…..

Loạn trung bút với…“Trường viết văn Nguyễn Du”

Tác giả: Phí Ngọc Hùng

 

1. Loạn trung bút với…“Trường viết văn Nguyễn Du”


IMG.675Lần đầu về Hà Nội, tôi tòan gặp những nhiễu chuyện. Chuyện là cùng họ hàng, làm thế nào được qua 20 năm kẻ Bắc người Nam, chúng tôi chẳng có gì để mà chọn lựa,.. không đứng bên này cũng bên kia. Tàn cuộc binh đao, nhẩm tính sổ nợ đời rơi rớt lại thằng con bà cô vẫn còn sống nhăn, gặp lại nhau chẳng lẽ mượn chén rượu tao ngộ nói chuyện súng nổ đì đùng cũng chướng. Số là tôi muốn nhờ vả nó dẫn đi thăm mồ mả gia tiên đang hương tàn khói lạnh ở ven ruộng nào đó. Ăn cơm mới nói chuyện cũ, quấy quả về lại giữa năm 54, trong khi ông via bà via tôi đang chộn rộn chuyện ri cư, bà cô đưa nó từ quê lên tị nạn ở nhà tôi, sau mấy tháng đánh khăng, đánh đáo cũng thân nhau ra trò. Rồi tôi láo ngáo đeo tầu há mồm vào Nam, nó lớ ngớ ở lại theo…kháng chiến. Chuyến về thăm quê này, tôi tạt qua người anh em xã hội chủ nghĩa dòm chừng xem với chân cứng đá mềm, con đường cách mạng nó đi về đâu. Bước qua cửa, mắt tôi đảo tít như rang lạc quanh nhà, bất chợt đập chát vào mặt ngay trên tường là cái hộp khung kính to đùng giống người ta vẫn thường trưng đàn bầu, đàn gáo. Quái một nỗi trong cái hộp “nổi cộm” mầu đen tối tăm, thay vì đàn địch lại chình ình…một đôi dép râu.

Lõ mắt nhòm kỹ hơn cái của nợ này, tôi bụng bảo dạ thể nào cũng nhiễu chuyện đây.

Nhưng ấy là chuyện sau…

***

Nghe tôi quay quắt muốn về làng viếng…các cụ, thằng em bèn thuê bao một chiếc “xe con”. Ngồi trên xe, để “chứng minh nhân dân” mình là người chẳng hẳn là…thiếu văn hóa, tôi lẩm nhẩm ôn một mớ tiếng Việt trong sáng qua báo bổ. Tôi “năng nổ” là nhờ nó…“lên khung” nên tôi được “tham gia lưu thông”, hết “kinh qua” đến “ùn tắc”, “quá tải” thế này thì có ngày “tai tệ nạn”, “đốt ngắn công đọan” về thăm ông bà ông vải sớm chứ chẳng chơi. Vậy mà nó cứ ngậm miệng như cóc ngậm thuốc lào. Cái thằng rõ hay! Ắt hẳn phải “điều nghiên” thêm…Tôi nghĩ vậy.

Qua một ngày “liên hệ”, tôi thấy cái thằng em này cũng không đến nỗi nào, lằng nhằng vậy thôi. Nhưng tôi hơi bị “bức xúc” cái thằng nhà quê sáng tai họ điếc tai cầy thỉnh thoảng lòi tói ra giọng nói nặng chình chịch như chầy giã cối. Ấy là chưa kể là dân đồng chua nước mặn nên nó cứ lạng quạng “L” với “N”, nhưng sau đấy biết mình nói ngọng nó “bổ túc” lại ngay. Được cái “giao lưu văn hóa” với thằng em, tôi mới hay nó là phó biên tập một tờ báo nhớn, chuyên ngành phê bình văn học. Thế mới hốc, nhưng tôi cứ tức anh ách vì người ngợm như nó thì bắt cóc bỏ đĩa ai đây. Vì số là thằng này ở nhà quê chuyên trị cưỡi trâu thổi sáo, chưa một ngày…cắp sách đi học. Lại cũng chưa một lần có cái may mắn trúng tuyển nghĩa vụ quân sự để được đi B, vậy mà nhè trưng đôi dép râu làm cảnh. Tôi vặn óc nghĩ không ra…

Thăm họ hàng làng nước, cúng bái tổ tiên đầy đủ lễ bộ xong, chiều về trở lại nhà nó, hương đèn còn đấy, khói nhang còn mờ mịt gió mây. Với chức phó biên tập bự sự như cái mả liệt sĩ to vật, trộm nghĩ một người làm quan cả họ cũng thơm lây, thêm nữa, chó dại từng mùa người dại quanh năm, thế nên tôi dại dột hỏi “lập trường chính quy” của nó: Chú làm gì mà…cây đa cây đề quá thế?. Ấy vậy mà thằng em êm ả hoa rơi cửa Phật rằng: Báu gì, phó thì nào có khác gì phó rèn, phó cối. Em học Trường viết văn Nguyễn Du, sau được trên bố trí sang khâu…phê bình văn học, không có chó bắt mèo ăn cứt vậy thôi. Nghe lạ, tôi gặng hỏi cớ sự gì mà tha ma một địa vậy, thằng em đốt nén hương lòng: Chuyện cứt trâu hóa bùn ấy mà, bình thường thôi.

