KINH TẾ TRI THỨC & THỰC HIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VN
Sau mấy thập kỷ phát triển, hiện nay kinh tế tri thức đang tác động ngày càng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị và quan hệ quốc tế) của đời sống nhân loại. Sự tác động này báo hiệu một bước ngoặt phát triển, làm cho thế kỷ 21 sẽ ngày càng khác với thế kỷ 20.
…..
Sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức là xu thế khách quan của kinh tế thị trường, nhưng nhận thức chủ quan khác nhau thì sẽ có thái độ khác nhau đối với kinh tế tri thức, nên kinh tế tri thức có thể trở thành cơ hội phát triển chưa từng có đối với nước này, cũng có thể là thách thức sống còn với nước khác. Tất cả tuỳ thuộc vào thái độ của bộ máy cầm quyền. Hiện nay đã có 38 nước GDP/ người đạt mức 20.000 USD chủ yếu là vận dụng kinh tế tri thức. Còn những nước dựa vào khai thác tài nguyên và lao động rẻ đang đi vào bế tắc. Tình hình đó cho thấy, nhận thức đúng về kinh tế tri thức là một tiêu chí của những người lãnh đạo hiện nay.
I. Nhận thức lý luận về kinh tế tri thức
Vào cuối thế kỷ 20, trong nền kinh tế thị trường diễn ra hai biến đổi có tính bước ngoặt: Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Hai cuộc cách mạng ấy gắn bó với nhau, tạo ra biến đổi sâu sắc nền kinh tế thị trường và xã hội công nghiệp. Sự biến đổi ấy được nhận thức từ nhiều quan niệm khác nhau: Thời kỳ kỹ thuật điện tử (Brzezinski); xã hội hậu công nghiệp (Daniel Bell); kinh tế hậu công nghiệp (A.Toffler); kinh tế thông tin (J.Naisbitt)… Từ năm 1990, tổ chức nghiên cứu vấn đề này của Liên hiệp quốc đưa ra khái niệm “kinh tế tri thức” (The knowledge economy).
Hiện nay, thông qua toàn cầu hoá kinh tế, kinh tế tri thức đang lan toả mạnh. Thực tiễn ấy, giúp chúng ta nhận thức đúng hơn về bản chất, cấu trúc và hình thức vận động của kinh tế tri thức…..
1. Kinh tế tri thức là xu hướng tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường mấy trăm năm qua….. Sau cuộc cách mạng kỹ thuật thế kỷ 18, nền kinh tế thị trường hiện đại phát triển đầy biến động và nhanh dần, nó để lại đằng sau những gì là lỗi thời về cơ sở kỹ thuật, về quan hệ kinh tế, xã hội và thể chế chính trị. Đồng thời, nó cũng luôn phát hiện ra những lực lượng sản xuất mới, những quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị mới để không ngừng phát triển. Do đó, kinh tế thị trường không ngừng mở rộng không gian sản xuất và trao đổi, từ phạm vi vùng, miền ra phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu…..
2. Xu hướng phát triển lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu đi đến sự ra đời của kinh tế tri thức
Sự vận động của lực lượng sản xuất trong kinh tế thị trường cho thấy: mức độ huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệ của xã hội có ý nghĩa quyết định mức độ khai thác và hiệu quả của tiềm năng vật chất của xã hội. Vì vậy, trong các nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện có hai xu hướng phát triển khác nhau:
Một là,những nền kinh tế thị trường dựa chủ yếu vào huy động và sử dụng tiềm năng trí tuệ của quốc gia và thế giới. Đây là những nước hiện nay đã bước vào giai đoạn kinh tế tri thức.
Hai là,những nền kinh tế thị trường chủ yếu dựa vào khai thác tiềm năng vật chất (về tài nguyên và lao động giản đơn). Đây là những nước đang phát triển và kém phát triển, thường thiệt nhiều trong cạnh tranh thị trường, có nhiều nguy cơ là bãi rác của các nước phát triển trong hợp tác đầu tư nước ngoài.
3. Vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức là cơ sở chung của tiến trình từ giai đoạn kinh tế công nghiệp lên giai đoạn kinh tế tri thức
Lực lượng sản xuất hiện đại bao gồm hai bộ phận: Cơ sở vật chất kỹ thuật và lực lượng lao động sản xuất và tổ chức quản lý kinh doanh. Lịch sử phát triển kinh tế thị trường hiện đại luôn gắn liền với lịch sử diễn ra các cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật. Cuộc cách mạng đầu tiên (thế kỷ 17, 18) đã xác lập cơ sở kỹ thuật cơ khí, đã hình thành lực lượng lao động cơ khí và tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật thứ hai (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) đã nâng cơ sở kỹ thuật cơ khí lên trình độ nửa tự động hoá và hình thành hệ thống tổ chức quản lý mới, dưới hình thức các tập đoàn, đưa chủ nghĩa tư bản lên giai đoạn độc quyền, bắt đầu ở nước Đức. Kinh tế thị trường với các tập đoàn tư bản đã phát triển phạm vi khu vực và thế giới. Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ ba vào cuối thế kỷ 20 đã thực hiện một cuộc cách mạng trong cơ sở vật chất kỹ thuật, trong lực lượng lao động và tổ chức quản lý kinh tế thị trường, bắt đầu hình thành kinh tế tri thức.
Nhìn từ chiều sâu của tiến trình lịch sử phát triển nói trên, người ta thấy rõ vai trò ngày càng tăng của lao động tri thức.Cùng với quá trình hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế tri thức là sự hình thành lực lượng lao động mới, được gọi là lao động tri thức vừa có tính chất chuyên nghiệp vừa có tính chất liên ngành, tiêu biểu cho giai đoạn “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Hiện nay, cơ sở vật chất kỹ thuật mới và cơ cấu lao động xã hội mới của nền kinh tế tri thức vẫn còn vận động trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Nhưng xét về tiến trình lịch sử, cơ sở kinh tế – xã hội ấy không phải là cơ sở của chủ nghĩa tư bản, mà của một xã hội hậu tư bản đang lớn mạnh trong lòng chủ nghĩa tư bản. Các cuộc khủng hoảng từ nay trở đi không chỉ là khủng hoảng kinh tế – tài chính, mà thực chất là khủng hoảng thể chế kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa.
4. Sự phát triển tự do của mỗi người
Trong kinh tế thị trường, quá trình xã hội hoá lao động và sản xuất cùng với sự cạnh tranh đã tạo ra khả năng phát triển của các tập thể và các cá nhân. Đây là một ưu thế của kinh tế thị trường mà các hình thái kinh tế khác không có.
Xu thế hình thành cơ sở kinh tế cho sự phát triển tự do của mỗi người và của cộng đồng đạt được chất lượng mới trong nền kinh tế tri thức, do những ưu thế của kinh tế tri thức đem lại như:
(-) Kinh tế tri thức đạt được năng suất lao động cao chưa từng có, thúc đẩy sự tăng nhanh sở hữu cá nhân và sở hữu xã hội.
(-) Người lao động không chỉ được bảo đảm đời sống vật chất, mà còn có thời gian rỗi để hưởng thụ văn hoá và góp phần xây dựng nền văn hoá mới. Theo quan sát của A.Einstein (nhà khoa học hàng đầu của thế kỷ 20) thì “Chỉ cá nhân đơn lẻ mới có thể tư duy và qua đó tạo ra những giá trị mới cho xã hội… cũng như vậy, một cá thể đơn lẻ sẽ không thể phát triển nếu thiếu mảnh đất dinh dưỡng của cộng đồng”[1].
(-) Tiềm năng, ưu việt của kinh tế tri thức còn thể hiện ở xu hướng mới của phát triển khoa học có tính chất liên ngành, đặc biệt xu hướng thâm nhập vào nhau của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội (về tri thức, phương pháp, cách sử dụng thành tựu khoa học) hướng vào hình thành mối quan hệ hài hoà giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên.
(-) Sự phát triển kinh tế tri thức đến trình độ nào đó sẽ làm thay đổi phương thức lao động và sản xuất, phương thức tiêu dùng và lối sống của xã hội của nền văn minh mới.
5.Sự phát triển kinh tế thị trường theo định hướng mới
Nét đặc biệt trong thời đại hiện nay là cùng với quá trình phát triển kinh tế tri thức thì xuất hiện định hướng mới của kinh tế thị trường là phát triển bền vững ngày càng bộc lộ và tạo thành một sức ép toàn cầu. Sự xuất hiện định hướng mới của phát triển kinh tế thị trường là do những tất yếu khách quan sau đây:
Một là,suốt chiều dài lịch sử chủ nghĩa tư bản, mục tiêu phát triển kinh tế chỉ vì lợi nhuận của chủ đầu tư, coi thường những vấn đề xã hội và môi trường. Cho đến cuối thế kỷ 20, tác động của những vấn đề xã hội, môi trường đã đến mức cản trở phát triển kinh tế và uy hiếp sự sống còn của loài người, kể cả chủ nghĩa tư bản. Tình hình đó đặt ra vấn đề thay đổi định hướng phát triển kinh tế, bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế với xã hội và môi trường.
