…..
NGỘ KHÔNG CÔNG TRẠNG
…..
TỰA
Tây Du là một tiểu thuyết luận đề, nhưng cho tới nay hầu như chưa ai nhận ra chủ đề đó nên bao lời bàn luận đều trật lất. Vậy chủ đề đó là thế này: bất cứ cái gì hễ lên thì cao, hễ xuống thì thấp. Xuống biểu lộ bằng HỮU VI hình thể, cao biểu lộ bằng VÔ VI siêu giác. Một luận đề như vậy đòi người đọc phải phá chấp mới nhìn ra được. Đừng chấp vào xác thân “xấu xí” của khỉ mới thấy giá trị Ngộ Không, đừng chấp vào chức Thầy, chức Thượng Tọa mới thấy Tam Tạng không đáng làm học trò Đại Thánh. Phải phá chấp mới thấy cả đến Tiên, Phật, Thánh cũng có những bê bối mỗi khi sà chân xuống cõi hình thể hữu vi. Chính Ngộ Không còn bị sa lầy khi chọn học 72 phép địa sát nên bị đè dưới núi Ngũ Hành. Tuy nhiên, Ngộ Không còn giữ được nhiều hành trạng Vô Vi, nên đáng gọi là đạt minh triết. Không minh triết sao thỉnh được kinh vô tự, vì kinh vô tự là cái đỉnh cao chót vót của văn hóa loài người.
Xét theo đó thì Tây Du quả là một tiểu thuyết có máu An Vi, xứng đáng được triết lý An Vi bàn tới để tuyên dương Tôn Ngộ Không như người ngộ được đạo vô vi chân thực, hay như mẫu mực thượng thặng của một cuộc sống như chơi.
I. ĐI TÌM ẨN NGHĨA TÂY DU:
1. Tây Du là một bộ truyện lớn của Tàu được kể vào số “tứ đại kỳ thư”. Nó khác các quyển kia ở chỗ trào phúng và nhất là đầy tính chất triết lý. Chính điểm cuối cùng này đem lại cho nó giá trị trội hơn ba bộ kia rất xa. Thế nhưng điều này cho tới nay chưa được “khám phá”. Vì cho được khám phá phải có một vài ý niệm sơ sài giúp qui tụ được cái nhìn, nếu không thì chỉ lan man ngoài mặt không sao thấu được vào vòng trong. Đấy là điều đáng tiếc, vì trong dĩ vãng nhiều học giả Tây phương chê quyển Tây Du cho rằng tại sao lại có người phung phí tài năng vào việc viết một quyển sách tầm phào hạ cấp như vậy (như chúng tôi đã có lần đọc một tác giả ngoại quốc nào đó mà nay quên mất tên), cũng có người chê là sách chứa đầy mâu thuẫn … Nhưng chính sự mâu thuẫn ấy chỉ trỏ một triết lý ẩn tàng như chúng tôi sẽ nói tới sau. Ở đây chỉ cần ghi rằng chính sự mâu thuẫn đó, giữa cao đẹp và phi lý, giữa vô nghĩa và thâm sâu .. làm nên nét đặc trưng của quyển truyện. Bài này sẽ trình bày ít nét của nền triết lý kia mà tôi cho là ẩn nghĩa tầng nhì sau trào phúng là ẩn nghĩa tầng nhất với hy vọng sẽ giúp vào việc làm phục hoạt lại nền triết lý của Tiên Tổ Việt Tộc.
2. Tây Du là một câu chuyện thần thoại kể về một con khỉ phi thường họ TÔN tên NGỘ KHÔNG đã giúp Tam Tạng trong cuộc hành hương sang Thiên Trúc thỉnh kinh Phật. Trên đường đi gặp biết bao tai nạn do yêu ma bày ra để hại thày trò, nhưng nhờ tài phép của Ngộ Không nên mọi trở ngại đã vượt qua để thầy trò tới nơi xin được kinh như ý nguyện. Đó là cái lược đồ lớn để chứa đựng các truyện yêu, ma, Tiên, Phật đã có đầy từ lâu trước trong dân gian mà ở đây được kể lại dưới khía cạnh mới với tài văn chương của một tiểu thuyết gia cỡ lớn: các truyện đều khác nhau với lối thắt vào rất gây cấn rồi được cởi ra rất tài, khiến người đọc luôn luôn hồi hộp theo dõi cuộc hành hương của các nhân vật, cho nên ngay về phương diện kể truyện sách đã được nhìn nhận và được hoan nghênh truyền tụng cách xứng đáng. Thế mà đó mới là cái hay ngoài mặt. Cái hay chính cốt nằm trong hai tầng ẩn ý mà tầng đầu là trào phúng. Phần này dễ thấy và đã được bàn nhiều tuy nhiên có ít điểm tế vi cần được bàn thêm ở đây.
3. Điều nhận xét trước hết về vụ trào phúng đả kích chính quyền là điều thông thường thuộc hàng ngang. Điều đặc biệt của Tây Du là đả kích cả hàng dọc tức trời đất hay tôn giáo nữa. Do đấy sự đả kích mang một sắc thái nhân chủ đặm đà hơn nhiều.
Mũi giùi trào phúng nhằm vào triều đình quan lại được biểu thị bằng thượng giới: vua là Ngọc Hoàng, các yêu quái là quan lại: vì thế ta thấy Thượng Đế trong Tây Du rất mu mơ, Ngộ Không sinh ra đã không hay biết, đến lúc không đánh dẹp được phải chiêu hồi lại cũng không biết người biết của nên dùng Ngộ Không vào có việc coi ngựa tỏ ra không “tri nhân thiện nhậm”. Tri nhân là đức đầu của nhà cai trị thế mà Ngọc Hoàng thiếu thì dễ bất lực. Khi Ngộ Không đưa quân lên đánh nhà trời thì Ngọc Hoàng lo xanh mắt, phải cậy đến Phật Tổ mới trị nổi Ngộ Không tức là quyền đời phải lợi dụng quyền đạo. Ngoài bất lực lại còn bất nhân như vụ phạt quận Phụng Thiên đại hạn chết bao người chỉ vì quận hầu nóng giận người nhà đem đồ cúng đã tế trời vất cho loài muông ăn, thế mà nỡ dùng đến hình phạt gọi là kim tỏa: tức treo giây xiềng bằng vàng dài một thước tư, lớn cả bằng ngón tay, bên dưới thắp một ngọn đèn leo lét. Bao giờ lửa đốt đứt được giây xiềng thì mới cho mưa (hồi 87). Đọc lên ai cũng thấy ngay Ngọc Hoàng tàn ác: vì tội một người mà phạt cả quận cách nặng nề không cân xứng chút nào. Thế rồi triều đình của Thượng Đế cũng thối nát để cho tay chân đi làm bậy: rất nhiều yêu quái là người thiên cung như Thái Bạch Kim Cương bị Ngộ Không mắng trách: “Ta xem ngươi đã già sao mà nói láo quá vậy”. Yêu Huỳnh Bào cướp công chúa nước Bửu Trượng chính là sao Khuê Lan trong Nhị Thập Bát Tú tức cũng do trời cả chứ có đâu xa.
4. Hoạn quan bị đả kích trong truyện yêu Toàn Trân giết vua nước Ô Kê để đoạt cả ngôi báu lẫn vợ con khiến Ngộ Không phải trải qua bao gian truân mới thắng được, bắt nó hiện nguyên hình mới té ra là con sư tử lông xanh của Văn Thù Bồ Tát, vì vua Ô Kê có lỗi với Bồ Tát nên sai xuống để phạt tội. Ngộ Không nói: “Nơi phàm tục có câu “quân tử năng dung” sao Phật Tổ lại trả thù tư như vậy, khiến Sư Tử Xanh phạm đến Hoàng Hậu có phải là mất phép lịch sự không?” Văn Thù Bồ Tát trả lời: “Người nói cũng phải, nhưng Thanh Sư không đụng tới cung nga có đâu xâm phạm đến Hoàng Hậu, bởi nó là Sư Tử thiến đã lâu mà.” Bát Giái không tin lại rờ bụng Thanh Sư rồi cười ngất nói: “Thiến thật: Chú mày có tiếng mà không có miếng, không uống nước cũng chịu tiếng mang bầu…”(hồi 39)
5. Đại để đó là vài thí dụ trào phúng triều đình vua quan, nhưng đấy mới là vòng ngoài cùng; trong Tây Du mũi giùi trào phúng còn đi sâu hơn tức không kiêng nể tôn giáo mà có thể nói tôn giáo còn bị nhiều hơn vua quan. Đây là chỗ coi như mâu thuẫn vì truyện được tin là có ý nhằm mục đích phổ biến đạo Phật mà tựu trung lại sửa lưng đạo Phật rất nhiều. Nhưng xem kỹ lại sẽ nhận ra có sự phân biệt TĂNG với PHẬT như được nhắc lại nhiều lần rằng: “không tưởng Tăng cũng nên tưởng Phật”, tức Phật giáo xét như đạo lý vô vi thì được hoan nghênh, nhưng xét như giáo hội hữu vi thì bị đả kích. Về Phật ta thấy được đề cao hơn cả Ngọc Hoàng đúng theo quan niệm sai lạc của Phật giáo đã sa đọa. Ngọc Hoàng phải cầu cứu Phật mới trị nổi Ngộ Không. Ngộ Không chịu là không qua mặt được quyền phép Phật (nhảy không qua bàn tay) và bị Phật đè dưới núi Ngũ Hành năm trăm năm … Nhưng xét về giáo hội thì Phật giáo cũng mắc đầy tệ đoan bê bối vì đã để cho tay chân làm bậy còn quá Ngọc Hoàng. Số yêu ma do Phật tính ra còn trội vượt hơn của Thượng Đế. Con yêu Huỳnh Bào làm hại biết bao người, đến lúc truy nguyên ra mới hay là Đồng Tử giữ khánh tại đền Đức Di Lạc. Tôn Hành Giả nghe rõ đầu đuôi trợn mắt nói với Phật: “Thật là báo hại tôi! Thả gia đồng ra làm yêu quái, lại giả Phật giả chùa. Tội thất thoát ấy Phật Tổ tránh đâu cho thoát”.