Tôi lẩn mẩn rị mọ: Thời buổi này được bình thường thì chẳng mong đợi gì hơn, không bình thường mới có chuyện. Tôi quên tuốt nó là…thằng dép râu, chỉ thấy đầu óc khuây khỏa qua cuộc sống thằng em bình dị. Chợt nó đon đả: “Bác đợi em đun tí nước nhá”. Giọng nó reo như ấm nước sôi, mà cũng hay, nó lại đổi tông qua “bác, bác, em, em” đúng điệu Bắc kỳ hương lý. Trở lại chuyện…cây đa cây đề, nói cho ngay, trước khi hồi cố quận, tôi đã “bổ xung” văn hóa đầy ấn tượng, nên tôi múa như công múa đĩnh đạc trước cửa nhà về Phạm Thị Hoài, về Nguyễn Huy Thiệp. Chợt nhớ Hữu Thỉnh, Dương Thu Hương cùng tốt nghiệp khóa ba Trường viết văn Nguyễn Du, thêm Vũ Ngọc Tiến, Bảo Ninh là “đồng môn” với nó…Ngứa răng buồn miệng, tôi hỏi cho ra nhẽ về cơ sở văn hóa “cực kỳ xung kích này”. Bỗng nó nhăn mặt, khó khăn:

– Bác hỏi đếch gì khó thế!.

Rồi nó vén môi cười nửa miệng:

– Cũng bình thường thôi. Tốn bao nhiêu tiền để nuôi báo cô cái của nợ ấy. Tiền chứ có phải vỏ hến đâu, họ chỉ được cái nước hão, trong khi cả nước đói như ngan ấp, đói vàng mắt ra! Đấy.

Xong, nó tươi tớp:

– Chả là trường được thành lập qua sự mô phỏng Học viện văn học Gorki của Liên Xô. May mà họ không gọi là viện văn học…mà đặt tên là trường viết văn…thưa bác.

Nhắm chừng thằng em thuộc tạng sáng nắng chiều mưa nên chẳng biết đâu mà lần…Nên tôi cũng thăm chừng:

– Chú “tiếp thu” được nhiều không?.

Nó búng lưỡi đến tách một cái:

– Bác xá cho, ai chả biết khâu viết văn là…nặn chữ véo câu. Chung quy là gia công những câu văn, họ đánh giá từng câu một: Câu này tốt, câu này hay, câu này kém, câu này bẹt, câu này trẹo logic, câu này viết lười biếng. Cứ léo xéo vậy thôi, chán như canh bí chiều đông, thưa bác.

Rầy rà thật, chợt nhớ tới Dương Thu Hương là học trò của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh và Hoàng Ngọc Hiến ở trường…văn học này. Ba thầy trò sau đều “phản tỉnh, phản kháng” nên “có vấn đề nhậy cảm và tế nhị” mới đây. Tôi bèn…tế nhị hỏi nó:

– Vậy chứ ai là…quản giáo của chú.

Nó lại giở chứng, khủng khẳng:

– Bác làm gì mà hoắng lên thế, đông như nhặng bắng nhắng vào cầu tiêu ấy mà, nếp tẻ đủ cả, họ đến để…đăng đàn qua quýt, như Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan, Xuân Diệu. Giáo trình thì cứ nhè Lỗ Tấn, Mạc Ngôn, hay với Tsekhov, D. Granin. Nói chung là tốt, với những lời dậy và giảng ấy cứ lợn cợn và bốc mùi thoang thoảng của những thứ kiến thức chưa tiêu hoặc cũ mèm.

Tôi đang ỳ cán cuốc, chưa kịp hiểu mốc khô gì, nó tung tóe:

– Giản đơn họ đến Trường viết văn Nguyễn Du như tới Trại dậy văn Tam Đảo. Chủ yếu là bồi dưỡng…văn hóa, là xắng xịt rít thuốc lào, nhai kẹo lạc. Chuyện này cũng bình thường thôi!

Nó nhai văn nhá chữ tiếp:

– Trở lại những trại bồi dưỡng viết văn, ở đâu cũng vậy. Có điều không bình thường là chẳng thấy ai rỗi hơi cho văn học thực sự. Tất cả những người “hành nghề văn học” đều muốn “dĩ hòa vi quý”, đều muốn có những cuộc chơi đèm đẹp, chơi có thưởng. Trong chuyến về nước năm ngoái, một nhà văn nữ lưu vong nhận xét: “Ở trong nước, những người viết văn hiện nay sống sướng quá, nhà nước yêu chiều, cưng chiều họ quá”.