Hai là,sự phát triển của kinh tế tri thức đã tạo ra khả năng thay đổi định hướng kinh tế thị trường. Bản thân kinh tế tri thức phải hướng thẳng vào mục tiêu phát triển bền vững ấy, nếu không, những thành tựu của kinh tế tri thức sẽ trở thành sức tàn phá, huỷ diệt loài người khi nó rơi vào tay những lực lượng chống lại loài người. Cảm nhận được điều này, nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới đã chỉ ra rằng: ở thời đại chúng ta, các đại diện của giới chính trị, khoa học và công nghệ phải chịu trách nhiệm đạo lý đặc biệt lớn.
Tác động của xu thế phát triển bền vững đang đặt ra một vấn đề cấp bách mang tính toàn cầu là thay đổi mô hình kinh tế đặc biệt là các mô hình kinh tế thị trường tự do và mô hình công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên và lao động rẻ. Sự thay đổi này đòi hỏi một tầm nhìn thời đại mới, có ý nghĩa quyết định đối với nước đang phát triển.
6.Sự phát triển con đường rút ngắn trở thành quy luật của các nước phát triển sau
Từ sau cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ hai vào đầu thế kỷ 20, đưa nền kinh tế công nghiệp lên trình độ nửa tự động hoá, đưa trình độ tổ chức, quản lý kinh tế lên trình độ tập đoàn kinh tế (tư bản chủ nghĩa) thì bắt đầu xuất hiện khả năng phát triển theo con đường rút ngắn đối với các nước lạc hậu. Nếu quá trình công nghiệp hoá lần đầu tiên ở nước Anh phải mất hơn một trăm năm thì mấy nước gọi là con rồng châu Á chỉ mất khoảng 30 năm. Thời gian để tăng GDP/đầu người lên gấp đôi cũng khác nhau: ở Anh cần 50 năm, Nhật chỉ 34 năm thì Hàn Quốc chỉ mất 11 năm, Trung Quốc 10 năm.
Sở dĩ xuất hiện con đường rút ngắn là do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra các tiền đề về khoa học và công nghệ về giáo dục và đào tạo, về y tế, về tổ chức và quản lý, về vốn đầu tư cho các nước phát triển sau, thông qua quá trình toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa.
Vào cuối thế kỷ 20 trở đi, khi kinh tế tri thức ra đời và lớn mạnh thì những tiền đề ấy đã có một bước phát triển cao hơn về chất lượng. Thu hút những thành tựu ấy từ các nước phát triển để xây dựng chế độ mới là vấn đề có tính quy luật, tính nguyên tắc trong đường lối phát triển của đảng cầm quyền.
Thực tiễn hợp tác đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế thế giới những năm qua đã đem lại một bài học cảnh tỉnh các nước phát triển sau. Đó là nhà đầu tư nước ngoài chỉ lo thu lợi nhuận trước mắt của họ, bất chấp những vấn đề xã hội và môi trường bị tàn phá của nước sở tại, kể cả trong hợp tác đầu tư cho giáo dục đại học. Bài học chỉ ra rằng: không nên trách nhà đầu tư đi tìm lợi nhuận, mà nên tự trách mình (nước tiếp nhận đầu tư) không đủ trình độ để lựa chọn những thành tựu mình cần và biết tránh những mánh khoé, thủ đoạn kinh doanh kiểu cũ của nhà đầu tư nước ngoài.
II. Một số vấn đề cơ bản trong thực tiễn phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay
Quá trình mở cửa và hội nhập chịu tác động ngày càng tăng của kinh tế tri thức (đang vận động trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản), làm bộc lộ cả tiềm năng và hạn chế của nước ta, rõ nhất là ở thực trạng nền kinh tế và thể chế kinh tế chính trị. Để phân tích đầy đủ tiềm năng và hạn chế của ta trước xu thế kinh tế tri thức, cần có sự tổng kết ở phạm vi quốc gia để định vị nước ta và định hướng phát triển kinh tế tri thức. Ở phạm vi một nghiên cứu ngắn, tôi chỉ có thể nêu một số vấn đề cơ bản từ thực tiễn nước ta.
