Doãn Quốc Sỹ
GÌN VÀNG GIỮ NGỌC
Cuối tháng chạp năm 1945 gia đình tôi và gia đình Huân cùng tản cư một ngày nhưng về hai ngả khác nhau: Huân đưa vợ con về quê mẹ ở Ninh Bình, tôi theo thầy mẹ tôi lên Bố Hạ (Bắc Giang). Tới ở Bố Hạ tôi vào công tác ngay ở sở Thông Tin Khu 12, sau sát nhập vào Liên khu I. Rồi thầy mẹ tôi cùng toàn thể gia đình rời đi Vĩnh Yên chỉ còn một mình tôi ở lại Bắc Giang để tiếp tục công tác tại chỗ cũ.
Bốn tháng sau tôi nhận được thơ nhà báo tin gia đình một lần nữa chuyển đến làng N.H. ngay bên kia hữu ngạn sông Ðáy, gần chân dãy núi Tam Ðảo. Tôi biết, như vậy vốn liếng gia đình lại một phen hao hụt để sa sút thêm. Nhưng cũng trong thơ đó tôi được cô em gái cho hay là gia đình Huân đã bỏ Ninh Bình chuyển đến một làng nào đó, gần một cái chợ nào đó, thuộc Phúc Yên.
Tôi vừa nhẩm ôn đoạn thư vừa nghĩ thầm: “một làng nào đó, ở gần một cái chợ nào đó, thuộc Phúc Yên” địa chỉ tuy mơ hồ thật nhưng mình quyết tìm cho ra.
Tôi viết thơ cho một ông cùng làng tản cư ở Phù Lỗ và thường buôn bán hàng ngoại hóa trên con đường Phúc Yên – Sơn Tây, để nhờ ông chú ý tìm giúp gia đình Huân. Ba tháng sau tôi nhận được hồi âm của ông bảo rõ cho hay thực may mắn chỗ ở Huân: đó là một thôn nhỏ ngay gần chợ Sặt và ở về phía tay phải con đường mòn từ chợ đi huyện Yên Lãng. Vừa đúng dịp tôi xin thôi tại sở những mong sẽ công tác ở ty Thông Tin Vĩnh Yên cho được gần gia đình. Tôi có xin về thẳng thăm nhà đã, rồi nửa tháng sau nếu thuận tiện sẽ đến nhận công tác tại cơ quan mới.
Hành trình của tôi được phân chia rất hợp lý. Từ Ða Phúc tôi sẽ đi đến Phố Nỉ bên kia sông Cầu, đường dài mười hai cây số. Từ Phố Nỉ tôi sẽ vượt qua Kẽm, Dõm để gặp con đường nhựa nối liền Phúc Yên – Vĩnh Yên, quãng đường này cũng khoảng mười hai cây số. Tôi sẽ theo đường nhựa mấy cây số rồi, rẽ vào con đường đất lớn đi đến chợ Sặt. Ðến chợ Sặt rồi, thì thôn nhỏ gia đình Huân ở, tôi đã “cầm lỏng” trong tay. Ðường đi tính ngót bốn mươi cây số; có bỡ ngỡ lắm trong việc hỏi thăm thì cũng chỉ vừa chập tối là cùng, tôi đã nằm trên giường của Huân đợi một mâm cơm nóng sốt, tươm tất. Sau khi đã kể cho nhau nghe hết mọi chuyện tản cư, tôi ngồi uống rượu với Huân. Tôi biết làm gì mà Huân chẳng mua được rượu ngang, chỉ cần một cút thôi. Tửu lượng của tôi và Huân cùng kém cả mà, nhưng chúng tôi sẽ khề khà uống thật lâu cho thực hệt tác phong các bậc tửu đồ ngày xưa.