Và nó càm ràm:

– Ông Tô Hoài làm như nhiều chữ lắm, ông thủ khư khư Sổ tay viết văn, ông rao giảng: “Một số anh em khác có thực tế, nhưng công phu sáng tạo còn yếu, chưa làm bật lên được một vấn đề tư tưởng nào sâu sắc, nên cũng chưa gọi là có những truyện ngắn hay được. Nên đọc lại truyện ngắn của ta trước cách mạng với Nguyễn Công Hoan, Nam Cao. Hay đọc các nhà văn nước ngoài Maurice Druon, Alberto Moravia, Anton Pavlovitsh Tsekhov…’’

Tôi căng tai ra nghe, nó cười cái bép:

– Riêng ông Nguyễn Công Hoan đứng trên bục giảng cứ như đùa : ‘’Truyện ngắn của các anh sau cách mạng tháng 8 càng ngày càng hay. Hay hơn thời trước rất nhiều’’. Một học viên hỏi: ‘’Xin bác nêu một tác giả tiêu biêu’’. Ông tỉnh như ruồi: ‘’Tôi có đọc truyện nào đâu mà nêu, nghe sách báo nói thế, tôi cũng nói thế’’.

Rập ràng xong, nó cười sần sật. Cái thằng cười đến hay, như chó khạc xương ấy: ‘’Em kể cho bác nghe chuyện Xuân Diệu nhá’’. Nhá với nhem, nghe sốt cả ruột và chẳng đợi tôi trả lời, nó chẻ hoe trắng phớ:

– Còn Xuân Diệu xúng xính đăng đàn ngâm thơ ông, kể chuyện kháng chiến nghe điếc cả lỗ đít, ăn uống thì thủng nồi trôi rế, có ai hỏi thì ông cười tít: “Thì đã bảo bồi dưỡng mà…”

Khi không, nó nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn nhà: ‘’Nói chung là tốt, tụi em ngồi đồng ở dưới, cái mặt cứ thuỗn ra như rặn ỉa và buồn đến sưng cả đít. Nghe chán ngăn ngắt…’’

***

Nghe chán thật, nhưng trong đầu tôi cứ loáy toáy với nền văn học Nga cũng ảnh hưởng ít nhiều chi đây. Tôi uốn lưỡi và sặc gạch ra mới lốp cốp được cái tên Anton Pavlovitsh Tsekhov dài ngoằng. Nó xổ toẹt:

– Đấy! Chả dấu gì bác những năm 60, 70, Hà Nội thời Nga hóa sính ngoại ngữ, nhiều mỹ từ học mới đem từ liên bang Xô Viết về trường. Họ hay thêm chữ “j”, “x” vào như jụng cụ, li jượu, capốtx, garajờx. Tụi em tứ làng quê lên đã phát âm tiếng Việt không chuẩn, lại bị hóc những từ bắt đầu bằng các phụ âm “r”, “d”, “gi” như: rờ, dờ, giờ…đều được đọc giống nhau với chữ…“jờ” của Nga như “rút ra” được viết là “jút ja”, “dọc” trở thành “jọc”. Ngay cả đầu sách “Sờ xoạc” của Trần Dần, cũng biến cải thành” Jờ Joạcx” kia mà, em nào có ngoa ngữ, thưa bác.

Tôi há họng đùa dai:

– Cũng tốt thôi?

Nó nhướng mắt lên :

– Bác nói gì nhẩy?

Rồi nó phẩy tay:

– Cái chuyện này cũng lôi thôi! Đấy. Bây giờ em mới vỡ bọng cứt ra trường dậy chữ ấy chính là “một công nghệ đào tạo nhà văn”, rồi đẻ ra Hội nhà văn ở 65 Nguyễn Du. Ăn xó mó niêu thì nhà nước ta bỏ ra cả mấy trăm tỷ đồng nuôi bao cô 600 đám thợ viết “lao động văn hóa”. Vốn liếng của họ, cái phần gọi là văn hóa cơ bản, nhất là lịch sử và nền tảng triết học quá thấp. Thiếu ngoại ngữ, họ chỉ có hai cửa sổ ngó qua Trung Quốc và Nga Sô. Họ chịu ảnh hưởng của Trung Quốc là lẽ đương nhiên rồi, xưa nay vẫn thế. Họ quên là ‘’Đừng vác trên vai mình con khỉ của người khác’’, nên suốt thời cầm bút họ chỉ ì à ì ạch. Bình thường mà, thưa bác.

Tôi thấy chẳng bình thường chút nào…Ấy là giọng điệu của nó nghe quen quen, dường như của ai đó tôi đã nghe qua. Tôi lại nghĩ đến Trường viết văn Nguyễn Du, tới Hội nhà văn cũng ở đường Nguyễn Du, cụ Nguyễn Du bị “tra tấn” hơi nhiều thì phải. Đang nghĩ vậy, nó đã càm ràm:

– Chả bịa tạc tí nào, nhìn chung về nghề văn, họ viết như đang lè nhè giữa một đám chén chú chén anh. Họ nhai chữ những miếng to tướng, vừa ăn vừa nhằn ra nham nhở, chẳng hề “nghệ thuật vị nhân sinh” tí ti nào. Cứt láng giềng thì thối, cứt đầu gối mình thì thơm, thế là họ vãi cứt vào mặt nhau. Họ đội khăm đống áo dài vái nhau như tế sống, bốc thối nhau…Họ viết theo cái lối vót nhọn con người như vậy khó mà hay được. Họ đổ vấy cho thời thế, thời trước thế đấy, thời này thế đó. Cái chính là bản thân của các nhà văn, có ai ép họ đâu, họ có thể làm việc khác, viết để đó, sau này thời thế sang trang, họ vẫn có thể “mở bát ra” mà. Theo em, họ cứ viết cho thật hay coi, dầu sống ra sao, người đọc cũng đón nhận hết, bác thấy sao thưa bác.

