần ngót trăm năm nay, đồng bào ta trải biết bao cay dắng: lớp kẻ thù giày đạp, lớp quan lại tham ô, vì thế nên người dân VN gánh vác biết bao nhiêu sưu thuế nặng nề. kẻ thù đã lợi dụng chánh sách ngu dân để nhồi sọ quần chúng, gây mầm chia rẽ Bắc, Nam, Trung; phá rối sự đòan kết, hầu mong cho cuộc đô hộ được vĩnh viễn trên giải non sông đất nước mà Tổ tiên ta phải phí bao nhiêu máu đào mới gầy dựng được.

Vả lại từ trước cho đến nay các bực anh hùng, các nhà chí sĩ khắp ba kỳ đã bao phen vùng vẫy chống lại quân thù mong gầy dựng lại nền Độc lập cho quê hương đất Việt.

Nhưng than ôi ! Chỉ vì thiếu khí giới tối tân, chỉ vì sợ đường luyện tập mà giọt máu anh hùng đành hòa với bao nhiêu giọt lệ, khóc phút sa cơ, để lại cho người đồng thời và cho đòan hậu thế muôn vàn tiếc thương ân hận.

Cách 4 năm nay, đế quốc Pháp đã tan tành gãy đổ; địa vị người Tây cũng bị suy lạc rất nhiều trên bán đảo Đông Dương. Kế đến quân đội Nhựt tràn sang, bọn cầm quyền Pháp ở xứ ta muốn duy trì quyền chủ trị của họ bèn lợi dụng tất cả điều kiện kinh tế, để cung cấp các sự nhu cầu cho quân đội Nhựt hầu giữ vững cuộc bang giao. Đàng khác, họ gia tăng sự áp bức làm cho dân chúng ta phải điêu linh trong vòng khổ sở, hầu làm cho chúng ta mất cả năng lực, cùng tinh thần tranh đấu, mong kéo dài ngày tháng chờ cơ hội thuận tiện để vẫy vùng.

Đến ngày hôm nay,, giai đọan tranh đấu đã đến thời kỳ quyết liệt, cho nên lòng hân hoan và mối hy vọng của kẻ thù đã bộc lộ rất rõ ràng. Vì vậy tình bang giao giữa chúng nó với chánh phủ Nhựt Bổn chẳng còn được ồn thỏa nữa.

Đó là lý do để cho quân Nhựtt giải quyết vấn đế Đông Dương và rạng ngày 26 tháng giêng năm Ất Dậu ta (nhằm ngày 10 Mars, 1945 theo dương lịch), bộ máy cai trị của chúng nó bị hòan tòan gãy đổ.

Hỡi đồng bào VN !

Chúng ta đã bước và đang bước đến một khúc nghiêm trọng trên lịch sử. giờ đây ta đã có thêm nhiều đặc quyền lo lắng đến cái giang san gấm vóc của Tổ tiên ta di truyền lại.

Vận động cuộc Độc Lập !

Vận động cuộc Độc Lập !

Phải ! Tòan quốc phải liên hiệp vận động cho cuộc Độc Lập. Đây là cái chủ trương duy nhất của VN Độc Lập Vận Động Hội.

“VN Hòan Tòan Tự Do Độc Lập”

Đấy là cái khẩu hiệu duy nhứt của người VN.

Hỡi các đồng chí thân yêu !

Từ khi quốc gia bị khuynh đảo đến nay, chúng ta chỉ hợp từng đòan thể nhỏ hoặc độc thân tranh đấu và phải bao phen thất bại một cách đắng cay chỉ vì thiếu tinh thần đòan kết, thiếu sức bền bỉ dẻo dai để chống lại xâm lăng vô cùng tàn bạo. Thời giờ này ta đã học hỏi được nhiều rồi, ta đã thâu thập kinh nghiệm khá hơn rồi; vậy thì ta nên đồng nhận chân ý thức như nhau, nắm tay nhau quả quyết mạnh dạn tiến bước trên con đường tranh đấu.