Chà! như vậy cho bõ một ngày bại cẳng vượt ngót bốn mươi cây số. Ngày hôm sau tôi có thể hoặc đi từ sớm, hoặc ở lại ăn Huân cũng nên, rồi mới lên đường vì quãng hành trình còn lại chỉ chừng ba mươi hay ba mươi mốt cây là cùng. Vừa đi vừa hình dung trước cảnh hội ngộ đó mà tôi thấy hởi dạ, tưởng có thể đi hết ngày mà không biết mỏi chân. Ấy tinh thần tuy có phấn khởi, thêm trí tưởng khéo thêm dệt, nhưng thực tế vẫn giữ được cái uy tín cuối cùng của thực tế. Kể từ sau lúc mặt trời đứng bóng tôi đã thấy hai đầu gối mỏi và hai bắp chân tưng tức. Tôi tìm một quán nước nghỉ chân, mua kẹo vừng và dở nắm cơm nếp ra ăn trưa. Cũng do việc toan tính trước, tôi thổi cơm nếp thật nát để nửa nắm còn lại có thể sang trưa ngày hôm sau ăn còn dẻo.
Lúc mặt trời chếch bóng bước đi thêm lệt bệt, đầu gối đau, bắp chân và đùi tôi thấy nặng ngang nhau; tới lúc mặt trời xế bóng thì hai bên thái dương tôi bừng bừng, trước mắt tôi đổ những hoa cà hoa cải tựa hồ trong đầu có ai đốt một cây bông tí hon và những hoa ánh sáng tóe ra từ hai con mắt. Tôi có cảm tưởng phần thân thể từ háng trở xuống là mình mượn của ai lắp vào. Tôi bước lảo đảo, hình như đi được là nhờ sức gió thổi xuôi nhiều hơn là nhờ ý chí và sức lực của chính mình. Ðến năm cây số cuối cùng thì tôi phải lượm một cái gậy bên vệ đường để chống và cứ đi được một cây số lại ngồi phệt xuống bên lề cỏ để nắn, bóp, chà sát suốt từ đùi đến bắp chân. Mặt trời vừa khuất bóng thì tôi vào đến con đường hẻm do người trong thôn chỉ để tới nhà Huân tản cư. Và cũng đến lúc đó thực tế mới tạm lùi bước nhường sức mạnh của niềm vui tinh thần một chút: tôi ưỡn ngực nhìn thẳng, bước chững chạc.
Cảnh vợ chồng Huân cùng đàn con khi nhận ra tôi thật đúng với câu Kiều “Nỗi mừng biết lấy chi cân” hay để cho vui nếu cân được thì cũng đến nặng bằng bộ giò của tôi lúc đó là cùng.
Tôi thở phào sung sướng quẳng ba-lô vào tay Huân, ngồi bệt xuống cái chõng tre ở giữa sân rồi tức khắc nằm xuống ngửa mặt nhìn mấy con diều hâu đương lượn lờ mãi trên cao vút trông chỉ còn nhỏ như mấy con dơi. Lúc bấy giờ tôi mới ôn lại những hình ảnh vừa nhìn và xét rằng vợ chồng Huân cùng các cháu tôi đều gầy và đen đi nhiều. Có tiếng chõng kê ngay góc gần đấy rồi tiếng Nhàn, vợ Huân:
— Anh Sơn ra nằm đây, chõng ấy để giả ông chủ.
Tôi ngồi nhỏm dậy, mấy sợi tóc dài bị nan chõng cắt đứt mất. Kể ra cũng khá đau nhưng cái mệt lấn mất cái đau, hơn nữa tôi muốn đổi chõng thật nhanh để tiếp tục cho các bắp thịt nghỉ. Ông chủ ở trong nhà vừa ra tôi chỉ kịp cúi chào thật lễ phép và nói một câu xã giao thật ngắn rồi nằm ềnh ngay sang chõng bên. Khi lưng và đầu áp xuống rồi, xúc giác mới báo cho tôi biết là cái chõng này hẹp hơn, ngắn hơn và nan thưa hơn cái chõng kia.
Tiếng Huân hỏi:
— Anh Sơn mệt lắm hả?
Tôi chặc lưỡi:
— Gọi là thôi!
— Anh đi bao nhiêu cây số đến đây?
Nhận thấy nói thật thì không tiện và nói dối thì không nỡ, tôi vờ như không nghe thấy. May sao Huân nói sang câu khác:
— Tôi bảo thổi cơm thêm xuất anh đấy nhé.
Tôi đáp gọn:
— À, cố nhiên! Các cậu ăn cơm tối nhỉ, tưởng mình đến giờ này thì các cậu đã ăn xong tám hoánh và phải đi thổi riêng cho mình niêu khác.
Rồi vui câu chuyện tôi nói tiếp:
— Nếu có gà nhà thì cứ giả vờ thịt đi cho vui.
Huân đáp ngay, nhưng giọng nghe ra hơi ngượng ngập:
— Ồ, thịt gà… vâng có chứ!
Nằm ruỗi đã được một phút hưởng gió mát buổi chiều phe phẩy, tôi lấy lại sức nhiều do đấy có sự “phản tỉnh” ngay để nghĩ thầm:
— Bỏ sừ, nói vậy ngộ nhà Huân không nuôi gà, Huân phải đi lùng quanh xóm thì mình cũng hơi khỉ.
Tôi vừa toan hỏi lại Huân xem nhà có gà thực không thì Huân đã đứng dậy đi vào nhà. Không hiểu Huân nói gì, chỉ biết sau đó con cháu lớn Thu Hương tất tưởi đi ra ngõ. Khi Huân tới bên, tôi cũng vừa vỗ lên túi con áo sơ-mi để sực nhớ ra rằng mình có một điếu Cotab của bạn cho mà chưa hút.
Vừa rút điếu thuốc ra khỏi túi, tiếng Huân reo vui:
— À thuốc lá!
Tôi nhớ ngay Huân vốn nghiện nặng thuốc lá thơm nên lanh trí đáp liền:
— Gặp một thằng bạn giữa đường cho đấy, tôi vốn dưng dửng với thuốc lá nên để dành cho cậu.
Tôi vẫn nằm ngửa trên chõng, ruỗi thẳng chân cho máu chảy đều và khẽ đưa mắt để khuôn mặt Huân lọt vào trong nhãn giới; vì lần này trông nghiêng nên khuôn mặt Huân có những nét gầy hốc hác, mà lúc nãy có lẽ vì trông thẳng, có lẽ cả vì chân mỏi mắt hoa nữa nên tôi không nhận thấy. Châm xong điếu thuốc lá, môi Huân dẩu ra để hít lấy khói thuốc, mấy sợi râu mép và râu cằm được dịp nổi bật lên trong ánh chiều bâng khuâng khiến khuôn mặt Huân càng đượm một vẻ xanh xao sầu thảm. Tôi đặt thầm nghi vấn: Hay là ngày nay Huân cũng hoàn toàn khánh tận, và gia đình Huân cũng hoàn toàn sống kiểu độ nhật như gia đình tôi hiện giờ bên bờ sông Ðáy, dưới chân Tam Ðảo?
Huân không biết là đương bị tôi ngắm, vừa hút thuốc lá vừa tuần tự hỏi kỹ về mọi chi tiết tản cư của gia đình tôi. Tôi vẫn đáp lời và vẫn tiếp tục quan sát. Cách Huân hút thuốc quả là cách hút của một người nghèo đã lâu lắm nay mới được một điếu.
Tôi hốt hoảng ôn lại một lần nữa lời vừa nói khi nãy: “nếu có gà nhà thì cứ giả vờ thịt đi cho vui” và tự thấy mình vô duyên biết mấy.
Ðến lượt tôi hỏi lục vấn về cách chạy loạn của gia đình Huân. Tôi được biết hồi còn ở Ninh Bình vợ chồng Huân buôn bán khá. Sau vụ quân Pháp nhảy dù ở Ðồng Quan, vợ chồng Huân sợ chúng sẽ tấn công toàn thể Liên khu Tư bèn mang cả con cái theo đường Hòa Bình Vụ Bản đường số 6 rồi vượt sông Hồng sang Vĩnh Yên. Bị bom napalm thiêu chụi hết đồ đạc, một lần nữa Huân chuyển gia đình xuống Phúc Yên, ở đây.
Hỏi về cách sinh sống hiện tại thì Huân cho biết Nhàn cùng đứa con gái lớn lên mười hai Thu Hương vẫn sớm gánh đôi bồ hàng sén ra chợ Sặt bán, chiều gánh về.
Tôi hỏi thêm:
— Thế hàng sén của Nhàn có những thứ gì?
Huân trả lời hoàn toàn ngoài đề:
— Ðường từ chợ Sặt về đây ngắn, nên việc sớm gánh đi tối gánh về không có gì là vất vả lắm.
Thấy tôi ngồi dậy, Huân cười hỏi, tôi biết để lảng câu chuyện:
— Anh khỏi mệt rồi chứ?