Thực tình tôi đang nghĩ cách vun chuyện cho…có chuyện thì nó bã bời:

– Thì đấy, Nguyễn Huy Thiệp gọi họ là bọn vô học. “Cụ tiên chỉ” Nguyễn Tuân được thể nước ao mà vỗ lên bờ, cụ viết truyện tiếu lâm đăng trên báo Người Hà Nội: “Có một ông nọ dựng chuyện khơi khơi các nhà văn nước ta “50% là vô học. Bị phản bác, ông xin lỗi ngay và mau mắn cải chính là 50%…có học”.

Tôi cười không nổi, người cứ thủng ra vì những chuyện không đâu. Nó lại táo tác:

– Họ tư duy lãng mạn với ‘’mặt bằng văn nghệ chính quy’’ toàn những truyện tình từ nhà quê lên thành phố, cốt truyện chỉ quanh quẩn trong không gian ‘’tĩnh lặng’’ qua hai ‘’nguyên mẫu’’: anh…‘’10 tuổi’’, em…‘’5 tuổi’’. Lớn lên, anh lên Hà Nội với hoa sữa mùi hăng hắc cao…‘’20m’’. Tiếp, xuyên suốt thao tác kỹ thuật chữ nghĩa con số ít cảm xúc với anh ‘’thủ trưởng cơ quan’’ thật khá trai…’’27 tuổi’’, cao…‘’1.78m’’ nhiều cơ bắp, nặng…‘’80 kí lô’’, ở căn hộ…’’số 14’’, phòng…‘’14m’’ vuông. Rất hiện thực, hiểu theo nghĩa là chẳng phải ảo, anh gặp chị khác trên blog, đẹp như người mẫu cao…‘’1.72m’’, váy ngắn trên đầu gối…‘’15cm’’.

***

Sau khi cho tôi mục sở thị với văn chương con số xong, nó xum xoe: “Bác đợi em pha tí trà nhá”. Tôi săm soi ngó chừng quanh quất: Nhà không vách ngăn, thông thống ra phía sau là cái bếp cạnh cái sân trống hoác. Nhìn lên trời mây xốp và xám bạc như sương khói, tôi cảm thấy thóang đãng ở cái khỏang không gian trống trải này. Dòm kỹ hơn một chút nữa, rõ như đêm giữa ban ngày…Tôi …tôi…thấy ở ngay cái sân trống cạnh cái bể nước gần bếp, nó đang vạch cu làm một bãi xèo xèo như…tiếng thở dài. Chuyện này với người Hà Nội cũng bình thường đây. Và nó bình thản quay lại, vừa quơ tách trà trên giá bếp vừa…cài cúc quần. Đến lượt tôi thở ra nỗi buồn không tên, dường như nó chưa buồn rửa tay thì phải.

Vừa ngồi xuống nó đã tiêu dao chữ nghĩa rất bài bản:

‘’Huếch gì cái ngữ ấy, sau đó vì cái sĩ bọ họ chạy chọt, nhờ vả hai hội viên chính thức giới thiệu vào Hội nhà văn mà tiền nộp hội phí với giá mềm để được ngồi chiếu trên chiếu dưới. Lạt mềm buộc chặt, vào hội gặp nhau chỉ kháo ai chạy giải thưởng này, ai thuổng giải thưởng kia. Chót chét họ chỉ là nhà văn có cái thẻ hội viên dằn túi, thỉnh thoảng đến hội điểm danh, về già có tiền hưu bổng, viết hồi ký, đợi khi chết được đọc điếu văn kính thưa kính gửi…”.

Tôi ngẫn ra chưa nắm bắt được. Nó đã xằng xịt:

‘’Đấy! Để em kể chuyện nhà văn Nguyễn Quang Lập viết rành rành trên báo Thủ đô ấy nha: Mình viết đến tám giờ sáng thì vào buồng ngủ lại, chợt có tiếng điện thoại của anh Trọng Hiếu báo anh Nguyễn Khải mất rồi. Mình gọi lung tung báo cho mọi người. Đến một giờ trưa anh Hiếu lại gọi điện nói ‘’Anh Khải chưa chết’’. Mình hỏi sao, anh nói nhà tang lễ đòi cái thẻ Hội nhà văn mới đủ thủ tục, nhưng anh Khải để đâu chẳng biết nữa, tìm không ra…’’.

