HỒI KÍ (Phần VI, Chương XXX2)

Nguyễn Hiến Lê

PHN VI 
Giai đo
n 1975 – 1981
(Ph
n này viết xong năm 1980, năm 1981 sa li nhiu ch)

CHƯƠNG XXX 

CHẾ ÐỘ TẬP THỂ Ở MIỀN NAM

…..

….

Ngày 30-4-75 – VIỆT NAM THỐNG NHẤT 

Nhưng hiệp định Paris vừa mới kí xong – tất nhiên có chữ kí của Nga, Trung hoa và một số nước khác như Pháp, Anh… – hai bên trao đổi tù binh với nhau xong, Mĩ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ. Tôi không hiểu có một sự thỏa thuận ngầm nào giữa các cường quốc nắm vận mạng của Việt nam không, có những uẩn khúc, những bí mật nào không. Theo luật quốc tế, phải 50 năm sau, những bí mật đó mới được công bố, lúc đó những kẻ chịu trách nhiệm chết hết rồi.

Một bên (Bắc) mới thắng được Mĩ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương hăng; một bên (Nam) bị Mĩ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu. Quân Bắc tiến tới đâu, dân chúng một phần sợ những vụ chém giết, chôn sống như ở Huế tết Mậu Thân, dắt díu, bồng bế nhau bỏ chạy; một phần ghét Mĩ, ghét chính phủ Thiệu, theo quân đội giải phóng cho nên cuộc tiến quân của Bắc dễ như chẻ tre, chỉ trong ít tháng chiếm trọn miền cao nguyên và miền Trung Việt, gần tới Biên hòa. Tổng thống Dương văn Minh biết chống cũng vô ích, xin hai bên ngừng chiến để đỡ chết dân và chính quyền miền Nam chờ đợi quân đội miền Bắc vào Sài gòn để giao lại quyền hành, nói tóm lại là xin đầu hàng vô điều kiện; và ngay 12 giờ trưa ngày 30-4 tướng Trần văn Trà của Mặt trận ngồi xe thiết giáp tiến vào Dinh Ðộc Lập. Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kĩ thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao trạch Ðông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam kinn tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước thoát thân như Nguyễn văn Thiệu, Ðại sứ Mĩ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam vang mà về nước, và Khmer đỏ vào Nam vang 13 ngày trước cộng sản Bắc Việt vào Sài gòn.

Từ ngày 20-4-75, Sài gòn rất xôn xao. Một ông bạn thân của tôi 56 tuổi, ở gần nhà tôi, đương đau mà gia đình cũng “bốc” lên phi cơ để tị nạn, mới tới Manille thì chết, phải chôn ở đó. Một cô em ruột nhà tôi, cô Trịnh thị Mộng Ðơn cũng dắt con lên phi cơ qua với chồng bên Mĩ.

Rồi chính cô em út tôi, Nguyễn thị Mùi, gần 60 tuổi, cũng theo gia đình bên chồng qua Mĩ; vợ chồng tôi giữ lại ở với chúng tôi, cô không chịu. Trong số ba người em, tôi mến cô nhất, mà cô cũng quí tôi. Cô làm dâu họ Tô ở Hà nội, có ba người con đều vào hạng học giỏi. Con gái lớn, Tô Lệ Hằng đậu tiến sĩ vật lý, tính tình hợp với tôi, hiện ở Pháp, giúp đỡ tôi được nhiều việc, vợ chồng tôi coi ba cháu đó như con. Cô đi rồi, ở Sài gòn tôi không còn ai ruột thịt cả.

Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài gòn thì Nam Bắc cũng thương thuyết với nhau – trước Bắc đòi Mĩ rút đi, Thiệu rút đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa? – mà hiệp định Paris còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.

Mười một giờ sáng ngày 30-4, ông láng giềng ở phía trong nhà tôi cùng với con lái một chiếc Vespa hớt hơ hớt hải di cư, để lại nhà cửa cho bà cụ thân sinh 77 tuổi và một chị bếp.

Mười hai giờ tôi bắt đài phát thanh, được tin tướng Trần văn Trà vào dinh Ðộc Lập, Ðại tướng Dương văn Minh với vài nhân viên trong nội các ra tiếp, bảo:
– Chúng tôi chờ các ông tới để bàn giao.

Trần văn Trà đáp:
– Các ông còn gì trong tay nữa mà bàn giao?

Tin đó làm tôi rất buồn: thế là hiệp định Paris đã bị xé bỏ, không còn chuyện ba thành phần trong chính phủ miền Nam nữa, mà chỉ còn có Mặt trận giải phóng, tức cộng sản.
Chiều 30-4 tôi ra đầu ngõ thấy nhiều chiếc Honda cắm cờ đỏ sao vàng vụt qua vụt lại, người ngồi trên xe toàn là thanh niên, hớn hở, mỉm cười với dân chúng hai bên đường. Sau này người ta gọi họ là “chiến sĩ 30”.

Chiều hôm sau, 1-5, tôi mới lại chợ Trương Minh Giảng. Nhà nào cũng phấp phới cờ đỏ sao vàng, người qua lại tấp nập, hơi có vẻ tưng bừng, nhưng cũng có nhiều bộ mặt đăm chiêu. Chi nhánh ngân hàng Việt nam thương tín ở gần chợ đóng cửa im ỉm. Chợ về chiều đã vắng. Tôi lại nhà bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm. Cửa sắt đóng kín. Một chị giúp việc cho hay cả gia đình bạn tôi đã di cư tối hôm 28-4 vào giờ chót; vì quyết định trễ cho nên không kịp báo cho tôi biết trước. Tôi sửng sốt: “Mấy hôm trước, bác sĩ còn quyết tâm ở lại kia mà!” Chị giúp việc bảo: “Ông bà tôi vì tình con gái, chàng rể và mấy cháu ngoại mà phải đi, nhưng định 5-6 tháng sẽ trở về, cho nên đồ đạc trong nhà còn để lại hết”. Nhưng anh bạn tôi không bao giờ trở về nữa, hai năm sau chết ở Paris vì bệnh căng xe máu (leucémie).

Tôi lủi thủi về nhà bảo nhà tôi (bà họ Nguyễn): “Người thân đi hết rồi, không còn ai nữa, buồn quá”.
Khoảng 25-4 phát hành cuốn sách thứ 100 của tôi, nhan đề là Mười Câu Chuyn Văn Chương. Tôi đợi đường hàng không Sài gòn – Paris tái lập để gửi thư và một bản cuốn đó cho vợ con tôi mắc kẹt ở Paris. Tôi không nhớ mấy tháng sau mới nhận được thư của họ, nhận được tôi hồi âm liền; còn cuốn Mười Câu Chuyện Văn Chương thì non hai năm sau chính phủ mới cho phép gởi qua.

Tôi phục quân đội giải phóng rất có kỉ luật: vào Sài gòn mà không gây một vụ đổ máu (trước đó ai cũng ngại có một cuộc “tắm máu” như Huế năm 1968), một vụ cướp bóc nào; còn giúp đỡ dân chúng nữa. Tôi lại tràn trề hi vọng khi chủ tịch Mặt trận giải phóng, luật sư Nguyễn hữu Thọ, tuyên bố miền Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa, sẽ trung lập, giao thiệp với Tây phương, về kinh tế sẽ có 5 thành phần từ quốc doanh đến công tư hợp doanh, tư doanh v.v… Như vậy thì rất hợp với sở nguyện của mọi người, quá sở nguyện của giới trí thức nữa.

Nhưng chỉ được non một năm rồi người ta rục rịch thực hiện sự thống nhất Bắc, Nam và cuối năm 1976 thì không còn miền Nam nữa, từ Lạng sơn đến Cà mau là một nước theo chủ nghĩa xã hội như Nga, tiến bộ hơn cả Trung hoa, Ðông Ðức nữa vì hai nước này vẫn còn là dân chủ cộng hòa.

Từ năm 1975 đến nay, hai vợ chồng tôi ở lại Sài gòn (lâu lâu nhà tôi mới về Long xuyên ít bữa), nương tựa lẫn nhau để làm tròn bổn phận công dân, thích ứng với thời mới, tìm hiểu chế độ mới.

Chú thích

(1) Danh t này dch t danh t société socialiste ca Pháp. Nghe kì cc lm. Pháp có danh t société nghĩa là xã hi, đoàn th; do société mà có danh t social: thuc v xã hi, đoàn th; có tính cách xã hi, đoàn th; ri social li đ ra danh t socialisme đ tr nhng ch nghĩa nhm thay đi hoàn toàn mt chế đ, nht là chế đ s hu tài sn đ ci thin đi sng lao đng, đc bit là đi sng th thuyn.

Tôi thy chế đ ca nước ta ngày nay, cũng như ca Nga, Trung Hoa… có đim này đc bit khác vi các nước tư bn là tính cách tp th: đng ch huy tp th, dân làm ch tp th (theo lí thuyết), sn xut tp th: nông trường quc doanh, hp tác xã nông nghip, xí nghip quc doanh, hoc công tư hp doanh, t hp sn xut…, như vy đ cho cá nhân, mt s nh tư nhân, không còn nm được s sn xut mà bóc lt vô sn na.

Còn v qui tc: có làm thì có ăn, không làm thì không ăn; làm theo kh năng, hưởng theo sc mình làm được, thì không khác gì xã hi tư bn; ngay đến tư sn cá nhân cũng vn được tôn trng (ít nht là trên lí thuyết), hơn na, còn được truyn c cho con cháu, ch khác chế đ tư bn là nó b hn chế đ khi b lm dng mà bóc lt người nghèo, thế thôi.

Vì vy tôi nghĩ chng cn phi dch sát mà có th dùng danh t xã hi tp th đ thay thế danh t xã hi xã hi ch nghĩa. Xã hi tp th tiến lên xã hi cng sn, như vy xuôi hơn là nói xã hi xã hi ch nghĩa tiến lên xã hi cng sn.

(2) Công vic này ngày nay còn tiếp tc không hay ch rm r được mt thi, quc gia thng nht ri thì ngưng y như công vic kho c Trung hoa.

Hết: Ngày 30-04-1975, Xem Tiếp: Chế độ mới

.

Tìm Kiếm