Tôi gật đầu và đáp với giọng cố làm cho trong sáng để chứng tỏ tôi không có gì thắc mắc:
— Khỏi mệt rồi! Cậu ở đây rộng và thoáng thật đấy.
Sự thực tôi ngồi nhỏm dậy vì thấy Nhàn đương vo gạo ở đằng góc bể. Cứ trông cái giá vo và cách xóc gạo tôi cũng thấy rõ ràng nồi cơm sắp thổi không thể là nồi cơm đủ cho ba người lớn và ba đứa trẻ. Hai đứa cháu nhỏ của tôi một trai, một gái quãng tuổi lên năm và lên bảy, cùng gầy gò và xanh xao như nhau lúc đó vẫn quấn lấy bên Nhàn.
Cũng cảnh đó, một năm trước đây, đã diễn ra trong gia đình tôi, hồi chúng tôi còn ở Bố Hạ, Bắc Giang. Tôi còn nhớ hôm đó ông bác tôi từ Bến Tuần Lục Liễu sang chơi. Nguyên nửa tháng trước đây, thầy tôi và tôi có tới Lục Liễu thăm người, được người thết cơm rượu thịt gà, trịnh trọng lắm. Lần này lẽ cố nhiên thầy tôi cũng phải nghĩ cách giả nợ, mặc dầu nhà đương rất nghèo túng. Dưới chuồng còn một con gà mái đẻ: phải làm thịt. Trong thúng còn hai đấu gạo định để thổi độn ngô, nay bỏ ngô để thổi cơm trắng. Bữa rượu thết hôm đó ngồi tiếp bác, có thầy tôi, tôi và thằng em thứ hai.
Ðể đáp câu nói của bác: “Thím Hai vào ăn một thể cho vui” mẹ tôi cười ròn và rất tự nhiên:
— Mời bác sơi rượu với thày cháu, em phải trông cho mấy cháu bé ăn ở dưới này.
Kỳ thực các em bé tôi có gì mà ăn!
Khi bác tôi ra về, cơm thừa trong nồi còn chừng hai bát. Lẽ cố nhiên là thầy tôi, tôi và thằng em thứ hai đã phải hết sức ăn cầm chừng mới được vậy. Mẹ tôi đơm một bát cho thằng em út và bát kia cho đứa em gái thứ tư của tôi, năm đó lên tám. Mẹ tôi ăn cháy. Ðứa em gái lên tám của tôi đỡ bát cơm rồi cúi mặt xuống khóc lặng lẽ. Nó biết là cảnh nhà bần bách quá rồi. Mẹ tôi thấy vậy thì vỗ vai nó rồi vừa cười vừa khóc, cả nụ cười với hai dòng nước mắt cùng chân thành như nhau, hẳn các bạn thừa hiểu vì sao. Tôi cũng vội quay đi để kịp dấu hai giọt nước mắt nóng hổi vừa tràn khỏi bờ mi.
Ngồi nói chuyện hàn huyên với Huân, tôi giữ bề ngoài bình thản nhưng bên trong, lòng tràn ứ kỷ niệm chua chát.
Lẽ nào ngày nay tôi để Nhàn và các cháu tôi tái diễn phần dưới tấn bi kịch năm xưa?
Tôi thoáng thấy cháu Hương hai tay ấp vào ngực đi quanh tường đất thấp nhà hàng xóm để có thể vượt tường vào thẳng trong bếp. Nhưng khi cháu Hương vừa nhảy xuống thì tự hai bàn tay bé nhỏ của nó tuột ra cái mề gà sống có một quãng lòng ngắn dính ở đầu. Tôi vờ ngẩng nhìn ngọn tre lắc lư trong gió chiều như thể mình không biết gì.
Huân bảo vợ:
– Em làm thức nhắm trước rồi thổi cơm sau.
Nhàn đáp “vâng” rồi cười giọng cười ròn tan y như tiếng cười của mẹ tôi ngày nào, hay nói cho đúng, đó là tiếng cười đặc biệt của bất cứ người đàn bà Việt Nam nào trong những cảnh nhường nhịn kín đáo. Tiếng cười tôi nghe mà xót xa, mà tự nhiên có ý nghĩ ngộ nghĩnh: giả sử sau này có quyền hành, nhất định ở mỗi công trường chính của mỗi thành phố tôi sẽ cho dựng tượng bán thân một người đàn bà Việt Nam để tượng trưng cho tình mẫu tử, đức hy sinh đáng được kính mến vào bậc nhất thế giới của dân tộc
Vừa kịp có một ý định, tôi thấy cần phải hành động nhanh chóng, bèn đứng dậy đủng đỉnh ra ngõ.
Huân hỏi:
— Anh đi đâu đó?
— À, tôi đáp, đi xem qua phong cảnh thôn này một chút.
Rồi tiến ra đầu thôn trên con đường dẫn tới chợ.
Ánh chiều vừa tắt, vừng trăng rằm tròn vành vạnh lên ngôi, óng ánh như tình cảm một người con gái đến tuổi vừa biết rằng mình đẹp. Nhìn trăng tôi càng thấy vững tâm trên quãng đường trường mà tôi sắp phải đi nốt.
Ðợi mười lăm phút qua, tôi quay về làm giáng hốt hoảng bảo Huân:
— Hỏng rồi cậu Huân ạ! Như lúc nãy tôi nói là sau nửa tháng nghỉ phép để sống với gia đình, rất có thể tôi sẽ trở lại làm việc trong ty Thông Tin Vĩnh Yên. Tôi vừa gặp ông trưởng ty ngoài chợ, ông ta nhất định kéo mình đi dự hội nghị thông tin liên ty Vĩnh Phúc (Vĩnh Yên – Phúc Yên) ngay bây giờ.
Huân rẫy nẩy người, chỉ mâm thức ăn úp lồng bàn trên chõng:
— Sao, ngay bây giờ là thế nào?
Nhàn nghe rõ câu chuyện cũng nhô ra khỏi bếp, tay cầm đôi đũa xào nấu, rồi nói:
— Ăn cơm đã anh ạ, em đương làm món cánh gà xào chua ngọt mà anh thích.
Tôi tiếp tục buộc lại ba-lô và đáp:
— Thôi được chẳng lần này thì lần khác, cô nên nhớ từ nay tôi công tác ngay tỉnh bên chứ có đâu xa xôi như trước.
Huân mở lồng bàn cho tôi thấy đĩa miến xào mề gà còn bốc khói và đĩa thịt gà luộc tuy không được đầy đặn nhưng cũng khá tươm, rồi bảo tôi:
— Ðã thế anh hãy ngồi đây, chúng ta nâng chén luôn, cơm mang lên sau là vừa.
Tiếng Nhàn họa theo lập tức:
— Phải đấy.
Óc tôi thoáng nhớ lại một kỷ niệm ăn giỗ năm đói (…) và cương quyết khoác ba-lô lên vai:
— Ô hay — (tôi vừa cười vừa nói, tiếng cười, lạ thế, cũng trong và ròn như tiếng cười của mẹ tôi năm xưa, và tiếng cười của Nhàn khi nãy) — các cậu làm như thể tôi là khách không bằng.
Vừa lúc đó thằng bé cháu út ngã và khóc. Dịp may hiếm có, tôi bảo Huân:
— Kìa cậu dỗ cháu ngay đi. Thôi tôi đi, cậu đừng phải tiễn.
Nhàn nhô ra khỏi bếp:
— Khổ, sao anh vội thế? Ðâu phải là khách, nhưng anh em đã lâu quá mới gặp nhau.
Tôi giơ tay chào đùa kiểu quân sự:
— Ối chà, chuyến này còn nhiều dịp gặp nhau lo gì. A-lê! me-xừ Huân ra dỗ cháu đi kìa. Thôi nhé chào cả nhà.
Vợ chồng Huân buồn thiu không chào lại được tôi, trong khi tiếng hai con cháu lớn lanh lảnh:
— Lạy bác ạ… Lạy bác ạ…
Tôi mỉm cười nhìn chúng một lần nữa, đứa nào cũng gầy và đen. Chúng vẫn còn giữ được lối chào kiểu cách Hà Nội hồi chưa tác chiến.
Tôi vội vã ra khỏi xóm, sợ Huân theo tiễn. Ra tới đầu làng, nhìn bóng mình in dưới chân, tôi mới biết là chiều đã thật hết, trăng bắt đầu tỏ …
Doãn Quốc Sĩ
(Nguồn : ‘Việt Nam Thư Quán’)