Hỡi các bạn trí thức VN !

–        Các bạn có bị cái thứ văn minh cặn bã cám dỗ chăng ?

–        Các bạn có quên tinh thần Quốc Gia hùng dũng của VN chăng ?

–        Không ! Không ! Chúng tôi chắc hẳn rằng không vậy.

Các bạn cũng biết cái cặn bã của nền văn minh Pháp nhồi nắn rất nhiều đồng bào ta trở thành những bộ máy của bọn xâm lăng. Các bạn đã ôn nhuần những trang sử vẻ vang mà từ ngàn xưa đến giờ, tiền nhân ta đã viết ra bằng tâm cơ và bằng huyết hãn, vẫn còn đầm đìa trên mặt giấy. Vậy ngày nay, các bạn nên lợi dụng thời cơ thuận tiện để đem tất cả trí, năng, đức, hạnh, tham gia vào Hội, lãnh đạo nhân dân hầu huấn luyện cho nhau cái tinh thần quốc gia kiên cố.

Hỡi các bạn Thanh Niên !

Trong 3 năm nay, theo mạng lịnh người Tây, có rất nhiều bạn nhờ sự thao luyện, nên thân thể được cường tráng. Tuy vậy mà thử hỏi quân thù có thật lòng thương giống nòi dân Việt này chăng ?

Decoux, Decourcy có thật lòng thương yêu quý mến các bạn chăng ? có khi nào kẻ dị chủng ấy đã chiếm đọai cái di sản quý báu vô cùng vô tận của Tổ tiên ta di truyền lại mà thương bạn, mến bạn. ấy chỉ vì chúng nó lợi dụng bạn, luyện tập bạn phòng khi hữu sự thì đem bạn làm mồi cho gươm súng bảo vệ quyền lợi riêng của chúng.

Nhưng rủi thay cho quân thù, may thay cho lương dân Đại Việt ! Bọn nó chưa đủ ngày giờ thực hành ý định liền bị sanh cầm. ngày nay thay vì phải bắt buộc phụng sự cho những kẻ sát hại tiền nhân ta, chiếm đọat lãnh thổ ta, giành giựt lợi quyền ta, đàn áp đồng chủng ta, các bạn hãy để tinh thần tráng kiện ấy vừa giúp vào công cuộc kiến thiết nền Độc Lập cho giang san đất Việt.

Hỡi các bạn Thanh Niên ! Các bạn nên tham gia vào VNĐLVĐH để đạt tới mục đích.

Hỡi các Cụ Đồ Nho ! hỡi các Nhà Sư !

Các Cụ Đồ Nho ! Từ trước đến nay, luôn luôn các Cụ vẫn hòai bão một nhiệt vọng cho sự Độc Lập của nước VN, luôn luôn các Cụ vẫn nuôi nấng một tinh thần Quốc gia càng ngày càng mạnh mẽ. cái ngày mà các Cụ mong mỏi, thiết tha đã đến và ngày giờ này các Cụ rất khoan khóai được thấy cái nguồn sanh lực của nước VN tái phát. Bao nhiêu tiết tháo của thời xưa vẫn còn in sâu vào tâm não, bao nhiêu thành tích vẻ vang hùng tráng của thời xưa đã chép ra mà nét chữ vẫn chưa mờ, còn lưu lại nơi trí óc các Cụ những kỷ niệm liệt oanh rực rỡ.

Hỡi các Cụ Đồ Nho ! Hãy tham gia vào phong trào mới của nước nhà để khích lệ nhân tâm.

Các bực Tăng Sư, Thiền Đức ! Các Cụ có nhớ chăng ? Trên lịch sử VN thời xưa nhà Đại Đức Khuông Việt dầu khóac áo cà sa, rời miền tục lụy, thế mà khi quốc gia hũu sự cũng ra tay gánh vác non sông.

Từ khi người Pháp qua chiếm đất ta, bề ngòai gọi rằng cho ta tự do tín ngưỡng, nhưng bên trong dùng đủ mọi cách âm thầm chia rẽ và phá họai cho tín đồ nhà Phật không có sức đòan kết chấn hưng hầu bài trừ các lưu tệ dị đoan mê tín.

Đã vậy lại không có cơ quan tuyên truyền thống nhứt cũng chẳng có trường chung đào luyện tăng sư. Các Cụ nên biết: hễ nước mất thì cơ sở của Đạo phải bị lấp vùi; nước còn nền Đạo được phát khi rực rỡ.

Chúng tôi ước mong các Cụ noi gương Đức Đại Sư Khuông Việt tự mình gia nhập vào VNĐLVĐH để làm gương hay là để khuyến khích các môn nhơn đệ tử mau tham gia vào phong trào mới hầu chấn chỉnh Quốc Gia ta. Khi nào nước nhà được cường thạnh, Đạo Phật mới được khuếch trương tự do hầu gieo rắc tư tưởng Thiện-Hòa và tinh thần Từ Bi, Bác Ái bàng nhân bá tánh.

Hỡi các nhà Thương mãi !

Nông gia ! Thợ thuyền !

Dưới sự kềm chế của bọn xâm lăng, nền thương mãi quốc gia bị đắm chìm kiệt quệ, cơ hồ bị tay người ngọai quốc chiếm hẳn. vì thế dưới sự chi phối của bọn đế quốc Pháp, các nền kinh tế, thương mãi của người VN không có cơ ngóc đầu dậy nổi.

Các nền tiểu công nghệ, thủ công nghệ bị uy hiếp nặng nề cho đến nổi những nhà tiểu tư sản đều bị vô sản hóa, lâm vào tình trạng vô cùng lầm than khổ não.

Thương gia VN đành bó tay không phương giải cứu. muốn cho nền thương mãi được phát triển, thương gia được thạnh vượng, phi trừ sự “Độc Lập” của nước nhà ra chẳng có cái gì có thể vãn cứu nỗi.

Các nông gia bị cái áp lực bất công của bọn thực dân người Pháp và những kẻ quan lại kiêm Địa chủ hiếp bức đủ mọi phương diện, đều bị bóc lột rất quá đáng. Nông nghiệp là nguồn gốc kinh tế của xứ mình; nhưng vì muốn làm cho quân đội Nhựt Bổn thiếu kém đồ ăn và lấy cớ cung cấp cho quân đội Nhựt mà người Pháp, ngót mấy năm nay, thi hành chánh sách hết sức độc ác, tịch thâu hay mua rẻ nông  sản, kiểm tra hóa vật, bày ra nông phố hợp tác lũng đọan lợi quyền, làm cho nông nghiệp phải chịu thiệt thòi rời rã, không còn sản xuất như xưa, kẻ làm ruộng vì vậy mà nghèo hèn đói rách. Bọn cầm quyền Pháp chẳng có giúp cho kỹ thuật canh cải được điều gì tốt đẹp cả, và chỉ khai thác ít con kinh cho chiếu lệ, chớ 80 năm nay nghề nông ta vẫn còn nằm trong vòng ấu trĩ phôi thai với những khí cụ của ông bà ta để lại. học chẳng có đem lại thứ máy móc nào giúp cho nông nghiệp được phát đạt và vì thế mà đời sống của nông phu cũng không khi nào được thư thái, cho đến muối là một món ăn mà Đông Dương sản xuất rất nhiều, nhưng vì người Pháp mà mấy năm nay trở nên thiếu thốn chẳng đủ cung cấp cho nhân dân.