Nó lầu bầu ‘’thuyết minh’’ tiếp, tôi nghe nhoáng nhoàng là:

‘’ Với tư cách nhà văn của nhà nước, mỗi người cầm bút là một viên chức được trả lương, biến văn học thành một chế độ văn hóa hành chính. Giá trị văn chương là sự vâng phục. Khổ một nỗi không chỉ có nhà văn cán bộ, mà còn có cả ‘’độc-giả-cán-bộ’’. Một ’’độc-giả-cán-bộ’’ đánh giá tác phẩm trước hết dựa theo cái tên tác giả : Nếu đó là tác phẩm thuộc giới lãnh đạo, họ sẽ đọc với thái độ cung kính của một thuộc hạ. Nếu đó là tác phẩm của người được xếp vào bực thầy, họ sẽ đọc với thái độ ngoan ngoãn của một tên học trò. Nếu đó là tác phẩm của người không có chức vụ gì đáng kể, họ sẽ đọc với thái độ dửng dưng… ‘’.

Của người phúc ta, tôi áng chừng thằng em vay mượn chữ nghĩa người khác để lất phất chuyện nhà văn, nhà báo chỉ là mõ làng của chế độ. Ngoài ra, tôi còn nghe nói sau Trường Viết văn Nguyễn Du, tùy theo khả năng, họ được bồi dưỡng sáng tác ở Trại dậy văn Tam Đảo, Trại sáng tác văn học Đồ Sơn, Trại viết Đà Lạt, Trại bồi dưỡng sáng tác Vũng Tầu. Tùy theo lập trường, có Trại sáng tác Quảng Bá cho những nhà văn cần phải học tập như Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân..v..v.. Đến người miền Nam, phân chia thành phần có “Trại sáng tác B dài” cho những nhà văn tập kết sửa soạn đi Nam, trong đó có Trần Vàng Sao, Anh Đức..v..v.. “Trại sáng tác B ngắn”, cho những nhà văn tập kết ở lại công tác ngay tại Hà Nội, có Ngọc Trai, Doãn Triều..v..v.. Trại gì như trại gà công nghiệp, nhiều quá mạng nên tôi hỏi xem nó hươu vượn ra sao? Nó ngần ngừ trông thấy :

– Thật tình ở Hà Nội đã lâu, em cũng chẳng hay trại B dài nằm ở đâu nữa, còn ban văn nghệ miền Nam trụ ở 51 Trần Hưng Đạo, nghe đâu chỉ viết báo tường thôi. Họ chủ trương cách ly Nam, Bắc thế đấy, trừ những nhà văn chi đạo biết ngọn ngành như Nguyễn Tuân, Tô Hoài. Một lần Anh Đức tường thuật trận mưa bom B52 trong Nam. Nguyễn Tuân lên đài Đài Giải phóng ở 58 Quán Sứ động viên chiến công Anh Đức. Trên đường về ghé tiệm thịt chó, Nguyễn Tuân cười cười với Tô Hoài: ‘’Thằng này đã học trường dậy văn còn lắm lỗ hổng, nói trên đài thì hụt hơi ngắn lưỡi, tiếp xúc tay bo thì rất khá. Nhưng viết ra thì không ra sao cả. Nó thích được bốc, bốc như bia hơi vậy…’’.

Sau đấy, nó dao to búa lớn:

– Cứ theo như nhà phê bình văn học bạn em là Vương Trí Nhàn thì: ‘’Nền văn học miền Bắc, tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh. Nếu mấy trăm năm trước trong truyền thống, chúng ta có mảng văn học chức năng, động viên thôi thúc con người hành động, ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo hay thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, thì nay văn học miền Bắc nối tiếp truyền thống ‘’động viên’’ đó rất rõ.

Nó cáo lỗi ra cái bể nước cạnh bếp có cái sân trống, tần ngần nhìn lên trời xanh, mây trắng, nắng vàng như có gì suy nghĩ lung lắm. Vừa vũ qua Bắc hải, nó vừa nói vọng về phía tôi:

– Trước kia năm 56, ngự sử văn đàn Phan Khôi đã viết rồi: “…Đành rằng văn hóa phục vụ chính trị, cho nên chính trị lãnh đạo văn hóa. Nhưng phải hỏi: Nếu chính trị muốn đạt đến mục đích của nó, thì cứ dùng khẩu hiệu, biểu ngữ, thông tri, chỉ thị, không được hay sao, mà phải cần dùng đến văn hóa? Trả lời cho thành thật, e chính trị vỗ vai văn hóa mà nói rằng: Sở dĩ tao tha thiết đến mày là vì tao muốn lợi dụng cái văn hóa của mày”.

***

Qua chuyện văn hóa phục vụ trên, tôi không nghĩ xa hơn là cái thận thằng em…có vấn đề. Trở lại chỗ ngồi, tay chùi chùi vào quần, miệng nó chuyển “khâu” qua đề mục khác, tôi cứ rửa tai nghe nó dệt chuyện, nói cho lắm tắm ở truồng là thế:

– Thưa với bác, nhờ lên Hà Nội em gặp lại một số người Hà Nội thuộc thế hệ cũ, vẫn bắt gặp cái dáng vẻ thanh lịch truyền thống. Ngôn ngữ họ thanh lịch. Tác phong họ thanh lịch. Cách hành xử của họ cũng thanh lịch. Nét thanh lịch ấy không còn thấy ở các thế hệ trẻ hơn.