1.Định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế tri thức
Tất cả các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ 20 đều thất bại do đường lối phát triển kinh tế – xã hội không hợp thời đại. Bài học lịch sử thế giới đó chỉ ra rằng cơ sở kinh tế công nghiệp cơ khí không phải là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Cuộc đại khủng hoảng thể chế kinh tế chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện nay lại phát đi tín hiệu rằng kinh tế tri thức không phải là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản mà của một xã hội thay thế nó. Chính sức mạnh của tất yếu kinh tế trong thời đại hiện nay đang là thách thức lớn nhất đối với tất cả các chế độ chính trị trên thế giới. Trong đó khó khăn hơn là đối với các nước lạc hậu phát triển sau. Không phải ngẫu nhiên, nhà nghiên cứu P.F.Drucker đã nhận thấy sự vận động: “Các nước phát triển đang chuyển ra khỏi bất kỳ những gì mà có thể được gọi là chủ nghĩa tư bản”[2]
Xét về bản chất, kinh tế tri thức không phải là cơ sở của nền thống trị của số ít đối với nhân dân, của chủ nghĩa bá quyền nước này đối với nước khác.
Chuyển sang mô hình kinh tế thị trường dựa trên kinh tế tri thức là một đòi hỏi cấp bách của xã hội Việt Nam lại vừa phù hợp với thời đại kinh tế hiện nay.
2.Kết hợp nội lực với ngoại lực
Nội lực và ngoại lực là hai sức mạnh cơ bản của con đường phát triển rút ngắn. Kết hợp tốt hai sức mạnh đó thì dân tộc mới có thể đồng hành cùng thời đại. Ngoại lực ở đây là những thành tựu của kinh tế tri thức trên tất cả các lĩnh vực, chứ không phải bất cứ ngoại lực nào. Không có ngoại lực này thì các nước phát triển sau chỉ dừng lại ở nền kinh tế thị trường hoang dã.
Mặt khác, muốn sử dụng thành tựu tiên tiến làm cho dân giàu nước mạnh thì phải phát huy nội lực của dân tộc. Trong đó chủ yếu nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao trên các lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hoá, lãnh đạo và quản lý các cấp và doanh nghiệp. Không có hoặc thiếu nguồn nội lực như vậy thì chỉ tiếp nhận những nguồn ngoại lực chất lượng thấp, thậm chí là rác thải của các nước khác.
Nhìn vào thực trạng nước ta, đây đang là khâu yếu nhất của cả hệ thống, từ trình độ công nghệ cao và tổ chức quản lý ở doanh nghiệp cho đến các lĩnh vực khoa học và công nghệ, nền giáo dục, đào tạo, môi trường văn hoá, hệ thống lãnh đạo quản lý các cấp. Hệ quả là chỉ có thể tăng vốn đầu tư để đạt tốc độ tăng trưởng cao, còn chất lượng, hiệu quả thấp.
3. Xây dựng thể chế chính trị phù hợp với yêu cầu vận dụng và phát triển kinh tế tri thức
Muốn xây dựng thể chế như vậy, cần có nhận thức mới và giải quyết đúng những vấn đề chủ yếu sau đây:
a. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
Quan điểm chính trị của đảng cầm quyền phải phản ánh được quy luật và nhu cầu của kinh tế phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức (chứ không phải chủ quan duy ý chí, dù là của số đông). Trên cơ sở ấy, và chỉ trên cơ sở ấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý của Nhà Nước liên hệ sẽ phát huy đầy đủ tác dụng và hiệu quả. Đây còn là cơ sở để xây dựng nền dân chủ từ trong phát triển kinh tế, để khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, tệ nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm của quan chức. Chỉ trên cơ sở ấy mới có mối quan hệ công khai, minh bạch, công bằng trong thực tế.
Trong giai đoạn hiện nay, nền chính trị tiến bộ phải phản ánh được yêu cầu phát triển bền vững với nội hàm là “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường” như đường lối đã nêu (nhưng chưa thực hiện). Địa vị hàng đầu của chính trị chính là giải quyết được khâu “đi đôi” trong thực tế, tức là bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế với xã hội và môi trường, chứ không phải chỉ nói trong hội nghị, còn ngoài đời sống thì tình trạng ô nhiễm tăng lên, tàn phá tài nguyên và môi trường nặng nề như hiện nay.
b.Cấu trúc và sự vận hành của thể chế
Dựa trên nguyên lý giữa chính trị với kinh tế nói trên để hình thành cấu trúc của thể chế gồm ba bộ phận:Tổ chức lãnh đạo, quản lý của Nhà Nước liên hệ , tổ chức của hệ thống doanh nghiệp, hệ thống các tổ chức xã hội dân sự. Hiệu quả của thể chế phụ thuộc không những vào cấu trúc như trên, mà còn phụ thuộc vào phương thức vận hành của thể chế: đó là thiết lập mối quan hệ thông tin, tương tác thường xuyên giữa các bộ phận. Trên cơ sở tích hợp thông tin (không ngừng biến đổi từ thực tiễn) mà mỗi bộ phận tìm ra phương án hoạt động tối ưu của mình. Nhờ đó, cả thể chế sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp lớn hơn của sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước.