Nền kỹ nghệ trong xứ chẳng những không được khuyến khích giúp đỡ mà lại còn bị cấm ngăn giám tiếp khiến cho sự nhu cầu của dân chúng thiếu thốn mọi bề, từ một cây kim may cho đến một cơ khí tinh xảo. Tóm lại tất cả các nhà kinh tế, kỹ nghệ, thương mãi, nông nghiệp, tất cả các nguồn lợi thiên nhiên hay nhân tạo, tất cả các nguyên liệu cho sự sống còn của xứ sở bị người Pháp hoặc chiếm đọat, hoặc tàn phá làm cho nước nhà không còn là một nơi phì nhiêu phong phú nữa. Thợ thuyền nhơn công cũng ở dưới sự bạc đãi, bức bách như nông dân; họ sống một cuộc đời luôn luôn thiếu kém và vẫn phải rụt rè khép nép với bọn chủ xưởng người Tây, vẻ mặt đầy hung ác.

Nhiều khi lắm người nhân công bị hành hạ tàn nhẫn, giết chết biệt thây, hoặc bị sốt rét rút hết máu me nơi cánh rừng cao su bát ngát, hoặc chết dưới những hầm mỏ âm u mà nào ai có mở cuộc điều tra, nào ai dám mở lời kêu ca thống trách và pháp luật vẫn bỏ mặc tình, chẳng một đều gì chở che bảo bọc ấy cũng tại nguyên nhân nào ? Nếu chẳng phải tại nước mất nhà tan, nên đám người vong quốc ấy phải ngậm ngùi với biết bao điều ân hận.

Hỡi các Thương Gia, Nông Gia, Thợ Thuyền ! Cố gắng lên ! Hùng mạnh lên ! Và liên kết cổ động tranh đấu cho nền độc lập hòan tòan của Quốc Gia hầu vãn cứu đồng bào mình cùng quyền lợi mình.

VN ĐỘC LẬP VẬN ĐỘNG HỘI

Thành lập chẳng phải chỉ để lo riêng cho cái quyền lợi của một người mà là lo chung cả mấy mươi triệu người dân Việt.

Vậy thì mỗi người công dân VN đều phải nghĩ đến xứ sở mình, đến sự sống còn của dân tộc mình; vì mặc dầu đã bị triệt hạ trên giải đất Đông Dương, đế quốc Pháp bên kia trời cũng vẫn còn hòai bão cái mộng tưởng khôi phục lại quyền chủ trị; vậy thì đồng bào hãy cố gắng lên !

Chúng tôi mong rằng các bực lão thành, các hàng trí thức, các thanh niên nam nữ, các đồng bào vì đất nước chung, vì mục đích chung hợp sức cùng nhau để đạt cái nhiệt vọng tối đại tối cao thì tiền nhân ta mới đành ngậm cười nơi chín suối.

VN ĐỘC LẬP VẬN ĐỘNG HỘI

“Ủng hộ triệt để các đảng Ái Quốc chân chính”

“Bài trừ triệt để bọn mọt nước sâu dân”

(Saigon, tháng 3 dương lịch, 1945)

GỌI ĐÒAN TRÁNG SĨ

Hãy tỉnh giấc muôn ngàn tráng sĩ,

Nhìn thời xưa hùng vĩ nước nhà ta.

Bắc Nam một dãy san hà,

Mồ hôi giọt máu ông cha tài bồi.

Trải qua cũng lắm hồi vận bĩ,

Rồi anh em tráng sĩ đứng lên.

Liều mình đụt pháo xông lên,

Liều mình giết giặc xây nền tự do.

Tiếng roi lại bình Ngô, Sát Đát,

Sử xanh còn ngào ngạt hương thơm.

Trông phường giá áo túi cơm,

Trông phường úy tử mà nhờn đi thôi.

Nay vận nước đến hồi thịnh thái,

Chí anh hùng ta hãy noi gương.

Một mai nước được phú cường,

Tấm thân tráng sĩ cột rường nhà Nam.

(Saigon, tháng tư năm Ất Dậu, 1945)

GỌI ĐÒAN PHỤ NỮ

Chị em ôi Bắc Nam là một,

Chị em là rường cột giống nòi.

Dở sử xanh Nam Việt mà coi

Gương Trưng Triệu còn noi muôn thuở.

Chẳng có lẽ xưa nay mà hay dở,

Khiếp nhược là cái cớ vong gia.

Chí anh hùng của khách quần thoa,

Đâu có kém bực tu mi quân tử.

Sách thánh hiền truyền lưu mấy chữ,

Thất phu còn trách nhiệm với non sông.

Cả tiếng kêu bạn gái má hồng,

Đem son phấn điểm tô Tổ Quốc.

(Saigon tháng tư năm Ất Dậu, 1945)

KHUYẾN NÔNG

Hỡi đồng bào ! Hỡi đồng bào !

Thần chết đã tràn vào Nam, Trung, Bắc.

Ngày lại ngày siết chặt giống nòi,

Lật qua các báo mà coi,

Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.

Cũng tại vì Tây đi bày kế,

Phá họai nền kinh tế nước ta.

Làm cho điên đảo sơn hà,

Làm cho điêu đứng con nhà Lạc Long.

Bỗng phút đâu cuồng phong một trận,

Quân Phù Tang khai hất bất kỳ.

Còn đâu mưu khéo giải vi ?

Còn đâu hõan kế trong kỳ viện binh ?

Dầu những kẻ vô tình với nước,

Cũng tỉnh hồn mơ ước tự do.

Tiếng vang độc lập reo hò,

Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng.

Quyết phen này kết liên một mối,

Đem máu đào tắm gội giang san.

Giờ đây xem lại mùa màng,

Năm rồi miền Bắc tan hoang còn gì.

Chỉ có xứ Nam Kỳ béo bở,

Cơ hội này bỏ dở sao xong.

Cả kêu điền chủ phu nông,

Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.

Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,

No dạ dày là chước đầu tiên.

Nam Kỳ đâu phải sống riêng,

Mà còn cung cấp cho miền Bắc, Trung.

Quân đội Nhựt cần dùng lương thảo,

Cũng phải ăn lúa gạo Nam Kỳ.

Ta còn ngần ngại nỗi chi,

Mà không cày cấy kịp thì hỡi dân ?!

Điền chủ phải một lần chịu tốn,

Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên.

Muốn cho dân được lòng bền,

Mua dùm canh cụ là nền khuếch trương.

Giá mướn phải thường thường dễ thở,

Xử ôn hòa niềm nở yêu nhau.

Cùng chung một giọt máu đào,

Phen này hiệp sức nâng cao nước nhà.

Kẻ phu tá cũng là trọng trách,

Cứu giống nòi quét sạch non sông.

Một phen vác cuốc ra đồng,

Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.

Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,

Chí hy sinh dầu thác cũng cam.

Miễn sao cho cánh đồng Nam,

Dồi dào lúa chín gặt đem về nhà.

Chừng ấy mới hát ca vui vẻ,

Ai còn khinh là kẻ dân ngu.

Không đem được chút công phu,

Không đem sức lực đền bù nước non.

Gởi một tấc lòng son nhắn nhủ,

Khuyên đồng bào hãy rủ cho đông.

Nắm tay trở lại cánh đồng,

Cần lao nhẫn nại Lạc Long tổ truyền.

(Saigon tháng tư năm Ất Dậu, 1945)

TỰ THÁN

Gió hiu hiu bên rừng quạnh quẽ,

Nhìn non sông đượm vẻ tang thương.

Mối tình chủng lọai vấn vương,

Thấy quân xâm lược hùng cường căm gan.

Vừa toan rút gươm vàng ngăn giặc,

Bổng họa đâu gieo rắc bất kỳ.

Cường quyền một lũ ngu si,

Oan này hận ấy sử ghi muôn đời.

Truyền khắp nước muôn lời vu cáo,

Dùng trăm ngàn thói bạo hiếp dân.

Làm cho trong nước rẽ phân,

Làm cho giặc Pháp một lần sướng ran.

Vậy cũng gọi an bang định quốc,

Rồi rút lui bỏ mất thành trì.

Giống nòi nỡ giết nhau chi ?

Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.

Đòan hậu tấn có lòng yêu nước,

Khá nhìn xem gương trước răn mình.

Riêng ta hai chữ nhục vinh,

Thỏang cười thế sự nhân tình quá đen.

                         ***

Lòng dân chớ khá xem khinh,

Bạo tàn giết mất nhân tình thì thua.

(Miền Đông cuối năm Ất Dậu, 1945)

TIẾNG SÚNG BÊN LẦU

Nước non tan vỡ bởi vì đâu ?

Riêng một ta mang nặng khối sầu.

Lòng những hiến thân mưu độc lập,

Nào hay tai họa áp bên lầu.

Bên lầu tiếng súng nổ vang tai,

Trời đất phụ chi kẻ trí tài.

Mưu quốc hóa ra người phản quốc,

Ngàn thu mối hận dễ nào phai.

Từ ấy lao mình vượt khốn nguy,

Băng rừng lội suối giả man di.

Ngày mong ải Bắc oan này giải,

Đem sức ra nâng lá quốc kỳ.

Nhưng khổ càng mong càng vắng bặt,

Trời Nam tràn ngập lũ Tây di.

Biết bao đồng chí phơi xương máu.

Thức giả nhìn nhau hỏi tội gì ?

Vì tội không đành phụ nước non,

Phô bày tiết tháo tấm lòng son.

Ngăn phường sâu mọt lừa dân chúng,

Chẳng nệ thân danh nỗi mất còn.

Nếu mất thôi đành xong món nợ,

Nay còn há dễ ngó lơ sao ?

Dọc ngang chí cả dù lao khổ,

Thất bại đâu làm dạ núng nao.

Thất bại đâu làm dạ núng nao.

Non sông bao phủ khí anh hào.

Phen này cũng quyết đền nợ nước,

Máu giặc nguyện đem nhuộm chiến bào.

          Miền Đông 1945

(trong khi Đức Thầy ẩn lánh VM và người Pháp vừa mới tái chiếm Nam Việt)

ĐỒNG ĐẢNG TƯƠNG TÀN

Người đồng đảng giết người đồng đảng,

Ai VM, CS là ai ?

Đương cơn quyền lợi đắm say,

Anh hùng chí sĩ râu mày thế ư ?

Đường muôn dặm lời thư một khúc,

Giờ giặc đà tá túc nhà ta,

Ai ra nưng đỡ san hà,

Ai ra cứu vớt nước nhà lâm nguy ?

Phát xít sẽ tầm truy tàn sát,

Không đảng nào mà thóat tai ương.

Nghĩ càng bực tức đau thương,

Giết nhau để lợi cho phường xâm lăng.

          (Mùa đông năm 1946)

CHI NAM NHI

Nam nhi mang chí cả,

Bao tấm lòng sắt đá.

Thương giống nòi dẹp bã vinh huê,

Lướt đạn bom giữa vững lời thề:

Tàn sát hết quân thù xâm lược.

Tranh độc lập tự do cho nước,

Cho giống nòi rạng rỡ trước năm châu.

Khí thiên liêng sông núi nhiệm mầu,

Un đúc giống anh hùng vang bốn bể.

Gương sáng ấy soi chung hậu thế,

Anh em ôi ! theo dõi gót cùng ta,

Ra tay quét sạch san hà,

Ra tay bồi đắp nước ta hùng cường.

          (miền Đông ngày 10 tháng giêng Bính Tuất, 1946)

RIÊNG TÔI

Rứt áo cà sa khoác chiến bào,

Hìềm vì nghịch cảnh quá thương đau.

Bên rừng tạm gởi thân cô quạnh,

Nhìn thấy non sông suối lệ trào.

Nhìn thấy non sông suối lệ trào,

Lòng nguyền giữ vững chí thanh cao.

Ai người mãi quốc cầu vinh nhỉ,

Hậu thế muôn thu xét thử nào ?

Hậu thế muôn thu xét thử nào ?

Lòng nầy yêu người biết là bao ?

Vì ai gieo rắc điều hồ mị,

Đành ngó non sông nhuộm máu đào.

Đành ngó non sông nhuộm máu đào,

Thời cơ độc nhứt cứu đồng bào.

Muôn ngàn chiến sĩ chờ ra trận,

Bỗng vướng gông cùm chốn ngục lao.

          (Miền Đông năm 1946)

TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH

Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến sĩ

Mở lòng ra thương nghĩ sanh linh.

Đồng bào ai nỡ dứt tình,

Mà đem chém giết để mình an vui.

Dù lúc trước nếm mùi cay đắng,

Kẻ độc tài đem tặng cho ta.

Sau này tòa án nước nhà

Sẽ đem lẽ ấy mà gia tội hình.

Lúc bây giờ muôn binh xâm lược,

Đang đạp giày non nước VN.

Thù riêng muôn vạn cho cam,

Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công.

Khắc Bắc Nam Lạc Hồng một giống,

Tha thứ nhau để sống cùng nhau.

Quý nhau từng gịọt máu đào,

Để đem máu ấy tưới vào địch quân.

Đấng anh hùng vang lừng bốn bể,

Các sắc dân đề nể, đều vì.

Đồng bào nỡ giết nhau chi,

Bạng duật tương trì lợi lũ ngư ông.

Hỡi những kẻ có lòng yêu nước,

Nghe lời khuyên tỉnh được giấc mê.

Anh em lớn nhỏ quày về,

Hiệp nhau một khối chớ hề phân ly.

Đả đảo bọn Nam Kỳ nô lệ,

Kiếp cúi lòn thế hệ qua rồi.

Lời vàng kêu gọi khắp nơi,

Anh em chiến sĩ nhớ lời ta khuyên.

(Viết vào lối tháng 2 tại miền Đông năm 1946 để khuyên anh em tín đồ Hòa Hảo chấm dứt các cuộc xung đột với VM).

QUYẾT RỨT CÀ SA

Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau,

Quyết rứt cà sa khóac chiến bào.

Đuổi bọn xâm lăng, gìn đất nước,

Ngọn cờ độc lập phất phơ cao.

Ngọn cờ độc lập phất phơ cao,

Nòi giống Lạc Hồng hiệp sức nhau.

Tay súng, tay gươm xông trận địa,

Dầu cho giặc mạnh há lòng nao.

Dầu cho giặc mạnh há lòng nao,

Nam Việt ngàn xưa đúc khí hào.

Lúc giặc xâm lăng mưu thống trị,

Anh hùng đâu sá cảnh gian lao.

Anh hùng đâu sá cảnh gian lao,

Chiến trận giao phong rưới máu đào.

Miễn đặng bảo tồn non nước cũ,

Giữa an tánh mạng cả đồng bào.

          (Miền Đông 1946)

TẶNG VIỆT CHÂU (NGUYỄN XUÂN THIẾP)

Đương  cơn sóng dậy đất bằng,

Thi nhân đứng ngó để tăng sĩ làm.

Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa,

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha 

Đền xong nợ nước thù nhà

Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô.

Chừng ấy mới tịnh vô nhứt vật,

Bụi hồng trần rứt sạch cửa không.

Chuông linh ngân tiếng đại đồng,

Ta bà thế giới sắc không một màu…

(trên đường về Saigon, tháng 6 năm Ất Dậu, 1945)

HẾT

[Tác Giả] [Lãnh Vực]

Tìm Kiếm