Khi không tôi quớ lên và mừng húm vì hai chữ…“thanh lịch” nhẩy bổ ra ngọ nguậy làm quen, tôi lại có cớ bắt quàng với cụ Nguyễn Du qua một nhà phê bình văn học thông kim bác cổ ba đời uống nước “phông tên” Hà Nội. Ông luận giải rặt ròi như thế này đây:

“…Văn học Thăng Long-Hà Nội trong nhiều thời kỳ lịch sử đã có khả năng thu hút các thành tố mới mẻ từ mọi miền đất nước dồn về từ “văn học Kinh Bắc”, “văn học Thanh-Nghệ- Tĩnh” v.v. sau mấy nghìn năm tụ hội. Văn hóa Tràng An buổi sơ khai đã xuất hiện nhiều kỳ sĩ trong đó có Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương. Họ không sinh trưởng ở Thăng Long nhưng chính môi trường văn hóa Thăng Long đã nuôi dưỡng và phát triển tài năng họ.

Chúng ta cũng thường nhắc đến bước đột khởi của văn xuôi Việt Nam trong sáng, nhiều gợi cảm qua Tự lực văn đoàn. Chúng ta thường hay nhắc đến Lê Đạt, Trần Dần lúc nào cũng mê mẩn cách tân, làm “phu chữ”. Những tinh kết từ mọi con người đã tìm về đây phải được Hà Nội công nhận, bằng không sẽ bị đào thải. Bây giờ cũng vậy, thời nào cũng thế, Hà Nộị bao giờ cũng là các nơi hội tụ về và thanh lọc đi, cuối cùng những gì tinh hoa nhất lắng đọng lại chính là văn hóa Hà Nội ngàn năm văn vật.

Nhưng trong giai đoạn xáo động gần đây làm vợi bớt đi những kết tinh từ lâu đời và đưa vào những tính cách chưa thật đẹp. Những xáo động ấy làm Hà Nội bây giờ mất thanh lịch quá nhiều, làm văn hóa truyền thống của Hà Nội phai nhạt đi. Để trở lại thanh lịch như mong muốn thì phải chờ thời gian xác lập lại trật tự hợp với quy luật. Ngày xưa tôi thấy bố tôi nói, người ta đi ngoài đường không nói những lời sỗ sàng, bây giờ thì chuyện ấy có nhiều, nhất là với những nhà văn, nhà thơ, ăn mặc lịch sự thế mà lại hay chửi thề, hoặc đang đi bỗng quay ngang đái toẹt một bãi, rồi bình thản đi thẳng…”.

***

Quay sang nó, tôi thấy thằng dép râu này nào có khác gì…cụ Nguyễn Du, cũng mang ‘’bản sắc’’ văn hóa truyền thống của Thăng Long hoài cổ, từng giã biệt đồng bái quê mùa, mò lên phố thị với văn minh bột giặt, bia bọt, điện thoại tay cầm, trái nắng trở trời giọng nói của nó cũng hoài đồng vọng với cua ốc mùi bùn ra phết…Trong khi tôi rúc vào mây trốn gió, nó lụi đụi đốt lò hương cũ giống hệt tôi lúc nào chẳng hay:

– Hội nhà văn có một dạo nằm mé khu phố cổ gần chợ Đồng Xuân là một tập thể lãnh đạo. Không chừng hội là âm bản của Tự lực văn đoàn. Tự lực văn đoàn là tổ chức văn học đầu tiên mang đầy đủ tính chất của một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại, thể hiện cung cách một trường phái văn học hoàn chỉnh, khu biệt với kiểu cách tổ chức Hội nhà văn bây giờ, thưa bác.

Tư cách rất đáng trọng của Nhất Linh là biết khơi gợi đúng thiên hướng từng người để mỗi tác giả trong văn đoàn trở thành một cây bút cho mỗi thể loại. Như Thế Lữ, dưới mắt Nhất Linh phải là người mở đầu cho thơ mới mà Xuân Diệu chỉ là người kế thừa. Tự lực văn đoàn cũng là nơi phát hiện những tài năng như Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Thanh Tịnh, Trần Tiêu cho Hội nhà văn sau này. Ngay cách họ tổ chức giải thưởng văn học cũng khác, hội đồng giám khảo không bao giờ đồng thời lại là ứng viên dự giải. Chẳng như với Hữu Thỉnh vừa là chủ tịch Hội nhà văn, vừa ghi tên dự giải và vuốt mặt ẵm luôn giải thưởng của hội….’’.

***

Nghe thủng chuyện, thấy có “liên hệ” đến Xuân Diệu. Chuyện là làm thế nào được sau bao nhiêu năm kẻ Bắc người Nam, tôi chẳng có gì để mà chọn lựa nên đành nói chuyện súng đạn cho bõ ghét. Tôi hỏi nó về thơ…ông Hồ. Nó sửng cồ:

– Bác hỏi dấm dớ bỏ mẹ, em hỏi lại bác nhá “Bác có thấy bài nào của ông ấy hay không? Đừng nói đến cả bài, đến một, hai câu cũng không nốt! Ấy vậy mà kỳ rồi, họ chọn 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20, trong đó có một bài của ông Hồ. Lại là duy nhất một bài thơ…chữ Hán. Đấy!

Dậu đổ bìm leo, làm như hoa cỏ dại khờ tôi hỏi đến cu ty tỉ muội:

– Vậy chứ những nhà thơ có nhiều như…tủ lạnh chạy đầy đường không chú?

Nó cười cái hậc, miệng tòng tọc:

– Bác nói hay nhể! Bác biết tỏng ra đấy còn hỏi, thì như Nguyễn Huy Thiệp đã tung hê: “Trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó, nhà thơ…lên đồng. Viết văn, làm thơ phải có trình độ chứ không thể nghiệp dư, tuỳ hứng được. Ngay cả phê bình văn học cũng không phải cứ mũ cao áo dài và kiểu chiếu hoa một cõi mãi được…”.

Túm được “phê bình” là nghề của…”chàng”, tôi bèn gãi ngứa:

– Phê bình văn học miền Bắc, anh thấy cũng bình thường thôi?

Nó gân cổ cãi inh lên:

– Bác dở hơi vừa chứ…chứ bình thường thế chó được, các nhà phê bình thâm tâm đều muốn mỗi nhà văn là một mặt bằng, là một con vật không cựa quậy để họ dễ thọc dao. Nhưng bất cứ ai đều có thể viết bài ca tụng Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm hoặc một cuốn tiểu thuyết được giải của…Hội nhà văn với “hội chứng chửi có thưởng”. Chả nói ra thì ai cũng biết, phê bình như vậy cũng có vài trăm ngàn…tiền nhuận bút. Hậu quả khâu phê bình là trung thành và tận tụy đối với chế độ. Những nhà phê bình hầu như luôn luôn đứng ở hàng đầu trong mọi danh sách được sắc phong. Đấy! Thưa bác.

Tôi thấy nó cứ múa mép khơi khơi. Chợt quan hoài đến phê bình trong nước chỉ rặt dọa nạt, mắng mỏ, đe nẹt nhau từ miếng ăn, manh áo, từ thìa đường, quả trứng. Tôi…thọc dao nó:

– Chú đã “chửi” ai chưa?

Nó cười khùng khục:

– Úi giào, bác cứ nói thế, bác chỉ hỏi nhăng lấy được…em chỉ phát biểu quan điểm của người khác trên cơ sở em cảm nhận. Cho ăn gan giời trứng trâu em cũng chả dám bắc kiềng lên lưng ai mà đun, trong giới phê bình họ hay dùng từ “đánh”. Gần đây Trần Mạnh Hảo…đánh Nguyễn Huy Thiệp: “Các anh các chị có biết thằng Thiệp là thằng phản động không? Nó đã phát biểu bêu riếu cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc ta”.

Phê bình thế này nhảm thật chứ chẳng chơi. Cái đầu đất của tôi lấn về với mảng văn học ngoài nước, tôi thăm dò nó đã rờ tới nhà văn miền Nam nào chưa? Và nó thông minh không đều, và…lạc đề nữa:

“…Trong một cuộc tán gẫu về văn học quanh một bàn nhậu ở Hà Nội, vào dịp một nhà phê bình văn học miền Nam về thăm nhà. Nhà phê bình miền Bắc hỏi: “Nghe nói hình như anh có phê bình một cuốn sách của Võ Phiến?”. Nhà phê bình văn học miền Nam gật đầu xác nhận. Nhà phê bình văn học miền Bắc tiếp: “Tôi không hiểu tại sao anh lại mất thì giờ như vậy. Tôi thấy Võ Phiến viết xoàng lắm”, nhà phê bình miền Nam hỏi lại: “Anh có đọc Võ Phiến nhiều không?”, và được trả lời: “Tôi chỉ đọc vài bài viết của trên báo thôi.”. Nhà phê bình miền Nam nói: “Mới đây Võ Phiến cho in bộ sách văn học miền Nam…”. Chưa nói xong thì bị chặn lại và nhà phê bình miền Bắc lên giọng, gay gắt: “Tôi thấy Võ Phiến chỉ viết linh tinh”. Nhà phê bình miền Nam ngạc nhiên: “Ủa, anh đọc rồi hả?”, nhà phê bình miền Bắc đáp đầy tự tin: “Chưa. Tôi không có bộ sách đó…’’.

Chuyện này tôi cũng nghe qua và cũng…hết ý và cũng muốn…hết chuyện cho rồi. Trộm nghĩ rằng những người Hà Nội “thanh lịch” hôm nay xuất thân từ trường viết văn Nguyễn Du, qua sách báo, tôi đoán chừng họ thường gặp nhau trong quán nhậu, quán ba ba, thịt rắn, thịt rừng. Kém kém một chút thì bia hơi vỉa hè. Bí beng chút nữa, vài chén rượu đế hột mít có cặn trước mâm thịt cầy. Họ hết đứng rồi ngồi, hết đ. cha thì đ. mẹ, hết cười rang rức đến suy tư…Khi say, họ thực sự dấn thân, họ vẫn đang sống giữa phố phường viết văn và…làm thơ. Lắm khi trái nắng trở trời, họ còn là nhà phê bình nữa. Cứ theo họ luận giải thì nhà phê bình làm nhà văn khó, nhưng nhà văn chịu khó mày mò để thành nhà phê bình cũng dễ thôi.

Bỗng dưng cái lưỡi đá cái miệng, tôi hỏi nó dạo này còn…liên hệ đến Hội nhà văn nữa chăng? Ý đồ tôi là muốn khép cánh cửa văn học lại, đẩy văng những nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình vào bóng tối cho tôi nhờ.

Khốn khổ, nó lại thông minh nhưng chậm hiểu, lại hiểu lộn tèng beng téc béc câu hỏi của tôi, cứ như đồng thiếp, nó dật dờ:

– Dào, nhếch nhác lắm bác ơi, cần phải đổi mới. Không thể viết như cũ được nữa. Tất cả đã cũ mèm, Dương Tường khá hơn cả, song cũng tắc rồi. Trần Đăng Khoa làm thơ bằng cách vất thơ vào rổ rá, cối xay… là vớ vẩn lắm! Nguyễn Huy Thiệp cũng bí ngô bí khoai. Vàng Anh cũng hết, một hồi họ đề cao hơi quá. Phạm Thị Hoài có khá hơn. Em không thích thơ của Nguyễn Đình Thi, của Hoàng Cầm. Chả có gì hay. Bác cứ phản biện đi, hay ở chỗ nào? Bác sắp ngoác mồm ra: “Thơ hay không phân tích, không giảng được!”. Nhưng không phải thế. Nếu hay là phân tích được tất.

Hớp tách trà cái ực như voi uống thuốc gió, nó rỉ rả:

– Về văn thì Nguyễn Khải có văn. Nhiều người có ý mà không tải được ra văn, cứ tải ra chữ lại hỏng, không ra sao cả. Phải có mắt xanh, cụ Nguyễn Tuân gọi là đầu mày cuối mắt, Tô Hoài thông minh, nhưng thẩm định xoàng. Ngay cả cụ Nguyễn Tuân. Đấy rồi bác hóng mắt ra mà xem, mươi năm nữa người ta không đọc cụ Nguyễn Tuân nữa đâu, cũ sì rồi! Đấy.

Bỗng dưng thằng dép râu phọt ra chữ nghĩa đầy cảm xúc vặc tôi:

– Mà bác hỏi ngu như lợn ấy! Lăn tăn làm gì cho mệt, em có nói sai bác cứ vả vào mặt em: Mấy năm gần đây em trả lại thẻ hội viên, cắt đứt những giao du với nhà văn, nhà thơ, ngữ ấy em chừa ra. Nhỡ chẳng may ông Nguyễn Huy Thiệp lại xếp em vào trong đa số các nhà văn Việt Nam đá cá lăn dưa thì bỏ bố!. Cũng xin thưa với bác, em có ngu thì cũng ngu một vừa hai phải thôi còn để cho người khác ngu với chứ. Nói dối phải tội, cái hoạt cảnh chợ chữ buổi này chẳng mấy vui, thưa bác.

Tôi cũng chẳng mấy vui cho lắm vì chẳng hiểu con lợn nó…ngu ở cái khổ nào? Thằng em dép râu đã hâm hấp chập cheng:

– Đấy! Đa số quần chúng lúc này thỏa mãn văn chương qua âm nhạc, phim ảnh, xòang xòang rau cải chợ, mớ xà lách hay mì ăn liền. Họ được ru ngủ bằng vào mở cửa cho miếng ăn, họ ngoảnh mặt với chuyện văn học và xa lạ với chữ nghĩa. Dường như chính sách nhà nước ta cũng muốn đề ra vậy, nên trong lĩnh vực văn học có không khí suy đồi, có những nhỏ to nhẽ ra phải phát huy đào tạo những nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình mới thì vài năm trở lại đây, nghe đâu lại có ý kiến hơi bất thường là bỏ đi…trường viết văn Nguyễn Du.

Xin thưa với bác: Rõ ra cái bất thường không ở trên giời rơi xuống. Cái bất thường sinh ra từ những cái bình thường. Cái bất thường rồi sẽ trở nên bình thường. Ở đây đang cần nhiều cái bình thường, thưa bác.

***

Nào phải là chuyện của tôi, cha chung không khóc lại đi cái khóc tổ mối, tôi định nói leo theo nó: Cũng bình thường thôi. Nhưng bình thường sao được vì tòan gặp những nhiễu chuyện gì đâu! Vì vừa lúc ngửa cổ hớp ngụm trà, mặt tôi như đeo đá với mắc chứng gì nó mang đôi dép nhét vào cái hộp, rồi đóng đinh treo lên tường…?

Nhưng ít nhất thì nó cũng đã sơn cái hộp…mầu đen! Đấy.

 

Thạchtrúcgiatrang
Phí Ngọc Hùng

( Nguồn: Vantuyen.net)

[Tác Giả] [Lãnh Vực]

 

 

Tìm Kiếm