Đối với đảng cầm quyền, chỉ có thể chế kinh tế chính trị với cấu trúc và vận hành như vậy, thì mới có khả năng gắn liền độc lập dân tộc với nhu cầu xã hội trên thực tế trong giai đoạn mới. Nếu không, đó chỉ là một quan điểm trừu tượng mà thôi.
4.Mối quan hệ giữa con người với tổ chức
Mối quan hệ này hình thành trong nền kinh tế thị trường. Nhưng ở giai đoạn kinh tế công nghiệp tư bản chủ nghĩa, con người chỉ là công cụ của tổ chức và tổ chức chỉ là công cụ của ông chủ để thực hiện mục đích làm giàu. Còn ở giai đoạn kinh tế tri thức, mặc dù vẫn còn trong quỹ đạo chủ nghĩa tư bản, nhưng cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi cá nhân và tổ chức phải có tính chủ động, sáng tạo. Những ông chủ khôn ngoan đã biết khai thác ưu thế này và họ đang chuyển biến thành một dạng lao động tri thức, ngày càng không giống những ông chủ trước đây.
Mối quan hệ mới giữa cá nhân và tổ chức trong kinh tế tri thức hình thành trong môi trường văn hoá mới. Những công trình nghiên cứu về quản lý các nước phát triển cho thấy: trong giai đoạn kinh tế công nghiệp phát triển dựa trên “con người kinh tế” như một động lực, còn trong giai đoạn kinh tế tri thức phát triển lại dựa vào “con người văn hoá” mang tính chất động lực và mục tiêu.
Nước ta chưa xây dựng kinh tế tri thức nên đây là một vấn đề mới nhưng là một tất yếu khách quan của giai đoạn mới.
5.Thời gian và phát triển
Kinh tế thị trường dựa trên quá trình xã hội hoá và cạnh tranh, nên nhân tố thời gian ngày càng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển cá nhân và tổ chức. Tiết kiệm thời gian là một ưu thế của xã hội công nghiệp khác hẳn với các xã hội tiền công nghiệp. Quy luật tiết kiệm thời gian chỉ phát huy tác động tốt nhờ sự phát triển khoa học và công nghệ, tổ chức và quản lý, nhất là nhờ một thể chế kinh tế chính trị hợp lý mới khai thác được tiềm năng to lớn về tiết kiệm thời gian, đặc biệt trong giai đoạn kinh tế tri thức.
Đối với nước phát triển sau, đây là cơ hội lớn để tiến kịp thời đại, nếu có tổ chức và thể chế vận hành phù hợp cho phép tiết kiệm mọi nguồn lực xã hội, nguồn lực tự nhiên. Quy luật tiết kiệm thời gian phát huy đầy đủ sức mạnh của nó khi kinh tế thị trường theo định hướng phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức. Quy luật này bị xoá bỏ trong những thể chế quan liêu, tham nhũng, những lĩnh vực hoạt động không có sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước và xã hội. Những nghiên cứu gần đây cho thấy: những công trình công nghiệp hoá dựa vào khai thác tài nguyên, tàn phá môi trường đều rơi vào tăng trưởng kinh tế số âm, dù thống kê nhà nước đem lại tỷ lệ tăng trưởng dương. Tăng trưởng như thế có thể đem lại một số lợi ích hạn hẹp cho thế hệ hiện nay nhưng sẽ để lại những hậu quả lâu dài cho các thế hệ mai sau. Đây cũng là vấn đề hiện nay của Việt Nam. Nó đặt ra tính cấp bách của sự chuyển sang phát triển bền vững dựa trên kinh tế tri thức./.
—————————————————————
Chú thích:
[1]A.Einstein,Thế giới như tôi thấy, Nxb Tri thức, 2005, tr.24.
[2]P.F. Drucker,Xã hội hậu tư bản, 1995, tr.9.
Theo TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN