Nguyễn Hiến Lê

PHN VI 
Giai đo
n 1975 – 1981
(Ph
n này viết xong năm 1980, năm 1981 sa li nhiu ch)

CHƯƠNG XXXIII

LẠI TIẾP TỤC VIẾT

…..

Hồi kí kết hiệp định Paris tôi đã tính sáu mươi lăm tuổi hòa bình trở lại rồi, tôi sẽ nghỉ. Cuối năm 1975, vừa đúng 65 tuổi âm lịch, tôi nói với một bạn thân, ông Giản Chi:
– Chúng mình già rồi, không nên làm gì nữa, chỉ cần người ta cho mình ở yên để coi những lớp tuồng trong buổi giao thời.

Ông đáp:
– Như vậy là tốt nhất.

May mắn là chính quyền cách mạng thấy tôi đa bệnh và tuổi cao, cho tôi được thong thả. Nghe nói ở Nga, người già khỏi phải học chính trị, vì người ta nghĩ tuổi đó nan hóa, nên chú trọng vào sự huấn luyện tuổi trẻ hơn.

Tuy nhiên hai năm đầu, vì đã lỡ có chút danh, tôi cũng không được nhàn, phải học tập đường lối của chính phủ, làm một số bổn phận công dân, dự vài ba cuộc hội họp với tư cách trí thức yêu nước hoặc nhân sĩ, và tiếp nhiều bạn văn ở bưng về, ở Bắc vô.

Tôi lại may mắn là khỏi phải lo về gia đình. Vợ tôi, bà họ Trịnh, mắc kẹt ở Paris từ 1972 vì phải trông hai đứa cháu nội, cha mẹ chùng đã li thân nhau, đương xin tòa cho li dị. Một hai tháng sau ngày 30-4-75, liên lạc được với ngoại quốc, tôi báo tin nhà cho họ biết, và ít tháng sau tôi cũng được tin bên đó.

Ở bên đây chỉ còn tôi và bà họ Nguyễn. Chị giúp việc nhà xin nghỉ luôn để về quê ở Thừa Thiên làm ruộng. Nhà tôi kêu một đứa cháu, nữ sinh Ðại học sư phạm Sài gòn lại ở cho bớt vắng vẻ. Và tôi yêu cầu nhà tôi ở lại Sài gòn với tôi cho tới khi mọi việc ổn định rồi hai vợ chồng sẽ về Long xuyên luôn cho nhà tôi gần bà con họ hàng và khi chết khỏi phải xa quê.

TIẾP BẠN VĂN – DỰ CÁC CUỘC HỘI HỌP

Như một chương trên tôi đã nói, chiều ngày 1-5-75, tôi mới ra khỏi nhà, đi thăm bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, nhưng ông đã cùng gia đình di tản tới đảo Guam, rồi từ đó qua Pháp. Cô em ruột tôi, Nguyễn thị Mùi và cô em ruột nhà tôi, Trịnh thị Mộng Ðơn cũng ở đảo đó để đợi qua Mĩ.

Nhà văn Nguyễn Văn Bổng, bút hiệu là Trần Hiếu Minh, tác giả tiểu thuyết Con trâu và Rừng U minh, hồi 30-4-75, chắc đương hoạt động ở thành, nên tới ngày 3-5 đã lại thăm tôi, do một bạn văn giới thiệu. Ông đã đọc một số sách của tôi, thích cuốn Tô Ðông Pha, nên muốn làm quen. Người Trung, ngoài ngũ tuần, có học khá, ăn nói thận trọng.

Vài hôm sau, cũng vào buổi tối, nhà văn Nguyễn Huy Khánh cùng với cô Hợp Phố (em Thiên Giang) cũng lại chơi. Tôi quen ông Khánh từ non hai chục năm trước, viết bài tựa cho cuốn Khảo về tiểu thuyết Trung hoa của ông và giới thiệu nhà Khai Trí xuất bản. Ông là nhà biên khảo biết chữ Pháp, chữ Hán, nghe nói có một nhiệm vụ khá quan trọng trong thời kháng chiến. Sau hiệp định Genève ông ở lại Nam, hoạt động ở Sài gòn, bị chính phủ Diệm bắt giam ở Tây ninh, tra tấn, què một bàn chân, sau lại ra bưng hoạt động, nhờ vợ đem cho tôi coi bản thảo một bộ tự điển Hán Việt xem có thể xuất bản được không. Tôi đáp rằng công phu đấy, nhưng dùng nhiều dấu hiệu phiên âm của Trung hoa, các nhà in Sài gòn không có, nên không nhà xuất bản nào chịu nhận. Ông cũng xin tôi vài tác phẩm tôi mới in. Sau ngày 1-5-75, ông về Sài gòn, điều khiển tờ Sài gòn giải phóng, rồi qua Ðại đoàn kết, cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc, mặt trận này gồm đại diện các giáo phái và trí thức trong nước để làm cố vấn như cố vấn cho chính quyền, không có quyền hành gì cả. Hồi nằm vùng ở Sài gòn, ông có viết ít bài cho tờ Bách Khoa, nên có cảm tình với anh em Bách Khoa, và giúp cho tôi được ít việc trong buổi đầu sau ngày 30-4-75. Ðối với tôi, ông thành thực cởi mở, khác hẳn Thiên Giang.

Khoảng một tháng sau, Thiên Giang (đã theo kháng chiến sau vụ tết Mậu thân, 1968), từ Hà nội vô, cùng với ông Khai Trí lại thăm tôi, đương lúc tôi đau. Về chí hướng chúng tôi đã xa nhau từ lâu, cho nên gặp nhau tuy niềm nở mà không thân mật, và từ đó cũng không gặp lại nữa. Ông và bà vợ được ăn lương nhân sĩ của thành phố; ông, xưa ở trong nhóm đệ tứ, không được giao cho trách nhiệm gì cả; bà làm chủ bút hay chủ nhiệm tờ Phụ nữ ở Sài gòn trong ít lâu rồi sau cũng ngồi không.

Một người nữa, Lữ Phương, giáo sư Trung học Thoại Ngọc Hầu, cũng ra bưng sau tết Mậu thân, được làm thứ trưởng ở Hà nội, mà sau ngày 30-4-75, cũng chỉ làm nhân sĩ ở Sài gòn chứ không được giao cho trách nhiệm gì cả. Chính quyền hình như không tin những người gần tới giờ chót mới theo cách mạng.

Tôi không dự cuộc mít tinh đầu tiên ở trước dinh Ðộc lập để mừng chiến thắng (không nhớ vào ngày nào, khoảng trung tuần tháng 5 dương lịch) vì vừa lớn tuổi, vừa đau. Nghe nói tới cả triệu người. Các ông tổ trưởng phải đi từng nhà gọi dân đi mít tinh từ nửa đêm, rồi dắt họ tới địa điểm đã chỉ định. Họ chầu chực ở cửa dinh từ bốn năm giờ sáng, và chín mười giờ mới giải tán. Nhiều ông già bị một cơn mưa mà phải đứng bốn năm giờ liền, về nhà đau cả tuần lễ.

Sau ngày mít tinh đó tôi mới lại tòa soạn Bách khoa. Tấm bảng đã bị hạ. Gặp bốn năm anh em, ai cũng có vẻ lo lắng. Họ cho hay từ ngày 2-5, nhiều nhà báo, nhà văn ở Sài gòn mỗi ngày lại trụ sở tạm thời của một cơ quan văn hóa nào đó ở đường Nguyễn Du, từ 7 giờ sáng tới trưa để xin “chỉ thị” của cách mạng. Họ tự ý tới chứ không ai mời; cán bộ cách mạng bận việc tíu tít, mà cũng chưa được chỉ thị của cấp trên, để mặc họ ngồi đó, sau đưa cho họ một tờ giấy, bảo họ ghi những hoạt động của họ trong thời Diệm, Thiệu. Ngồi không suốt một tuần, họ chán, lần lần không tới họp nữa. Họ có mặc cảm tội lỗi. Tội nghiệp nhất là một nhà văn già được giấy mời của hội Nhà văn giải phóng, lại ngồi đợi ở cửa trụ sở từ sáu giờ sáng, mà 8 giờ họ mới họp.

Trước ngày 30-4-75 tôi đã bị chứng nước tiểu đục, trắng như nước vo gạo, đi tiểu buốt, bác sĩ Phiếm trị không hết, mà da bao qui đầu co lại, muốn bít lỗ tiểu. Sau ngày 30-4-75, tôi nhờ một bác sĩ trẻ, Nguyễn Chấn Hùng, ở nhà thương Bình dân, độc giả của tôi, trị cho. Cậu ấy cho là tại da bao qui đầu cả, cắt đi, cho uống ít thứ thuốc nữa, hết luôn.

Trong thời gian trị bệnh, Hội Nhà văn giải phóng Sài gòn-Gia định mời tôi dự buổi bầu ban chấp hành, tôi không dự được.

Một hôm đi mua thuốc, tôi gặp ông bà Trần Thúc Linh. Tôi quen ông Linh từ khi ở Long xuyên lên Sài gòn, hồi đó ông làm chánh án (?) ở Tourane, sau vô Sài gòn làm tổng thư kí bộ Thông tin, viết sách báo về luật (cuốn Tự do cá nhân của ông do tôi xuất bản lần đầu). Ông lái xe hơi, thấy tôi, vẫy lại, đưa tôi về nhà. Tôi nhận thấy ông bà đều có vẻ buồn, đoán được lí do, nhưng không hỏi. Mấy năm trước ngày 30-4-75, ông hoạt động ngầm cho cách mạng, bị chính phủ Thiệu giam hai lần; một người con trai của ông, tên là Chương, đương học Y khoa thì ra bưng, một hai năm rồi về, ít lâu sau bị giết một cách tàn nhẫn: xô hay liệng từ từng lầu thứ ba trường Y khoa (?) xuống đất, chết tức thì. Cái chết đó làm cho ông bà rất đau xót. Ngày đưa đám cháu Chương – Cháu rất mến tôi – trông thấy tôi, ông nức nở khóc ròng, tôi không hiểu nước mắt ở đâu ra nhiều thế.

Giải phóng rồi mà buồn, ít nói, tôi chắc là ông có nhiều tâm sự. Ít lâu sau, tôi thấy tên ông trong danh sách Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh (thành phố Sài gòn đã đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1978, bà Linh xin phép qua Pháp thăm con, đợi cả năm mới được phép. Ông ở lại với người con trai út, cũng ở trong Mặt trận Tổ quốc. Tháng 3-1980 tôi hay tin ông đứt mạch máu ở óc, tê liệt nửa người, như ông Nguyễn Ngọc Thơ trước kia. Bệnh viện Thống Nhất trị cho ông gần hết, rồi ông xin qua Pháp trị tiếp. Hiện ông ở Pháp. Ông ham hoạt động, có sáng kiến, có đởm, có nhiệt tâm, ăn nói hoạt bát.

Tháng 6-1975, cô Cao thị Quế Hương trong ban Trí vận khu Sài gòn – Gia định dắt Nguyễn Kim Thản viện trưởng viện Ngôn ngữ học Hà nội lại thăm tôi. Nói chuyện với nhau khoảng 1 giờ về vấn đề giữ cho tiếng Việt được trong sáng. Tôi tuyên bố rằng đã thôi nghiên cứu về ngữ pháp đã non mười năm rồi, lúc này chỉ đọc Trung triết thôi, và bảo ông ấy tìm thăm ông Trương Văn Chình và bác sĩ Trần Ngọc Ninh, hai nhà này biết nhiều hơn tôi về ngôn ngữ học.

Vài tổ chức văn hóa mời tôi dự các buổi diễn thuyết, tôi đều không dự được.

Tháng bảy, Hội nhà văn giải phóng mời tôi dự một cuộc tọa đàm với hai cán bộ văn hóa cao cấp ở Bắc vô: thứ trưởng Hà Huy Giáp và thứ trưởng Hà Xuân Trường. Chỉ có năm nhà văn ở Sài gòn được mời, Vũ Hạnh, bà Phương Ðài, Nguyễn Ngọc Linh…, mà tôi là nhà văn duy nhất không nằm vùng, nghĩa là không hoạt động bí mật tại thành.

Tôi lớn tuổi nhất, đưa ý kiến trước hết, yêu cầu chính quyền vạch rõ đường lối văn hóa của Bắc, giải tỏa nỗi thắc mắc và lo ngại của cả ngàn nhà văn trong Nam như trường hợp nhà văn Bình Nguyên Lộc (ông này có lần thách đố các học giả miền Bắc trong một tác phẩm biên khảo của ông, nên sợ bị trừng phạt) và nên cho họ biết sớm có thể dùng họ được không, nếu không thì họ bỏ nghề, kiếm nghề khác.

Ông Hà Huy Giáp có vẻ cởi mở, nhưng không trả lời thẳng, dứt khoát câu hỏi sau của tôi và bảo cứ phục vụ nhân dân là đúng với đường lối của chính phủ rồi; nhà văn nào cũng được tự do phát biểu ý kiến, tự do sáng tác theo cảm nghĩ của mình, và những nhà văn như Bình Nguyên Lộc cứ yên tâm, đừng có mặc cảm gì hết. Chính quyền theo chính sách đoàn kết và khoan hồng mà! Ông nói thêm: “Dĩ nhiên những tác phẩm nào không phù hợp với chủ trương của chính phủ thì chính phủ không dùng”. Nghĩa là không có tự do xuất bản, ra báo nữa. Và tới nay (1981) trong số cả ngàn cây bút ở Nam, chỉ độ mươi người được chính phủ dùng toàn là những người đã hoạt động chìm, còn thì thất nghiệp hết.

Ông phàn nàn rằng cán bộ Sài gòn đã đốt nhiều sách về văn thơ cổ của ta, cả nhiều bộ tự điển nữa.

Tôi hỏi ông: “Trong bộ Văn hóa Trung quốc hiện đại, tôi chê cuộc Cách mạng văn hóa năm 1966 của Mao Trạch Ðông, như vậy có hợp với đường lối chính phủ không?” Ông đáp rất khéo: “Tôi không biết cuộc cách mạng văn hóa đó ra sao, nhưng Trung hoa có đường lối văn hóa của Trung hoa, mình có đường lối văn hóa của mình”.

Sở dĩ tôi hỏi vậy vì hồi đó, sở Thông tin văn hóa thành phố đương kiểm duyệt những tác phẩm của tôi. Kết quả là họ không cấm một cuốn nào cả, như một chương trên tôi đã nói, chỉ bảo bộ Văn học Trung quốc hiện đại còn phải xét lại (rồi họ im luôn); còn cuốn Bài học Israel thì họ chỉ khuyên các sạp sách cũ đừng nên bày bán. Lần đó họ cấm toàn bộ tác phẩm của 56 nhà văn trong Nam mà họ cho là phản động hay đồi trụy. Trong Ủy ban kiểm duyệt đa số là nhà văn trong Nam hoặc đã nằm vùng hoặc có tư tưởng “tiến bộ”. Họ làm việc cũng không khắt khe lắm.

Tháng 8-75 có Ðại hội Trí thức yêu nước họp ở nhà hát thành phố (quốc hội thời Thiệu), tôi được mời dự với tư cách nhân sĩ thành phố. Hai người dìu cụ Á Nam Trần Tuấn Khải leo lên sân khấu, ngồi vào bàn chủ tọa. Cụ ngồi yên, trước sau chỉ nói mỗi một câu đại ý: “Tôi đã tám chục tuổi rồi, nhưng thực ra tôi chỉ mới một tuổi, mới sanh ngày 30-4-75”. Cử tọa im lặng, vì cảm động hay vì buồn cho cụ? Cụ lẩy bẩy đứng dậy ngó thẳng vào hình Hồ chủ tịch khi trỗi bản quốc thiều. Nghe nói mãi đến năm 1979, chính quyền mới trợ cấp cho cụ mỗi tháng 150 đồng, do Huy Cận (hay Chế Lan Viên?) đề nghị.

Trong đại hội đó, một cán bộ trong giai cấp thợ thuyền lớn tiếng mạt sát bọn trí thức. Có vài tiếng vỗ tay rất lớn. Sau cách mạng tháng 8-1945, ở Sài gòn và cũng trong một cuộc họp các nhà trí thức, đã diễn ra một màn y như vậy. Họ mời mình tới để nghe họ mắng. Khi nghỉ để giải khát, tôi bỏ về trước.

Hai tháng sau, có Ðại hội văn nghệ thành phố cũng họp tại nhà hát thành phố, để giới thiệu các hội viên trong đợt đầu, toàn là những văn nghệ sĩ nằm vùng tôi không hề biết tên. Nhà văn Lí Văn Sâm, đã in vài tiểu thuyết hồi 1950, mời tôi phát biểu ý kiến, tôi từ chối, ông ta có vẻ thất vọng.

Trong đại hội đó, tôi ngồi cạnh nhà văn Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí, tác giả cuốn Phê bình và Cảo luận mà tôi đã đọc từ đầu thế chiến. Hồi làm việc ở sở Thủy lợi Sài gòn, tôi biết ông có họ xa bên ngoại với tôi (ông quê ở Ðan loan – Hải dương, người trong họ Lê của cụ ngoại tôi, cụ tú Ðan loan), và làm việc ở sở Bưu điện Gia định, có chân trong đảng xã hội (S.F.I.O.) của Pháp, nhưng chúng tôi không có dịp gặp nhau. Lần này gặp ông, tôi rất mừng, thân với ông ngay. Mập, lùn, lớn hơn tôi vài tuổi, có bệnh huyết áp cao. Ông khen các tác phẩm và bài báo của tôi, bảo: “Ở trong khu bị chiếm mà viết được như vậy là được lắm”. Ông muốn nói tôi can đảm, thẳng thắn chỉ trích chính phủ Diệm, Thiệu.

Trong thời kháng Pháp, ông ra bưng ít lâu, năm 1954 (?) về thành, thời kháng Mĩ, theo Mặt trận giải phóng rồi ra Bắc, được chính phủ ngoài Bắc phái qua Pháp “tham quan” một thời gian. Sau 30-4-75, trở về Sài gòn, làm một nhân sĩ, được cấp lương. Tôi hỏi ông sẽ viết lách gì nữa không?

Ông mỉm cười đáp:
– Thời trước mình viết, ngụy nó có bỏ tù mình cũng không sao (ông đã bị giam mấy tháng trước khi ra bưng lần thứ nhì), bây giờ viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kì quá và lại kẹt cho họ nữa.

Tôi cười, mến ông là người thành thực, có tư cách.

Hai năm sau ông mất vì đứt mạch máu. Trong hai năm đó tôi chỉ thấy ông viết vài bài ngắn; một bài đăng trên tờ Sài gòn giải phóng vào cuối năm 1975, đại ý là: muốn đoàn kết thì đồng bào Bắc nên bớt mặc cảm tự cao đi, còn đồng bào Nam nên bớt mặc cảm tự ti đi.

Ðọc bài đó, tôi viết thư cho ông bảo: “Không biết đồng bào Bắc có bớt được chút mặc cảm tự tôn nào không chứ người miền Nam rất ít ai còn mặc cảm tự ti”.

Ông không đáp, nhưng khoảng một tháng sau, ghé tòa soạn cũ của Bách khoa nói với Lê Ngộ Châu: “Anh Lê không làm cách mạng nhưng đáng quí hơn nhiều người làm cách mạng”.

Chính ông dắt giám đốc nhà xuất bản Văn học ở Hà nội, Như Phong, lại thăm tôi. Tôi tặng ông và Như Phong mỗi người vài tác phẩm của tôi.

Cuối năm 1975, chính quyền phát động phong trào thống nhất quốc gia. Nhà văn Nguyễn Ðổng Chi, tác giả cuốn Cổ văn học sử lại nhờ tôi viết một bài về vấn đề thống nhất, để đăng trong một tạp chí nào đó. Tôi từ chối, lấy cớ là đau và không có tài liệu lịch sử. Giá tôi có viết thì cũng uổng công vì tạp chí ông nói đó sau không thấy ra. Chắc ông ta không hiểu rằng giới trí thức trong này không muốn có sự thống nhất sớm như vậy.

Sau đó ít lâu, Ðào Duy Anh ở Hà nội vào tìm tôi. Hôm đó, gần bảy giờ, tôi đương ăn sáng thì thấy một ông già tóc râu bạc phơ, lùn, to xương, đứng ở ngoài sân, nhìn qua cửa sổ có lưới sắt, hỏi tôi:
– Ông Nguyễn Hiến Lê có nhà không?

Tôi không biết là ông, mà không muốn tiếp người lạ, nên đáp:
– Không. Ông ấy đi Long xuyên rồi. Chưa biết bao giờ về.Ông quay ra.Ít bữa sau, ông trở lại, gặp nhà tôi, xưng danh, nhà tôi cho tôi hay, tôi ở trên lầu xuống tiếp liền.

Hỏi nhau về gia đình, hoạt động văn hóa của nhau, rồi nói chuyện về thời cuộc. Ông khuyên tôi nên coi các cán bộ ở bưng về như con cháu mình, tìm hiểu họ chứ đừng trách họ. Họ gian lao chiến đấu cả chục năm, nay thành công thì tất nhiên muốn hưởng lạc, nắm quyền và tin chắc rằng chính sách của họ đúng, phải có tin như vậy mới làm việc được. Họ ít được học, không có kinh nghiệm về hành chánh cho nên phải dò dẫm. Khi ra về ông hỏi con trai tôi ở đâu, tôi đáp làm kỉ sư bên Pháp, ông bảo: “Tốt, Pháp là một nước văn minh”.

Tôi hỏi ông:
– Làm sao anh biết tôi mà lại thăm?

Ông đáp:
– Tôi vô đây mục đích là kiếm tài liệu viết về các trí thức tiến bộ miền Nam. Khi tới Huế, tôi đã nghe nhiều người nói về anh; tới Nha trang lại được Quách Tấn khuyên vô Sài gòn, nên lại tìm anh trước hết, sau cùng tới Sài gòn, Phạm Văn Diêu cũng bảo vậy và cho tôi địa chỉ của anh.

Năm đó tôi gặp ông một lần nữa, tặng ông ít cuốn sách: Tô Ðông Pha, Sống đẹp. Bảy ngày trong Ðồng Tháp Mười…, ông tặng lại tôi cuốn Tự điển truyện Kiều (viết công phu, nhưng phần hiệu đính sơ sài quá) soạn xong đã từ lâu, đưa nhà xuất bản, bị họ dìm cả chục năm, sau nhờ thủ tướng Phạm văn Ðồng can thiệp, họ mới in cho. Sách mới phát hành mấy tháng thì hết.

Năm sau ông lại vô Sài gòn, chúng tôi gặp nhau vài lần.

Năm 1978, ông trở vô một lần nữa, tôi mời ông ở lại chơi ít ngày, được biết rõ ông hơn. Ông ân hận rằng có hồi làm chính trị, thất bại, tự xét không làm chính trị được, từ đó chuyên về văn hóa. Ông có mặc cảm vì đã nhúng tay vào vụ Nhân văn, Giai phẩm mà bị dìm trên mười năm; ông bất mãn xã hội miền Bắc: con người không có tình nghĩa, trẻ con, thanh niên hư hỏng; cán bộ có tài năng không được trọng dụng (một người con trai ông học ở Nga về, làm phó viện trưởng viện Nghiên cứu nông nghiệp (?) mà ở dưới quyền một ông chánh không biết gì về môn đó); sự kiến thiết rất chậm, lạc hậu hơn miền Nam nhiều; đường sá Hà nội bẩn thỉu, nhà cửa cũng vậy, xe cộ rất thiếu; ông chán nản tới mức ngại rằng ba chục năm nữa, kinh tế vẫn chưa tiến được bao nhiêu, và xã hội chủ nghĩa vài trăm năm nữa vẫn chưa xây dựng xong, mình sẽ bị phương Tây bỏ lùi sau rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy những lời ông khuyên tôi năm 1975 nên khoan dung với các cán bộ ở bưng về chỉ để an ủi tôi thôi, chứ ông không có ý bênh vực họ, mà biết rõ rằng đường lối của họ sai, họ đã nhắm mắt theo Trung hoa.

Năm 1979 ông lại vô Sài gòn, ở sáu bảy tháng, nhưng tôi bận việc, ít có dịp gặp ông. Ông mất một lá phổi, hơn tôi bảy tuổi mà còn mạnh quá: nói chuyện suốt ngày được, chỉ ngồi nghe ông tôi cũng thấy mệt. Ông mượn tôi mấy cuốn sách Trung hoa về Hàn Phi và bản thảo tôi viết về Hàn Phi để kiếm tài liệu viết về Mao Trạch Ðông mà ông cho là “Hàn Phi cộng với Tần Thủy Hoàng”.

Tôi được đọc một tập hồi kí khoảng 50 trang đánh máy chép lại những hoạt động chính trị và văn hóa của ông từ hồi trẻ (khi thôi dạy học) đến 1970. Cơ hồ ông muốn minh oan rằng ông suốt đời trung thành với cách mạng, và ân hận đã không đứng ngoài vụ Nhân văn, Giai phẩm (1). Ông viết được khoảng 40 tác phẩm (kể cả những tập chưa in (như dịch Ðạo đức kinh, dịch Thi kinh, dịch thơ Ðường…), chuyên khảo về sử, hiệu đính văn thơ nôm (truyện Kiều, Hoa tiên…), và nghiên cứu về chữ nôm. Hồi dạy sử ở Ðại học Tổng hợp Hà nội, ông đào tạo được ba nhà biên khảo về sử: Hà văn Tấn, tác giả cuốn Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Phan Huy Lê, tác giả cuốn Lam sơn khởi nghĩa, và Trần Quốc Vượng, người soạn chung với Vũ Tuân Sáu cuốn Hà nội nghìn xưa. Ông là học giả siêng năng và có uy tín nhất miền Bắc.

Hè năm 1981, ông vô Nam nữa, ở năm sáu tháng, đi thăm Rạch giá, Long xuyên, lại ở chơi một ngày với tôi tại đường 26 tháng 3. Trong lúc tâm sự ông tỏ vẻ buồn về thời cuộc, hi vọng có sự thay đổi lớn; và bảo càng đọc tác phẩm của tôi ông càng thấy thích, thèm một cuộc đời viết văn, tự do, độc lập như tôi. Chính ông cũng đã sống một cuộc đời như vậy khi ông mở nhà xuất bản Quan hải tùng thư, còn bà thì mở tiệm sách ở Huế. Ông tiếc thời đó chăng?

Quê ông ở làng Thanh oai (Hà đông), hồi nhỏ học ở Thanh hóa rồi Vinh; sau dạy học ở Trung (Quảng trị?), bà là con một vị tổng đốc ở Huế, cũng có một thời dạy học. Con cái thành tài hết. Em ruột có vài người làm cán bộ cao cấp.

Mấy năm 1975-1979 tôi còn được gặp non mười nhà văn và học giả miền Bắc như Vũ Tuân Sáu, bạn học trường Bưởi của tôi, có cử nhân luật, đọc thông chữ Hán, chữ Nôm, chuyên biên khảo về danh nhân và bia Hà nội; Thạch Giang, chuyên nghiên cứu chữ Nôm và truyện Kiều; Hoàng Phê soạn tự điển Việt; Hướng Minh, bạn học trường Bưởi, dịch sách Pháp và viết báo, v.v…

Có vài người ngỏ ý muốn lại thăm tôi, tôi nhờ bạn từ chối khéo cho. Ai lại thăm tôi cũng niềm nở tiếp, nhưng không đáp lễ ai cả.

Xét chung, các học giả miền Bắc có cảm tình với tôi, thích lối viết “non comformiste” của tôi, mà chính quyền đối với tôi cũng có biệt nhãn. Sở Thông tin văn hóa thành phố coi tôi là một nhân sĩ; sở Tuyên huấn thành phố có lần phái một nhân viên lại thăm tôi; nghe tôi nói sức khỏe mỗi ngày một suy, nhân viên đó ngỏ ý muốn giới thiệu tôi để vào điều trị ở bệnh viện Thống nhất (bệnh viện cho cán bộ cao cấp, nhiều dụng cụ, thuốc men nhất miền Nam). Tôi từ chối, tự xét bệnh không nặng, có thể điều trị ở ngoài được.

Khi nhân viên đó ra về, ông Ðào Duy Anh (lúc đó đương ở chơi tôi), hỏi tôi:
– Người ta săn sóc sức khỏe của anh như vậy mà sao anh tỏ vẻ lơ là?

Tôi đáp:
– Tôi có công gì với cách mạng đâu mà vô đó nằm? Hưởng một ân huệ mà mình không đáng hưởng, tôi cho không phải là phúc. Vô đó, người ta gọi tôi là đồng chí, tôi sẽ mắc cỡ. Tôi đâu phải là đồng chí của họ.

Ông bảo:
– Tiếng đồng chí bây giờ chỉ như tiếng ông thôi, ai cũng gọi là đồng chí cả.

Tôi nói tiếp:
– Với lại nhận ân huệ của người ta, khi người ta sai bảo việc gì, hay chỉ mời dự một buổi hội họp để nghe ý kiến thôi, mình làm sao từ chối được? Tôi chỉ mong được sống yên ổn, không ai nhắc tới, không ai nhớ tên tôi nữa.

Ông làm thinh.

Khi có phong trào vượt biên rầm rộ (có tháng 65.000 người bỏ quê hương) (2), hai ba cơ quan cho người lại dò xét xem tôi có ý đi ngoại quốc không, và khuyên tôi đừng nên đi đâu cả. Tôi bảo họ: “Nếu tôi muốn đi Pháp thì tôi đã đi từ lâu rồi, vì tôi có đủ điều kiện để đi theo cách chính thức”.

Tôi biết thái độ của chính quyền đối với hạng nhà văn miền Nam mà họ gọi là “tiến bộ” như tôi. Cứ yên ổn sống, đừng thắc mắc gì cả, vài ba năm xuất hiện một lần trong một hội nghị nào đó, chẳng cần đưa ý kiến, hoặc viết một bài báo ngắn gì cũng được, ngắn thì tốt hơn, vô thưởng vô phạt, để tỏ rằng mình còn ở trong nước và hợp tác với chính quyền, như vậy là được rồi; còn đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, đã có Ðảng chủ trương, hạng trí thức, tiểu tư sản không biết gì, đừng nên xen vào.

*
* *

Năm 1976 tôi lại khạc ra máu như năm 1954, hồi mới lên Sài gòn, nhưng lần này nhẹ hơn. Tôi uống đọt cây đùm ruột một hai lần thì hết. Có lẽ chẳng uống cũng hết. Bác sĩ Liêu Thanh Tâm rọi phổi, chụp hình quang tuyến, so với năm 1954 thấy không tăng, nên tôi chỉ cần nghỉ ngơi và uống ít thuốc bổ. Bác sĩ Trần Ngọc Ninh hay tôi đau, lại thăm và giúp tôi vài việc.

Nhờ bị bệnh đó, tôi xin phép miễn dự Ðại hội Văn nghệ thành phố để thảo luận về đường lối văn nghệ. Hội họp làm ba đợt, mỗi đợt khoảng một tuần, cho vài trăm nhà văn, đãi ăn bữa trưa. Các nhà biên khảo dự đợt đầu, rồi tới các tiểu thuyết gia, thi sĩ v.v… Gọi là thảo luận chứ thực ra là ủy ban của hội đem ra mổ xẻ tác phẩm của một số nhà văn, có ý mong họ tự kiểm thảo. Ða số nhà văn trách ủy ban không hiểu hoàn cảnh của họ: ở dưới chế độ kiểm duyệt của chính phủ Thiệu, không thể muốn viết gì thì viết được; một vài nhà văn còn can đảm nhận rằng đã viết những tác phẩm mà cách mạng gọi là đồi trụy, nhưng như vậy không phải là một tội; những truyện đó tả đúng xã hội thời trước và ở trong một xã hội như vậy, nhà văn có hóa đồi trụy cũng là một chuyện thường. Sở dĩ họ có thái độ can đảm đó là vì thấy nhiều nhà văn ngoài Bắc cũng chẳng trong sạch, cao thượng gì cả, tư cách còn rất kém nữa.

Rốt cuộc, ba tuần kiểm thảo chẳng đi tới đâu, so với phong trào tự chỉnh huấn ở Bắc năm 1953 thì dễ dãi, cởi mở hơn nhiều, mà đa số các nhà văn trong này có thái độ đàng hoàng hơn nhà văn ngoài Bắc (coi phụ lục). Nhưng sau đó cũng khoảng hai mươi nhà văn bị đưa đi “cải tạo”, một số được thả về sau ba bốn năm như Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, Tạ Tị; một số chết trong trại như Nguyễn Mạnh Côn… hoặc gần chết mới được thả về, tới nhà được vài ngày thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương (Vũ chỉ bị giam ở khám Chí hòa chứ không phải đi trại cải tạo), hiện (1981) còn một số ít chưa được về như Duyên Anh. Nghe nói, Doãn Quốc Sĩ có thái độ “kẻ sĩ” không nhận lỗi, vẫn chủ trương chống cộng, vậy mà được về sớm, không hiểu tại sao. Ông là rể của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ ở Bắc, Võ Phiến, Lê Tất Ðiều, Nguyên Sa… đã di tản kịp trước ngày 30-4-75. Mai Thảo cũng vượt biển rồi.

Năm 1980, nhà xuất bản Văn Hóa – Hà nội, xuất bản cuốn “Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận tư tưởng” Tập I do Vũ Hạnh, Thạch Phương, Huy Khánh, Thùy Dương, Phan Ðắc Lập, Trần Văn Giàu viết để mạt sát Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Hồ Hữu Tường, Nhất Hạnh, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Nhã Ca (Vũ Hạnh viết về Võ Phiến, Trần Văn Giàu viết về Nhất Hạnh). Nhà xuất bản hứa sẽ cho ra tập II viết về Phạm Duy, Chu Tử, Tạ Tị, Ðinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Thanh Quang, Xuân Vũ, Thảo Trường, Hà Huyền Chi, Tô Văn, Lê Xuyên…

Suốt mười mấy tháng, từ 5-75 đến mùa thu 76 tôi sống tương đối thảnh thơi: sách của tôi được phép bán, và nhiều người mua, cả Bắc lẫn Nam, giá mỗi ngày mỗi tăng (năm 1981 Ðắc nhân tâm ở chợ sách cũ, giá 50 đồng, năm 1975 chỉ có 2 đồng). Tôi không làm gì cả, nằm nhà dưỡng sức, vài ba ngày lại tòa soạn Bách Khoa cũ một lần để gặp các bạn văn (ngày nào cũng có 5-6 anh em cầm bút lại đó tán gẫu); rồi dạo khu chợ trời từ đường Lê Lợi ra tới Chợ cũ, đường Nguyễn Huệ. Mỗi tuần đi họp tổ một lần. Mỗi tháng lại chen chúc, chờ đợi ở Ngân hàng để xin rút ra 60 đồng cho hai vợ chồng.

(1) Ông mất chức giáo sư Ðại học, chỉ còn là một chuyên viên ở viện Sử học, dưới quyền Nguyễn văn Tân (?) sức học kém.
(2) Năm 1980 trung bình 4.000 người đi chui mỗi tháng. Nghe nói năm 1981 ở Mĩ đã có từ 300.000 đến 500.000 người Việt, ở Pháp 130.000 người mà khoảng 100.000 người qua sau ngày 30-4-75.

Hết : Tiếp bạn văn-Dự các buổi họp, Xem Tiếp: Sách báo miền Bắc

Tìm Kiếm