Lại như vụ ba con yêu ở núi Sư Đà rất lợi hại . Thầy trò Tam Tạng bị bắt lên bắt xuống, cuối cùng phải cầu cứu tới Phật mới trị nổi. Đến lúc tra xét mới trật ra đó là Phật Mẫu hóa thân làm yêu Đại vương cùng với hai yêu khác là đồ đệ của Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát. Như Lai thú nhận rằng: “Ba con yêu đó ta đã biết rồi, hai con yêu có chủ, còn một con là thân thích với ta.” Tôn Hành Giả ngẩng mặt lên thở khì một cái nói: “Ôi chao! Té ra Phật Tổ để bà con thân thích hóa thân làm yêu quái hại chúng sinh ư? (hồi 77). Lại như yêu Huỳnh Phong là con chuột của Linh Khiết Bồ tát, yêu Linh Cảm đại vương là của Quan Âm nghĩa là rất nhiều bê bối xuất phát từ Phật.
Nhất là vụ phát kinh mới ê chề, thầy trò gặp biết bao cái bất ngờ đáng ngả ngửa. Trước hết là hai đệ tử cao cấp nhất của Phật là Ác Năng và Ca Diếp đòi lễ vật mới chịu phát kinh. Hai ông nói: “Hay quá! Đi thỉnh kinh mà tay không thì về truyền lại sao cho siêu nổi!” Té ra kinh không linh bằng đồ lỡi đi kèm! Khiến thầy trò ngạc nhiên vô kể. Ngộ Không nhất định kêu lên Phật Tổ, hai môn đệ đe dọa cản ngăn, Bát Giái Sa Tăng phải hết lời khuyên nhủ Ngộ Không mới chịu trở lại, nài nỉ hai ông mới chịu phát kinh, nhưng lại phát toàn sách giấy trắng không có dấu vết lấy nửa chữ. Thầy trò quá bỡ ngỡ, lần này không nhịn được nữa, Ngộ Không quyết kêu đến Phật để phạt kẻ tham tài: “Thầy trò tôi trăm cay ngàn đắng nhiều tháng lâu năm mới đến được đây, nhờ Như Lai phát kinh mà Ananda và Kasyapa đòi hối lộ, chúng tôi không có thì hai người phát kinh giấy trắng.” Ai ngờ chính Phật Tổ cũng không hơn gì. Ngài cười nói: “Chuyện ấy ta đã hay rồi, hai người phát kinh không lỗi, bởi kinh ấy quí lẽ nào thỉnh không mà đặng phước. Trước đây các sãi nơi này có đem kinh xuống nước Xá Vệ mà tụng cầu siêu cho Triệu trưởng giả. Nhà họ Triệu hoàn công có ba đấu gạo với vàng bạc chút ít, ta còn nói Triệu trưởng giả bủn xỉn, sau con cháu không được giàu sang. Nay thầy trò ngươi đến tay không mà thỉnh được bao nhiêu kinh còn than thở gì nữa” …
Thật không ngờ chút nào, chính nơi trung ương, ngay từ miệng Phật Tổ mà còn có những lời như vậy thì còn biết trông vào đâu. Tam Tạng đành dâng bình bát để lĩnh kinh hữu tự.
7. Đấy là Phật Giáo, chứ Đạo Giáo còn bị đả kích tàn tệ hơn nhiều, như vụ con nai bạch của Nam Cực tiên ông hóa yêu giả làm quốc trưởng nước Tì Khưu bắt hơn ngàn trẻ để lấy tim làm thang thuốc trường sinh cho vua (hồi 79)
Trong vụ nước Sa Trì các yêu giả làm đạo sĩ còn hành hạ cả Tăng Đồ bên Phật bắt làm nô lệ để xây đắp cung điện cho mình (hồi 45, 46). Chỗ này Đạo Lão bị đả nặng nhất, sách viết rằng tại miếu Tam Thanh các đạo sĩ làm chay tế Thái Thượng Lão Quân, trên bàn bày hoa trái bánh quà đủ thứ. Ngộ Không làm gió ầm ầm thổi tắt đèn, đổ tượng, mọi người sợ hãi ra về. Ngộ Không liền dắt Bát Giái và Sa Tăng vào ăn hết rồi đái đầy vào những lu vò để đựng nước kim đan. Đến khi mấy đạo sĩ đến uống lấy làm lạ hỏi kim đơn là thuốc tiên uống ngon lắm cớ sao lại thấy khai khai thế này (hồi 45)
Vụ con trâu của Lão Quân biến ra yêu độc giác tỉ đầy quyền phép, Tôn Hành Giả không thể thắng được phải lên cầu cứu Như Lai. Như Lai đưa mắt nhìn về phía núi Kim Dâu biết rõ ngọn ngành nhưng không dám nói rõ với Tôn Hành Giả… Cuối cùng khi tìm ra manh mối Ngộ Không trách Lão Quân: “Như vậy là Tôn ông đã thả trâu ra phá đời, hại người, cướp của không thể tránh tội được…”
8. Lược sơ qua như vậy đủ thấy rằng mục đích Tây Du không hẳn là truyền bá đạo Phật như người đời thường hiểu nhưng là đả phá những cái suy vi trái khoáy trong cả quyền đạo quyền đời. Còn ý sâu hơn là trình bày một nền triết lý chân chính một nền đạo lý uyên nguyên. Xin hỏi đó là Đạo lý nào? Triết lý nào? Rồi đây ta thấy rõ cả đạo lý lẫn triết lý đều đặt nền trên chữ không nên ở đây chỉ nói triết lý cho tiện.
Vậy đó là triết lý nào? – Triết lý chánh tà chăng? Không phải. Vì ai là chánh đây? Phật Tiên chăng? Thì chính các ngài đã chẳng ra gì, tay chân còn tồi tệ hơn nữa..
Đó cũng không phải Tâm Lý nơi mà Tam Tạng đại biểu lý trí , còn Ngộ Không biểu thị sức mạnh như một số người chủ trương. Nói vậy là thiếu quan sát, tỏ ra đã đọc truyện xuyên qua các thiên kiến, chứ nếu đọc đàng hoàng sẽ thấy liền Tam Tạng là vai tầm thường không thể nói là đại diện lý trí, còn thua Ngộ Không quá xa vì Ngộ Không thông minh lanh lợi tuyệt vời.
Có người nói đó là triết lý về con người, đường đi Tây phương đầy gian nguy là hình ảnh cuộc đời dưới thế. Thưa như vậy có được ít nhiều sự thực nhưng mới là cái nhìn thoáng qua ở tầm mức lý trí chưa đạt đợt nhận thức thâm sâu để qui tụ được mọi cái nhìn, mọi cử chỉ hành vi của các nhân vật vào một mối hầu làm hiện hình ra cái chủ đạo, nên cũng không phải là triết lý, ít ra triết lý đời mới cần phân tích và hệ thống.
9. Nói về nền triết lý tiềm ẩn trong Tây Du thì đến nay đã rất nhiều người bàn giải nhưng chưa thấy ai tìm ra được. Sở dĩ như vậy vì chính Ngô Thừa Ân cũng không ý thức hẳn được cái triết lý ẩn trong sách ông. Nói vậy không phải là chê mà chính là đề cao Ngô Thừa Ân, quả là một nghệ sĩ lớn nên đã viết dưới sự dẫn đưa của tiềm thức cộng thông, bên ngoài cả ý thức. Vì thế Tây Du là một biểu hiệu (symbol) mà không là một ẩn dụ (allegory): ẩn dụ thì không sâu bằng biểu hiệu vì biểu hiệu là cái gì nội khởi còn bên ngoài cả ý thức tác giả. Chỉ như ẩn dụ là cái tác giả ngầm hiểu, thí dụ việc đả kích triều đình là ẩn dụ, còn phần đả kích Lão Thích để đưa đến một triết lý khác thì phần lớn là biểu hiệu. Muốn nhìn ra nội dung biểu hiệu cần phải nhìn bao quát về không gian và dài lâu về thời gian mới mong qui định nổi nền triết ẩn trong. Đó là điều chúng ta thử làm trong các triệt tới.
II. TRIẾT LÝ TÂY DU
10. Muốn biết đó là nền triết nào thì câu hỏi đầu tiên phải đặt ra là vai nào là chủ động: Tam Tạng hay Ngộ Không? Sau khi đã tìm ra rồi thì bước sau sẽ phải là phân tích danh tính của vai chủ động đó vì danh nói lên tính. Đường đi của tính là triết lý sâu xa.
Thông thường hầu hết người đọc cho vai chủ động là Tam Tạng. Tuy không nói hẳn ra như thế vì vấn đề xưa nay chưa được đặt ra cách minh nhiên, nhưng cách mặc nhiên đều cho là thế, đến nỗi nhiều nhà bình luận trách Ngô Thừa Ân đã đưa Ngộ Không lên quá cao át Tam Tạng làm lu mờ ý định của mình! Sở dĩ thông thường nghĩ thế vì bề ngoài chính Tam Tạng đứng đầu cuộc thỉnh kinh, toàn truyện hướng về đó. Chính Tam Tạng mới là đại biểu cho thầy Huyền Trang một nhân vật có thực trong lịch sử chứ có phải truyện tưởng tượng như ba vai khác đâu.
11. Tuy nhiên đấy là mặt ngoài không nên đem cái “thiên kiến” đó chụp lên Tam Tạng, một vai của tiểu thuyết , không phải là thầy Huyền Trang có thực. Tam Tạng chỉ là một nhân vật tưởng tượng như ba vai khác do Ngô Thừa Ân dựng nên ứng hợp cho mục tiêu của mình và xa hơn cả mục tiêu của ông vì nó không còn nằm trong ý thức Ngô Thừa Ân, nhưng lan sâu vào cõi tiềm thức cộng thông của đại gia đình văn hóa Việt. Nói khác Tam Tạng không là nhà sư Huyền Trang, Phật Như Lai trong truyện không là Phật Thích Ca. Việc thỉnh kinh cũng chỉ là “cái đinh’ để tác giả treo “cái áo” của mình tức những điều ông muốn bày tỏ gián tiếp qua câu truyện.
Theo phương pháp phê bình nội tại thì phải căn cứ vào chính tác phẩm mà quyết định xem đâu là mục tiêu chứ không được theo thiên kiến gán mục tiêu cho tác giả, rồi khi thấy sách không theo mục tiêu tự mình gán ghép lại quay ra trách tác giả đi quá xa gán kiểu đó là thiếu khoa học.
Vậy khi cứ khách quan mà đọc ta thấy gì. Trước hết ta thấy sách mở bằng bảy chương giới thiệu Tôn Ngộ Khong một cách lớn lao đến độ làm rung động cả trời đất. Đang khi Tam Tạng thì ỉu xìu trong hơn một chương. Xem thế đủ biết đâu là vai chính. Có học giả phải đọc mãi tới chương 50, 60 mới nhận ra là Ngộ Không lấn át Tam Tạng và trách tác giả thì đủ biết đọc truyện như vậy xa tinh thần khoa học biết bao.
12. Đến khi bước vào hành động thì Tam Tạng chẳng có chi phi thường ngoại trừ chức tước của Phật ban cho như gỡ bùa để cứu Ngộ Không, hay đặt cái vòng cẩn cô lên đầu Hành Giả để cưỡng ép sai khiến… Toàn là những cái bên ngoài do chính quyền ban cho chứ về nhân cách thì Tam Tạng chỉ có được một vài giá trị giả tạo làm bằng các giới răn tiêu cực như tránh đàn bà, kiêng ăn mặn, còn tích cực như trí, nhân, dũng là ba đức căn bản làm nên con người thì hầu như không được nết nào. Xuyên qua toàn truyện ta thấy Tam Tạng chỉ là một con người thường, quá thường đến độ tầm thường: chỉ đại biểu cho thầy Huyền Trang được có một điểm là lòng sùng đạo và một phần chí cương quyết đi thỉnh kinh, ngoài ra các đức khác hầu như zéro, ngay đến ý chí đi tìm kinh cũng nhiều lần tỏ ra bị lung lạc tuy cũng có lần quyết định mạnh nhưng mạnh theo kiểu kẻ điếc không sợ súng, nhưng không ngờ đường xá quá xa xôi hiểm trở đến như vậy nên bao lần than thở nhớ cửa nhớ nhà, than thân vì phải dãi gió dầm mưa, ăn sương nằm tuyết, chẳng biết ngày nào đến được Tây phương … Tôn Hành Giả phải can ngăn an ủi rằng nếu cứ hoài tưởng đến cố hương như vậy thì lòng sẽ không vui, chỉ có bền lòng trì chí mới có thể đến xứ Phật được. Đấy là phần CHÍ.
13. Còn về TRÍ thì dưới trung bình: hễ lần nào gặp rừng sâu núi hiểm thì bao giờ cũng nhắc lại hoài một câu “Nếu núi này cao chắc có yêu, các trò phải ý tứ “. Một người có chút óc sáng tạo bao giờ lại chịu nói mãi một câu như vậy, nhất là khi đã thấy nhiều lần quyền năng và óc thông minh lanh lợi của Ngộ Không. Chỉ cần chứng kiến vài thi thố là hiểu rằng thiếu Ngộ Không là phải dẹp tiệm liền, vậy mà vẫn dám đuổi Ngộ Không đi để rồi bị yêu bắt. Có lần bị nó bắt biến ra cọp câm mà rồi cũng không sao nhận ra được, cứ còn cãi lại Ngộ Không. Biết bao lần cãi lời Ngộ Không mà bị hãm vào vòng yêu quái. Yêu Hồng Hài Nhi giả làm đứa trẻ tám tuổi bị treo trên cây cũng đòi phải cứu cho bằng được, Ngộ Không can ngăn thì chửi bới om sòm, vào hùa với Bát Giái đi giải thoát cho yêu để rồi bi nó bắt (hồi 40). Yêu ĐỊA VÕNG PHU NHÂN giả làm người con gái bị chôn chân cũng đòi môn đệ cứu cho được, rồi bị nó hãm hại y như lần trước. Về sau còn nhiều lần như vậy. Ngộ Không thường trách: “Thầy ơi sao thầy không biết thiệt giả làm trễ việc đi đường” (hồi 95)
14. Nói đến đức DŨNG lại còn thiếu hơn nữa. Nhát một cây. Đã vậy lại còn mổ dưới, động một tí là khóc, mất cái áo cũng than thở cả đêm không ngủ được. Thấy Ngộ Không đập chết con hổ liền kinh hãi ngã khỏi ngựa. Suốt trong truyện việc làm nhiều nhất của Tam Tạng là khóc lóc than van, ngã chết ngất, chết lịm vì sợ; không sang được sông Lưu Xa cũng khóc om sòm, nhút nhát đến nỗi tiếng đồn khắp nơi. Yêu tinh đại vương dặn dò đồ đệ rằng Tam Tạng tính nhát lắm không được làm sợ kẻo thịt nó chua ra ăn hết bổ (hồi 76).
15. Trí dũng đã thiếu mà đến đức NHÂN lại quá ọp ẹp: rất khó tính, sai bảo những cái trái ngược. Quan Âm cho vòng xiết cô để liệu cách tròng vào đầu Ngộ Không, một khi đội vào đầu rồi mà Tam Tạng niệm chú thì Ngộ Không đau đến bể đầu, như vậy để dễ sai bảo. Công việc quá dễ dàng: với Ngộ Không đầy óc hoạt động, thích khám phá lẽ nào không đội thử. Có cần chi phạm vào giới bất chính ngữ, vậy mà cũng phải nói dối: rằng đội mũ nọ thì người trở nên thông minh, đọc kinh mau thuộc (hồi 14). Thế rồi một khi nắm được bí quyết niệm vòng xiết cô thì xử dụng tối đa cả những lúc không cần, làm cho Ngộ Không vật mình vật mẩy… tỏ rõ thiếu lòng lân mẫn. Về sau có lúc ăn năn thề sẽ không bao giờ niệm nữa, thề rồi lại nuốt lời liền sau đó: niệm chú biết bao lần nữa tỏ ra chữ tín nghĩa thiếu luôn.
Lại còn khó tính khó nết: mất ngựa ở suối Ưng Hầu (hồi 15) thì ngồi lo lắng than thở làm sao mà đi được. Khi Ngộ Không nói ” Thầy yên tâm ngồi chờ đây để tôi đi tìm” thì lại la mắng rằng “Để ta một mình, yêu đến bắt ăn thịt ta thì sao?” Nói rồi ngồi than thở không cùng. Tôn Hành Giả nổi giận : “Rất khổ tâm với thầy: ngựa thì muốn cưỡi mà người chẳng cho đi, hai thầy trò cứ ngồi mãi đây mà chịu chết sao?”
Tóm lại Tam Tạng không có đức nhân mà chỉ tạm có thứ TỪ BI ủy mị ở trình độ CẢM XÚC nghĩa là không được trí tuệ hướng dẫn cũng như dũng cảm đi kèm, đó chỉ là thứ từ bi bó sát lấy hiện tượng không sao siêu lên được để xem cái thực đằng sau, nên hễ động vào đâu là gây tai hại cho mình tới đó. Ngộ Không phát cáu: “Xin thầy thâu thứ từ bi đó lại đi” (hồi 25). Thầy nghe lời dua nịnh của Bát Giái, được chim bỏ ná, được cá quên nơm, khiến người như khiến súc vật, thì sao gọi được là tu hành minh chính (hồi 27).
16. Tu hành minh chính phải là tu dưỡng được cái nguồn linh lực làm phát triển tiềm lực nơi con người, đàng này chỉ biết có lối tu ẩn ức được đại biểu bằng Bát Giới tức là cấm kỵ như tránh đàn bà, kiêng ăn mặn v.v… thì đó là những tác động tiêu cực không đủ sức nhổ tận căn được mấy mục kia, trái lại nó sẽ chìm xuống vùng tiềm thức nằm chờ sẵn đó, và thường bắt liên lạc ngầm với những mối thông cảm ưa thích vô thức. Tất cả cái khối ẩn ức đó được biểu thị bằng Bát Giái một hiện thân của thèm khát, mê ăn, mê ngủ với cái dục tính đầy chất bật bong. Thế mà Tam Tạng lại chỉ nghe có Bát Giái, vào hùa với Bát Giái để chống Ngộ Không. Nhiều lần Ngộ Không phải nói thẳng: “Thưa thầy, thầy vẫn còn tính riêng tây hay cưng Bát Giái, sao thầy biết Bát Giái không chịu đi, có phải thầy tìm lối đỡ bớt chăng?” Chỗ khác: “Tôi thấy thầy vẫn còn riêng tây hay cưng Bát Giái”, hoặc “Tính thầy cư xử không công bằng” (hồi 38).
Tóm lại, trong Tây Du điều làm cho người đọc khó chịu nhất là những hành vi, cử chỉ của Tam Tạng.
17. Trong đoàn chỉ có Ngộ Tịnh là khá nhất, giống thầy chùa chân tu, Tam Tạng cũng phải công nhận như vậy, nên đặt tên là Sa Tăng. Sa Tăng vượt xa Tam Tạng và Bát Giái. Sa Tăng đại biểu cho các tăng đồ cấp dưới không bị quyền bính làm hư: nên giữ được khá nhiều lương tri, đời sống bình hành. Còn Tam Tạng chỉ biểu hiện cho hữu vi, kềnh cơi rắc rối (unworthy encumberer), thai phàm xác thịt, chỉ nhờ vào tổ chức của giáo hội và có tu lâu nên được đặt lên địa vị cao chứ có gì cân xứng để đáng mặt thầy đâu? Nói cho cùng chưa đáng làm môn đệ Ngộ Không mà chỉ ở đó tạo cơ hội cho Ngộ Không biểu diễn khả năng phi thường. Xem thế đủ biết khi tác giả đưa ra “vai chính” quá tầm thường để cho vai chủ động vòng trong nổi bật là ông muốn chứng minh đạo vô vi vượt xa hữu vi sắc tướng vô vàn. Thiếu Ngộ Không thì cuộc đi đã dừng lại ở ngay tai nạn đầu tiên tại núi Sà Bà: Tam Tạng đã tiêu ở đấy rồi… “Sống chưa nổi nói chi đến cứu độ chúng sinh”. Vậy mà còn trải qua hơn bốn mươi tai họa khác nữa trong đó nhiều cái tự mình gây ra vì khờ dại, vì nghe lời kẻ ngu xúi bẩy để cuối cùng Ngô Không lại phải ra tay. Người vô tích sự như vậy làm sao đủ sức đóng vai chủ động.
18. Ngay trong cõi hiện tượng đã tầm thường huống chi đường đi Tây phương phải tính chuyện với những yêu quái đầy quyền thuật. Phải giao dịch với Tiên, Phật, với Ngọc Hoàng. Phải lên tiếng chỉ trích tự Phật Tổ trở xuống qua Ngọc Hoàng đến Lão Quân. Tam Tạng sức mấy mà đóng vai chủ động. Đừng nói tới bảo hộ cứu nguy khi đi đường, ngay lúc tới nơi đi thỉnh kinh và cả việc ngộ đạo nữa cũng do Ngộ Không chủ động hết. Quả xứng tư cách là thầy của Tam Tạng. Truyện kể rằng khi gần tới sông Thông Thiên, Tam Tạng hỏi: “Ta sẽ đi đâu mà ngủ đêm?”, Ngộ Không trả lời: “Thưa thầy đó là câu hỏi nên dành cho người thường chứ những người hành hương như ta không nên nhắc đến.” Tam Tạng hỏi: “Khác nhau chỗ nào?”. Ngộ Không trả lời: “Người thường thì vào giờ này đang hú hí với vợ với con trong giường êm đệm ấm, nằm ngồi thoải mái như ý muốn sao được vậy. Người hành hương đâu có quyền đòi hỏi như vậy, gặp được trăng sao là phải đi, phải biết dầm sương giãi nắng suốt dọc đường trường ..” (đoạn này không có trong bản dịch Việt). Đến khi thấy núi Linh Sơn chính cống Tam Tạng lại không lạy. Ngộ Không phải nhắc: “Thầy thì cứ thấy đâu là lạy đó, nay đã tới chính núi thánh thiệt lại ngồi ỳ trên ngựa là sao?”
Đến lúc gặp bước quyết liệt là phải đi trên cầu độc mộc thì không dám, mặc dầu Ngộ Không đã đi đi lại lại cho mà xem. Cuối cùng không sao được phải sang sông bằng đò nhưng là đò không đáy, Tam Tạng cứ đứng co rút vào, than thở là thuyền không đáy làm sao đi. Ngộ Không phải tóm gáy Tam Tạng đẩy mạnh xuống thuyền. Tam Tạng rơi thẳng xuống nước , được ông lái đò giơ tay nâng lên. Tam Tạng vừa vắt quần áo vừa càu nhàu mắng chửi Ngộ Không.
19. Thoát chốc thấy một xác nổi trôi lềnh bềnh, Ngộ Không nói là xác thầy đó. Ông lái đò cũng nói theo và thêm lời mừng cho. Mãi bây giờ Tam Tạng mới nhận ra được là mình đã thoát xác phàm, cảm thấy nhẹ nhõm bước được lên bờ mới quay ra lạy tạ ba “môn đệ”! Lạy tạ môn đệ ! sao lại kỳ lạ thế. Vậy mà đó là việc hợp lý hơn hết mà Tam Tạng đã làm được trong cả trong chuyến đi, vì đối với Ngộ Không lẽ ra Tam Tạng đã phải lạy tạ cả trăm lần rồi. Bởi thực ra đó không là học trò mà là thiên thần bản mạnh phù hộ cho Tam Tạng, nhất là Ngộ Không thì không những là thiên thần bảo hộ mà còn là cha linh hướng cho Tam Tạng nữa. Như vậy ta thấy rõ vai chủ chốt là Ngộ Không, không thể chối cãi được. Sở dĩ xưa rầy người ta không nhận ra điều đó vì tại để mình bị vướng mắc trong hữu vi sắc tướng: coi trọng tăng, khinh dể XÁC THÂN khỉ đột, mà không để ý đến linh hồn của Ngộ Không, không để ý đến tên Ngộ Không, không để ý đến cái đinh của quyển truyện là thỉnh được kinh vô tự. Tất cả giá trị nằm trong chữ KHÔNG đó. Tam Tạng bám vào hình danh sắc tướng biểu thị bằng tụng kinh hữu tự thì dù có tụng cả ngàn quyển kinh gõ vỡ cả trăm cái mõ cũng không sao siêu thoát nổi: sức mấy mà làm được Thầy. Trong truyện đặt làm thầy chính là nghệ thuật của khôi hài trào phúng: cái đáng làm thầy lại là trò: hài hước ở chỗ đó.
Khi đã nhận ra vai chủ động rồi mà muốn nhận ra khuôn mặt nền triết lý nọ chỉ cần xem đến các danh hiệu của Ngộ Không. Vì với người xưa danh là tính, cứ phân tích danh hiệu một người thì biết bản tính người đó, tức cũng là biết tính chất của nền triết lý nọ. Vậy danh hiệu của Tôn Hành Giả nằm trong ba cặp danh xưng là:
Tề Thiên
Đại Thánh
Ngộ Không
Ta hãy lần lượt phân tích từng cặp.
III. TỀ THIÊN
Đây là danh hiệu do triều đình của Ngộ Không nói lên để tỏ lòng khâm phục những quyền năng siêu việt của Ngộ Không, rồi được Ngộ Không khoái chí nhận liền, cho đề ngay lên lá cờ bốn chữ TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH. Ngọc Hoàng cho thế là phạm thượng sai quân đi đánh dẹp, nhưng quân nhà trời thua nên bó buộc phải phong cho Ngộ Không chức đó. Ta sẽ thấy Ngộ Không bám sát danh xưng này, bất cứ nơi nào cũng xưng, trên trời hay dưới đất, dưới Thủy phủ cũng nhắc tới. Bị đè dưới núi Ngũ Hành năm trăm năm tưởng đã biết thân biết phận, nhưng không, vừa được giải phóng đã dùng lại ngay trong đêm đầu tiên đến trọ nhà ông lão gần núi liền xưng: “Ta là TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH lâu nay nằm nơi hộp đá, chắc Ngài đã có dịp tới xem. Vậy thử nhìn lại coi có đúng chăng?” Xin thưa ngay rằng có đúng mà cũng có trật. Ta hãy khởi đầu tìm xem đúng ở đâu?
22. Theo nghĩa thường thì Tề Thiên là có quyền ngang cùng trời: “the equal of heaven”. Chữ TỀ là bằng, là ngang nhau. Tề Thiên là ngang với trời, điều đó có thực chất được biểu lộ bằng nhiều cách như sau:
Trước hết là Ngộ Không độc lập ngay từ trong cách xuất hiện, đến Trời cũng không hay biết (Trời đây là theo quan niệm Phật giáo bé hơn ông Phật): như vậy Tề Thiên cũng như Trời: không do cha mẹ sinh ra, Tề Thiên chỉ do sức nóng lạnh của nhật nguyệt lần lần tụ tinh nứt ra một viên trứng đá, trong lâu năm trứng ấy tượng hình rồi gặp một trận gió lớn nở ra một con khỉ đá giống hệt như người, nhưng mau lẹ dị thường, cặp mắt sáng chói như hai cái đuôi sao Bắc Đẩu. Ngọc Hoàng đang ngự nơi Linh Tiêu điện thấy hào quang tự địa giới chói lên lấy làm lạ, đòi thiên thần đến hỏi:
– ” Lúc này nơi trần gian có xảy ra chuyện chi? Tại sao lại có hào quang sáng chói?”
Các thiên thần cũng ngớ ra không ai biết chi cả. Ngọc Hoàng liền sai Thiên Lý Nhãn, Thuận Phong Nhĩ ra cửa trời xem thử. Hai thần đi dò xét một lúc về báo tâu Ngọc Hoàng hào quang đó là đôi mắt của một con khỉ đá.
Ngọc Hoàng ngạc nhiên hỏi: ” Cõi trần gian sao lại có được loài khỉ phi thường đến vậy”. Và khi biết rõ thì phán tiếp : ” Thế thì phải làm thế nào để tiêu diệt luồng nhãn khỉ đó đi.”
23. Giới thiệu Ngộ Không lớn lao như vậy, xuất hiện độc lập bên ngoài quyền phép và sự hiểu biết của Ngọc Hoàng đến độ làm cho Ngọc Hoàng phải băn khoăn lo ngại, đủ biết đúng là Tề Thiên ngang với Trời rồi còn gì.
Thứ đến sự ngang vai đó còn biểu hiện bằng vụ Ngộ Không chọc trời quấy nước: xuống tận Long Vương nơi Đông Hải để mượn khí giới , nhờ vậy thâu được cây Như Ý Kim Cô Bảng. Rồi vào điện Sum La đập thần chết, bắt Diêm Vương phải đưa sổ tử ra để xóa tên mình.
Diêm Vương và vua Thủy Tề liền kiện lên Trời, Ngọc Hoàng cho quân trời xuống đánh nhưng bị thua nên bó buộc phải công nhận chức Tề Thiên của Ngộ Không và xây nhà cho ở luôn trên thiên cung, hy vọng nhờ đó có thể khép Ngộ Không vào pháp luật. Nhưng uổng công vì Ngộ Không nhờ dịp ở thiên giới ăn trộm bàn đào của Tây Vương Mẫu, uống cạn rượu tiên cũng như ăn cả thuốc trường sinh của Lão Tử, cuối cùng còn đòi cả Ngọc Hoàng phải nhượng chức cho mình. Ngọc Hoàng sai quân đi đánh nhưng thua phải cầu viện tới Lão Quân dùng phép mới bắt được, tính đem bỏ vào lò Bát Quái nấu cho rục xương; nhưng nấu hết bốn mươi chín ngày mà Tề Thiên chỉ đỏ có đôi mắt vì khói lò quá mạnh, nhưng toàn thân vẫn yên lành nên cứ nằng nặc đòi Ngọc Hoàng phải nhường ngôi cho mình. Sau cùng túng quá Ngọc Hoàng phải cậy đến Phật Tổ và Phật Tổ phải bày mưu đánh lừa mới đè được Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành, bắt nằm đợi đấy năm trăm năm cho đến lúc Tam Tạng thỉnh kinh đi qua sẽ gỡ bùa cho qui y để theo hộ vệ trên đường thỉnh kinh.
24. Đó là tóm sơ qua những việc khởi đầu của Lão Không. Thực không hổ danh với cái tên Tề Thiên vì toàn làm những việc lớn lao có tầm mức vũ trụ như trời vậy.
Tề Thiên nói : ” Tai bên tả ta nghe được những chuyện trên trời, tai bên hữu ta nghe được những chuyện dưới đất.” Chỗ khác trả lời Tam Tạng có nói: “Việc lấp bể vá trời tôi còn làm được huống chi là hú gió cầu mưa”
Tam Tạng chưa đạt thuật đằng vân còn Ngộ Không đã bỏ thuật đó lại xa để hiện thực pháp CÂN ĐẨU VÂN mau hơn cả ngàn lần.
Sa Tăng hỏi đường đến Tây bộ còn bao xa, Tề Thiên nói: “Đường đi từ Tây bộ đến Đông bộ cách xa mười muôn tám ngàn dặm nay đi mười phần mới được một.”
Bát Giái hỏi : ” Biết đi mấy năm cho tới.”
Tôn Hành Giả thưa: ” Nếu như hai em thì đi chừng mười ngày. Ta thì trong một ngày vừa đi vừa về năm chục lần. Còn như sư phụ thì ôi thôi hết trông hết đợi.”
25. Tam Tạng hỏi: “Ngộ Không người nói ta đi mấy mươi năm mới tới?”
Tề Thiên thưa: “Thầy đi từ nhỏ tới già rồi trẻ lại đi nữa, cứ thế phải một ngàn kiếp chưa chắc đã đến Tây phương, nhưng lòng thành thì ngó thấy Tây phương cũng gần.” (nếu lấy sự mau lẹ này làm thước đo dễ thấy Tam Tạng kém hơn Ngộ Không cả hàng triệu lần). Tam Tạng chậm hơn Sa Tăng, Bát Giái ngàn lần còn hai người này chậm hơn Tề Thiên một ngàn lần: đi mau như vậy đủ biểu lộ sự lớn lao của các việc khác cũng vẫy vùng trong khoảng trời đất như Trời. Đó là hình ảnh của Tề Thiên. Nếu hỏi đã bằng Trời sao còn bị Trời Phật cầm giữ? Đây là chỗ dần nói đến cái dở của Tề Thiên. Cái dở không ở chỗ nhận thức được mình bằng Trời, mình là con Trời và lý tưởng phải HÒA HỢP VỚI TRỜI tức phải bằng Trời: Tề Thiên. Nhận xét điều đó không là lỗi mà chính là bước tiến quyết liệt của tâm thức trên đường học hỏi triết lý “thiên địa vạn vật nhất thể” theo đó mình là con Trời, mình là một tiểu Thượng Đế đã tách ra khỏi Thượng Đế Cha để xuống trần học bài tiến hóa, nhưng rồi mê trần, nhiễm trần, vong thân không nhận ra chân tính mình là Trời, phải dầy công tu luyện lắm mới nhận ra mình với Thượng Đế không hai.
26. Như vậy nhận thức được điều đó là một bước tiến vĩ đại, cớ sao lại bị trách phạt. Thưa bị trách phạt vì Tề Thiên đã khai thác chân lý đó theo chiều sân hận, theo kiểu vô minh là muốn ăn thua với Trời, vì đó mà mắc lỗi. Cùng một sự thực “Tề Thiên” mà nhìn trong minh triết thì là một bước tiến. Nhưng nhìn theo sân hận thì là một lỗi lầm. Lỗi lầm của Tề Thiên phải là lời cảnh cáo gửi tới các vị tu hành chớ bao giờ kiêu ngạo, tưởng mình là lên cao lắm mà sinh lòng tự phụ, nhưng phải nhớ là đường tu còn dài vô kể, luôn luôn phải kiên trì và khiêm tốn, chớ bao giờ tự phụ đã đi tới cùng, nhất là đối với những bậc bên trên chớ tưởng mình đã cao hơn cả. Tự cao mấy cũng còn có chỗ thấp. Ngay Ngọc Hoàng (hiểu theo kiểu Phật giáo đặt Ngọc Hoàng bên dưới Phật) cũng còn đầy những giới hạn. Ngọc Hoàng cũng mu mơ không biết Tề Thiên ra đời. Không đủ sức đánh dẹp phải cầu viện Phật Tổ. Nhưng cả Phật Tổ cũng như Lão Quân tuy có hơn “Trời” nhưng cũng chưa vô cùng. Chỉ hơn Tề Thiên ít nhiều về quyền năng, chứ về đức bao dung quảng đại thì còn nhiều khuyết điểm. Có những điều Ngọc Hoàng biết mà không dám nói ra trước mặt Tề Thiên thì đủ biết Tề Thiên cũng đáng nể mặt lắm chứ, cũng nên chú ý Trời trong Tây Du ám chỉ triều đình nên chẳng thiếu điều đáng chống đối.
29. Đấy là lý do của biết bao lời cũng như thái độ Ngộ Không bị gọi là ngang tàng: tự do mắng Trời, chửi Phật, trách Lão Quân. Quan Âm năng bị chửi nhiều nhất, có lần Tề Thiên cho là nham hiểm ” Đã hứa đi hứa lại là sẽ băng trợ cho thầy trò trên đường đi thỉnh kinh, vậy mà còn có lần xúi bầy yêu ma làm hại chúng ta, lời nói như vậy tin sao được. Chả trách suốt đời sẽ chỉ là một gái ngồng chổng mông gào chồng” (No wonder she will remain a spinster all her life – Hồi 35 bản dịch của C.T. Hsia trong The Classic Chinese Novel p. 136. Không có trong bản dịch Việt) Đại loại những lời bằng vai như thế có đầy trong Tây Du. Phải cho Tề Thiên mắc lỗi rồi gặp nạn mới tiện cho Tề Thiên nói lên những lời chỉ trích Tam Giáo hữu vi như vậy. Ngay về mặt lỗi phạm cũng đặc biệt: Tam Tạng bị đầy vì không tụng kinh, Bát Giái vì ve gái, Sa Tăng vì lỡ tay đánh vỡ chén lưu linh, còn Tề Thiên bị đầy vì tội đại náo thiên cung, làm đảo lộn hỏa ngục, nghe vẫn thấy có cái gì lớn lao: đã bị giam giữ năm trăm năm, còn trước nữa chẳng biết kết tinh từ lúc nào, xem về sau thì là bất tử: như Trời rồi còn chi. Thật là Tề Thiên Đại Thánh!
IV. ĐẠI THÁNH:
28. Sau TỀ THIÊN ta hãy tìm nghĩa chữ Đại Thánh. Theo đồng văn lớn của Việt Nho thì Đại Thánh có nghĩa là đại thành, mà cái thành lớn lao hơn hết là thành nhân. Vì vậy chữ này không nên dịch theo tinh thần tôn giáo là great saint mà phải dịch là great sage tức là người không những đã phát triển được khả năng cao siêu tiềm ẩn nơi mình mà còn giúp người khác cũng được phát triển như vậy nên chữ thành NHÂN ở đây nên hiểu bao gồm cả Tiên Phật. Sự thành tựu này phát xuất tự bản tính con người được định nghĩa như một tài, một TÁC tức nét nổi hơn hết làm nên con người, làm cho con người biệt lập khỏi tất cả muôn vật ở tại chỗ nó là một TÁC GIẢ, một TÁC NHÂN theo đúng nghĩa chữ tác là tự chủ, tự động về các động tác của mình, vì thế tự động tự tác trở nên thước đo tầm mức con người. Thiếu nó thì không ra người, cũng như ra người nhiều hay ít là do sự tác động tự nội có nhiều hay ít.
29. Nếu quan sát trình sử con người ta sẽ thấy con người “làm ra” hết. Trong các việc loài người thì việc cao trọng hơn hết, lớn lao hơn cả là thành nhân. Khoa học nào giúp vào việc ấy hơn hết thì gọi là minh triết: Wisdom, người thành nhân là triết nhân: sage, là thánh. Vậy thánh là thành. Thánh nhiều gọi là chí thành, chí thành cùng cực kêu là thần, mà thần thì vô phương hay là vô vi tức vô thanh, vô xú. Theo chiều hướng này các triết học lý niệm bàn về trời, đất, sự vật đều căn cứ trên sự có (hữu thể) hữu vi, chỉ nên gọi là Ý THỨC HỆ hay tồi hơn là Ý HỆ, là triết học. Chỉ có khoa nào đi sát nút vào việc làm nên con người mới đáng gọi là minh triết . Minh triết giúp làm nên những bậc chí thành. Các tôn giáo gọi bậc thành công cao trọng của mình là thánh, triết cũng gọi là bậc chí thành của mình là CHÍ THÁNH, nên hiền thánh được gọi là thánh triết. Nhưng gọi thế là a dua với tôn giáo chứ thực ra thì các thánh trong tôn giáo theo một quan niệm khác hẳn về con người cũng như lối tu luyện. Về con người thì quan niệm có hồn có xác, hồn chỉ khác xác vì thiêng liêng chứ cũng hạn hẹp như xác, cùng lắm thì bất tử về thời gian biệt lập chứ thiếu không gian đi kèm nên không có tính cách vũ trụ, tức lớn lao như trời với đất. Đó là về quan niệm con người: chỉ có tiểu ngã không có Đại Ngã. Không thể có Tề Thiên nên cũng không có Đại Thánh theo nghĩa chí thành như Thần.
30. Đến như đường lối tu thân thì theo kiểu thanh giáo tiêu cực cho rằng muốn cứu hồn phải làm cho xác teo lại: xác càng teo thì hồn càng phổng. Vì vậy mà có đủ các thứ giới kị. Trái với Tề Thiên Đại Thánh tu thân theo lối “mậu thân” hay “mậu kỷ” tức là làm cho tươi tốt phát triển hai vòng: cả tiểu ngã vòng ngoài lẫn Đại Ngã vòng trong. Về tiểu ngã cũng phải toàn diện, nói theo tôn giáo thì cả hồn lẫn xác.. câu tục ngữ “mens sana in corpore sano” là đi theo chiều hướng này. Vậy khi nói chí thành phải hiểu theo quan niệm toàn diện nọ. Toàn diện hàng ngang là cả hồn lẫn xác, còn hàng dọc là cả tiểu ngã lẫn Đại Ngã.
Trong Tây Du, Ngộ Không đã tỏ ra hiện thực được điều đó ở cả hai cấp. Trước hết ở đợt tiểu ngã vì có can trường dám nhảy xuống biển sâu đạt chức làm vua, xưng mình là MỸ HẦU VƯƠNG: Như vậy vòng ngoài chính trị đã lên tới chóp bu rồi tức làm cho mình cũng như cả nước mình được sung sướng hạnh phúc.
31. Thế nhưng Đại Thánh chưa bằng lòng vẫn tuyên bố là không mãn nguyện với cái phạm vi chật hẹp hiện tại vì còn bị tận cùng bằng cái chết. Đại Thánh muốn tìm phạm vi bao la hơn, bao la vô cùng được biểu lộ bằng sự mong mỏi đạt tới trường sinh bất tử. Sự ao ước đó báo hiệu rằng trong con người Đại Thánh có khả thể nọ. Chính khả thể nọ làm nảy sinh ra ước muốn kia. Nhưng không cứ ước ao là đủ, còn cần phải có cái gì dẫn đến sự hiện thực mới là tác động hoàn chỉnh. Thế là ĐẠI THÁNH nhất định từ bỏ Thủy Liêm Động để đi tìm thầy, vì đường dẫn tới chỗ chí thành không những bao gồm tiểu ngã mà luôn cả Đại Ngã bao la như vũ trụ, không thầy làm sao nên. Vì đây là một vượt thoát thiết yếu để con người đạt cứu cánh nhưng cho tới nay số đạt còn quá hiếm. Điều đáng nói là hiếm ngay trong sự nhìn ra. Nói khác rất họa hiếm các triết gia nhìn ra được cứu cánh con người. Đại Thánh đã cảm thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ trong tâm hồn nên cất công đi tìm. Cuộc kiếm tìm này thực chưa có ai để công sức vào nhiều như vậy: lặn suối trèo non vượt qua hai đại dương, trải suốt chín năm trời, tìm đến bao động Tiên cửa Phật, nhưng than ôi đi mãi mà chỉ gặp bọn đồ danh mưu lợi không hề biết đạo là gì (hồi 16) mãi sau chín năm trời mới tìm ra được thầy ở LINH ĐÀI PHƯƠNG THỐN. Bốn chữ này có nghĩa là tâm đạo VÔ VI, vượt xa hữu vi sắc tướng.
32. Thầy thấy Ngộ Không thông minh duệ trí phi thường, nên đặt cho tên TÔN NGỘ KHÔNG, đúng là tên trung thực, nó bao hàm khả năng còn muôn trùng. Vì vậy cho ở lại hưởng chế độ lưu trú vừa làm vừa học: cứ như thế suốt bảy năm trời. Có lần Ngộ Không nghe kinh thấm ý liền cào tai gãi mặt, trợn mắt nhướng mày, khua tay múa chân đến nỗi nhảy vọt ra ngoài hàng mà không biết. Thầy thấy Ngộ Không có khiếu thông minh vượt xa các bạn đồng học nên bằng lòng truyền phép, liền kể ra các môn cao học để tùy ý Ngộ Không chọn. Ngộ Không xin học môn nào cho phép mình sánh được cùng Trời Đất, sống lâu muôn thuở, đầy đủ tinh thần, không bao giờ bệnh hoạn. Thầy kể ra nhiều đợt đều bị Ngộ Không từ chối hết, cuối cùng đến các phép lạ thì đạo tiên gồm có 36 phép thiên can, 72 phép địa sát. Ngộ Không xin học 72 phép cuối cùng này. Trong suốt bốn năm được thầy truyền riêng, Ngộ Không luyện tập thông thạo ” Tổ sư mừng được người học trò phi phàm tuyệt thế.” (hồi 29) Sau này trong cuộc hành trình dài lâu phải chiến đấu với đủ hạng yêu quái ta sẽ thấy Ngộ Không thi thố sở học như thế nào: khi thì biến ra con ve, con chim, khi lại ra con kiến, con bọ. Có lúc biến ra trăm ngàn Ngộ Không khác .. nước lửa không làm chi nổi. Lão Tử bắt được Ngộ Không cho vào lò Bát Quái nung 49 ngày đêm mà vẫn sống như thường, còn đủ sức đòi Ngọc Hoàng nhường chức. Phật phải giảng giải hơn thiệt nhưng Ngộ Không bất chấp, nên Phật lại phải lý luận theo triết lý tác động nghĩa là bảo Trời không tự nhiên được cao cả như vậy đâu, sở dĩ Trời được như vậy cũng là do công tu luyện lâu hơn Ngộ Không. Thích Ca cười nói: “Chẳng qua ngươi chỉ là một con khỉ thành tinh sao dám lớn mộng cướp ngôi Trời” Vì Thượng Đế tu đến một ngàn năm trăm năm chục kiếp, mỗi kiếp có nhiều vạn năm, còn ngươi tu luyện bao lâu mà dám giành ngôi báu?” Tề Thiên vẫn hiên ngang nói: “Đi tu nhiều để rồi làm vua cho được lâu sao? Hễ thiên địa tuần hoàn thì ngôi báu cũng phải thay đổi. Ngươi mau bảo Thượng Đế nhượng ngôi, bằng không ta phá nát thiên cung.”
33. Chỗ này xem ra Đại Thánh không trả lời thẳng lý luận của Phật Tổ đặt nặng trên công tu luyện lâu đời, mà lại nói đến đổi thay coi như ngụy biện, kỳ thực thì vẫn còn nằm trong bầu khí triết lý tác hành: lúc nào cũng tôn trọng sự biến động vì nó là căn để của tác hành, cho nên Trời không thể cậy vào công lao đã tích lũy do tu rồi mà hưởng tọa kỳ thành: sái với dịch lý lắm!
Thấy đấu lý không xong Phật Tổ phải đổi chiến thuật bằng đấu phép: thách Ngộ Không nhảy qua được bàn tay của mình. Ngộ Không liền dùng phép cân đấu vân nhảy một cái tới tận chân trời, thấy có năm dãy núi liền đề tên mình và cẩn thận đái vào chân núi để có bằng chứng cụ thể, rồi về khoe với Phật là đã nhảy xong. Phật liền giơ bàn tay còn ướt nước tiểu của Ngộ Không, thì té ra năm dãy núi chỉ là năm ngón tay Phật. Phật liền úp bàn tay xuống đè Ngộ Không dưới núi Ngũ Hành. Sự đè này chỉ nói lên giới hạn của Ngộ Không, nhưng không phá nổi tính chất lớn lao cao cả của Tề Thiên Đại Thánh.
34. Thỉnh kinh về rồi không thấy Ngộ Không thêm được phép chi ngoại trừ được phong chức, mà phong chức chẳng qua là việc hữu vi: tuyên dương chuyện đã qua, đã có rồi. Còn Tam Tạng thì trút được xác ngoài, nhưng không do đọc kinh mà do sự đi đường chịu khó và nhất là do công “ông thầy” Ngộ Không. Nên thay vì thỉnh kinh thì chỉ là một cuộc thay kinh, vì kinh chùa đọc không cứu được hồn, còn kinh xin về sau cũng không thêm lên được chi còn phải tẩy đi nữa, như đã được hiện thực trong lịch sử tự “duy thức” ra A Di Đà và Thiền. Đủ biết sức thánh của Tề Thiên thực là vĩ đại, đáng tên là ĐẠI THÁNH viết hoa.
TÔN NGỘ KHÔNG:
Bây giờ đến tên cuối quan trọng hơn hết cần được nghiên cứu đặc biệt đó là Tôn Ngộ Không. Đây là tên ông thầy của Tề Thiên đặt cho và được Ngộ Không luôn luôn nắm giữ, sau này Tam Tạng đề nghị đặt tên khác Ngộ Không từ chối lấy cớ rằng đã có tên rồi. Đó là một sự từ chối cực thông minh tỏ ra hiểu được tên kia chứa cái tôn chỉ, cái tinh túy hơn hết, không thể nào có tên cao hơn được nữa. Nó nói lên nét đặt biệt cùng cực của triết lý Ngộ Không. Vì thế Tam Tạng có đặt cho Ngộ Không tên Tôn Hành Giả thì Ngộ Không ư hự vậy mà không dùng, chỉ đôi khi xưng mình là LÃO TÔN thì chữ Tôn đã có trong tên trước rồi, vì hai chữ HÀNH GIẢ chẳng qua là quảng diễn ý tưởng tác động, tác hành đã nằm trong chữ ĐẠI THÁNH, chứ không thêm chiều kích mới gì vào phương pháp của triết lý có sức giúp làm nên Tề Thiên Đại Thánh cả. Hỏi rằng làm thế nào để có thể lớn ngang với Trời để nên Đại Thánh, trả lời rằng đó là chữ KHÔNG. Đây là tư tưởng đặc trưng của triết lý Đông Phương gồm cả Việt Nho lẫn Ấn Độ, cả hai đều đặt nền trên chữ không. Muốn đạt cùng đích, đạt cuộc sống cùng cực thì phải dùng cái KHÔNG làm phương tiện. Dùng cái hữu vi như Tam Tạng, thì dầu có tụng hết ba tạng kinh cũng không siêu thoát được.
36. Vậy xin hỏi thế nào là Không? Ấn Độ hiểu chữ không trên cấp SIÊU HÌNH, đó là cái không không “neti neti” mà nhà Phật diễn bằng “Thái Hư”, Tàu diễn ra “sắc sắc không không” thuộc về sự vật.
Đó là cái vô thể đối đầu với cái hữu thể (ontology) siêu hình của Tây Âu. Cái hữu thể này đặc sệt hữu vi tính nên được liệu lý bằng những nguyên lý của sự vật im lìm bất động tức nguyên lý đồng nhất A bằng A, cùng với công ty của nó như “căn nguyên”, “triệt tam” .. Đấy quả là những tay tuộc giam giữ triết học lại trong cái bất động bầy nhầy tai hại. Triết Ấn Độ đã muốn thoát bằng chối bỏ HỮU THỂ để đặt cước trên VÔ THỂ. Nhưng kết quả cũng bất động như hữu thể: chỉ vì nó là vô thể giả hiệu. Nếu là VÔ THỂ trung thực thì đó là chân không mà “chân không thì sẽ diệu hữu”. Nhưng đây không có diệu hữu nên ta phải kết luận là cái KHÔNG thiếu chân thực, cái không giả tạo ở cùng một bình diện với cái CÓ, nên là cái KHÔNG đối kháng tức là cái KHÔNG CÓ ở trong hình danh sắc tướng y như cái CÓ vậy.
37. Áp dụng vào trường hợp Tam Tạng: tuy biết nền móng Phật là Thái Hư nhưng trong thực tế toàn tụng kinh HỮU tự, thì linh hồn bị trì kéo xuống còn gì, phương chi còn biết bao thanh sắc đi kèm, ê a chuông mõ, nghi lễ rềnh rang. Vì thế quả là cái KHÔNG giả tạo, đã không thể giải thoát được linh hồn, mà về xã hội cũng không nhờ được chi do cái không kiểu đó. Trên cấp siêu hình thì toàn là quỉ ma yêu quái tác hại. Chính vì cái VÔ VI giả tạo đó mà tôi đã phải đưa ra danh xưng mới là AN VI bao gồm cả HỮU VI lẫn VÔ VI. Lúc ấy vô vi sẽ không còn hiểu theo kiểu siêu hình của HỮU THỂ học Tây Phương, nhưng hiểu là HƯ TÂM, nói theo đạo “Trống” của Việt là làm cho tâm hồn trống rỗng. Lúc đó con người mới trông nghe được mệnh lệnh từ đáy tâm hồn. Những mệnh lệnh đó làm nên tính bản nhiên của mình mà không bị những mệnh lệnh trung gian ngăn trở. Khi không bị trung gian ngăn trở thì mệnh lệnh phát ra từ tâm tính được trong sáng ví như ánh chiêu dương trong suốt chưa bị bụi trần ai làm vẩn đục nên gọi là “triêu văn đạo” nghe đạo ban sáng.
38. Vậy đó là con đường của Ngộ Không trong cuộc hành trình Tây Du. Các ngãng trở tâm hồn được biểu thị bằng các yêu ma đủ loại phát xuất từ đất cũng có mà tự Trời, tự Tiên, Phật cũng có, nó ngăn đường thầy trò không đến được núi thánh Linh Sơn. Trong thực tế những yêu ma đó chỉ những câu chấp, những thành kiến bé nhỏ, những tư ý tư dục. Chúng có vô số nhưng chia ra được hai loại ; một thuộc BÁI VẬT bao gồm những tin tưởng tai dị quỉ ma; một thuộc Ý HỆ thuộc những thuyết lý, ý niệm (địa); cả hai làm ngãng trở không cho con người phát triển thân tâm, nên gọi là vong thân với nghĩa quên thân mình hoặc bán thân tâm mình cho bái vật và ý hệ tùy nghi xử dụng. Đó không là những câu nói bóng bảy suông mà kéo theo những sự thực hãi hùng đã xảy ra. Muốn thấy rõ chỉ cần nghĩ tới những cuộc sát tế trẻ con trong những nghi lễ tế thần Moloch hay giết người moi tim tế thần Astec. Hoặc hạ thấp xuống một bậc thì như những Kim Tự Tháp, các đền điện khổng lồ như Ziggurat bên Assyria hay Angkor Wat bên Cambodia. Bao nhiêu tài năng trong nước đều thu quén vào việc thờ thần, bỏ bê con người trong đói rách bần khổ… Bên dưới nữa còn biết bao những cái như vậy nhưng tế vi nên con người không thấy. Đó là bái vật. Ý hệ cũng tai hại hơn kém.
39. Ngộ Không đã vượt qua ý hệ biểu thị bằng vụ giết sáu tên cướp TAI, MẮT, MŨI, LƯỠI, Ý, THÂN. Đó la lục căn lục trần gọi là lục tặc mà Ngộ Không đã luôn nhắc Tam Tạng phải nhớ: Thầy chưa học và hành được chữ không nên cứ lấy giả làm chân, mắc vào vòng lưới hiện tượng, nói kiểu triết là vướng mắc trong bái vật và ý hệ. Bên các xã hội Việt Nho bái vật và ý hệ không phân rõ như bên Âu, bên Ấn là nhờ sự thành công của triết lý. Tuy nhiên trong dân gian cũng còn lại vô số tin tưởng tai dị được Phật giáo và Lão giáo khai thác.
Phật nếu hiểu về phương diện triết lý thì đã đạt Thái Hư, Nát Bàn. Nhưng sau năm trăm năm thì như chính Phật đã tiên tri đạo đã đèo theo một mớ bái vật với những điều cưỡng hành biểu thị bằng cái vòng siết cô của Quan Âm đã trao cho Tam Tạng tròng lên đầu óc Hành Giả, để tiện bề sai khiến: mỗi khi đọc chú cẩn cô thì vòng đó xiết vào đau đớn, bó buộc Ngộ Không phải tuân theo mệnh lệnh. Vòng xiết cô biểu thị hình ảnh của 36 thứ Âm phủ đã được gieo vào tâm trí con người lúc nhỏ, nên nó ăn rất sâu khiến người ta sợ sệt, vì vậy mà phải vâng mọi giới điều của tăng lữ bày ra, nếu không sẽ bị sa vào âm ti. Đó quả là cưỡng hành, một thứ tác động sẽ kìm hãm con người trong cõi hiện tượng dầy đặc không thể ngoi lên được bậc an vi thanh thoát.
40. Cưỡng hành còn hại hơn nữa vì nấp dưới những cái vỏ được đề cao là tốt đẹp. Bởi thế mà Ngộ Không đã có lần dám chửi Quan Âm là nham hiểm vì còn dùng tới cưỡng hành: Ai đã hiểu được những trở ngại mà tâm thức con người mắc phải như được khoa phân tâm khám phá ra mới thấy câu chửi kia là hữu lý. Những người chỉ biết có giới với răn như Tam Tạng và Bát Giái thì tâm thức khó trông vươn lên nổi đợt an vi, bởi bị ràng buộc quá chặt bằng mớ giá trị giả tạo tiêu cực. Chỉ có giá trị tích cực khi sau giới còn có thêm bốn bước nữa là định, tĩnh, an, lự mới đạt đợt an vi, nơi không gì cưỡng ép hay dụ dỗ, thí dụ những huấn giáo về nhân luân là an vi vì đằng sau không có âm ti để dọa, cũng không có cõi Tiên để hứa. Phật triết đã vươn lên đến đợt an vi như bày tỏ trong chữ Thái Hư, chữ Chân Không, nhưng Phật giáo xét như một tổ chức thế tục vẫn còn dùng quá nhiều trò hữu vi cưỡng hành, thí dụ chữ hiếu đạo Phật cũng nhận như Nho nhưng Nho chỉ nói phận làm con phải hiếu thảo vậy thôi, còn Phật giáo thì bày ra tới 8 tầng hỏa ngục để phạt những đứa con bất hiếu, như vậy là còn quá cưỡng hành. Tuy nhiên lợi hành nhiều hơn vì có đến 32 cõi thiên đàng để thưởng người làm lành; số thiên đàng trội hơn số hỏa ngục. Ngộ Không đã phá cưỡng hành biểu thị trong việc giết thần chết, và lợi hành bằng làm náo loạn thiên cung… Đó là những việc nhằm vươn ra khỏi cõi hiện tượng. Cõi của các tai dị.
41. Phần lớn các tai họa xảy đến cho đoàn hành hương là do sự tin tưởng của các yêu tinh rằng nếu được ăn một miếng thịt của Tam Tạng người đã tu cả mười kiếp thì sẽ đạt được trường sinh ngần ấy năm. Thật là trái với đạo tác hành là phải tự mình làm ra, tự mình tu lấy. Đằng này đòi ăn sẵn: ăn thịt người đã tu để thừa hưởng công quả đã tích lũy nơi nhà tu hành. Đó là một ý niệm sai lầm, nó đã kéo theo những điều độc ác như ý muốn tìm cách kéo dài cuộc sống của mình bằng cướp đoạt sự sống của tha nhân. Xin nhắc lại Ngộ Không đã đả đảo kịch liệt ý niệm tai hại nọ trong vụ đái vào các chum đựng thuốc trường sinh của Lão Quân.
42. Đó là tóm sơ qua các cuộc trở ngại trên con đường hành đạo: muốn đạt đạo cần phải xả cho hết các ý niệm sai lầm bất cứ thuộc bái vật hay ý hệ. Cuộc hành hương của bộ bốn đã làm việc xả đó được biểu thị cách thú vị bằng các cuộc đả phá yêu quái tưng bừng do Ngộ Không. Ngộ Không đại biểu cái Tâm đã thức giác nên đầy diệu hữu với 72 phép thần thông, với trí tuệ siêu phàm bên cạnh một Tam Tạng đại diện cho giai đoạn chưa ngộ được không. Mãi đến lúc vào đất Phật, Tam Tạng mới trút được xác thân là bước sửa soạn để đạt tới không, nhưng chưa biết đến kinh vô tự. Các kinh vô tự được phát trước là vô tự giả y như chữ Thái Hư của Phật đã bị suy vi, hiểu trật ra bình diện hữu vi: KHÔNG chỉ có nghĩa là KHÔNG CÓ, tức hoàn toàn tiêu cực. Đó là vô tự giả, vô tự gì mà cả một gánh nặng, tức còn lệ thuộc lượng số. Nếu là vô tự đích thực chỉ cần vài ba trang như sách Lạc Long Quân ban cho Thần Tản Viên. Còn đây chẳng qua là cái không giả tạo ban ra vì tức giận. Không là không , mà chưa phải thứ chân không diệu hữu : không lời mà chứa muôn lời. Còn đây không lời chỉ là không có lời. Đó là cái KHÔNG đối chọi với cái CÓ. Đó là cái không bậc thấp nó hợp với Tam Tạng còn đang bì bõm trong đợt hữu vi đặc sệt (to have) chưa biết đến an vi “to be”, nên mang tên là Tam Tạng thì quá đúng. Đầu óc mà lèn vào những ba tạng kinh thì còn chi là thanh thoát. Ngu là phải.
43. Ngay đến Ngũ Hành chưa phải là sách mà Tề Thiên còn bị đè, vì hành ngũ bị bao vây bởi những tin tưởng của bọn âm dương gia, nó làm tê liệt các hủ nho nên cũng ví như bị ngũ hành âm dương ràng buộc suốt hai mươi lăm thế kỷ không thấy “hành vô địa” đâu cả. Tề Thiên bị đè dưới Ngũ Hành biểu thị cho Nho ở giai đoạn tê liệt này, không phải Phật nào đè mình, mà chính là mình tự đè mình, đè mình bằng tiểu tâm hạ trí. Nói Phật đè Tề Thiên dưới Ngũ Hành là mình đè mình bằng tiểu tâm, bằng ý niệm nhỏ nhen. Còn sự cứu do Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, đó là biểu thị lối tác hành và sống cao nhất ví được như xem bằng ngàn mắt, bắt bằng ngàn tay. Đấy là kiểu nói lên độ tác hành cao đến cùng cực. Tất cả bầu năng lực được giồn vào công việc, không còn bị chia xẻ ra cho ngoại vật như ở hai đợt cưỡng hành và lợi hành như được bày tỏ trong chuyến đi: nhiều lúc ta có cảm tưởng như mọi người đã chán nản ngã lòng, cả đến Quan Âm đã giứng tác ra cuộc đi, lại đã hứa phù hộ thầy trò khỏi các cơn nguy biến, vậy mà có lúc như quên lảng, chỉ còn lại có Ngộ Không là kiên trì tận tụy.
44. Ngoài ra lối hành xử của Ngộ Không nói lên lối sống cao nhất. Ông C.T. Hia nhận xét rằng: “Mặc dầu Ngộ Không cũng là một nhân vật phản loạn như rất nhiều nhân vật thần thoại trong thế giới, nào là Prométhee Hi Lạp, Ravana An Độ, nào là Satan trong Paradise Lost nhưng điều không giống các nhân vật kia là óc hí lộng hài hước của Ngộ Không biết nói lên tâm hồn thanh thoát, biết hỉ xả một cách nhẹ nhàng.” Điều này chỉ thể đạt được trong bầu khí triết lý an vi không bám vào động hay tĩnh, có hay không, nhưng như nhảy nhót giữa hai bờ: có mà như không, không mà lại có, lúc động lúc tĩnh tùy thời. Đó là căn bản của sự chơi. Cái tinh thần thanh thoát, trào lộng, hí hước đó đem lại cho truyện Tây Du một bầu khí vui nhộn, hài hước, thú vị cao độ và là bí quyết giải nghĩa các danh xưng trên là Tề Thiên Đại Thánh. Nếu hỏi tại sao Tôn Ngộ Không đáng tên là Tề Thiên, là Đại Thánh thì câu thưa nằm trong chữ Ngộ Không: tức vì Lão Tôn Ngộ được cái Không chân thực nên đạt diệu hữu trong bốn chữ Tề Thiên Đại Thánh vậy.
IV.TRIẾT LÝ CỦA TÍNH NGÔNG HÀNG DỌC:
A. Liên hệ giữa Ngộ Không với Việt lý:
Nhiều người đọc Tây Du rất thích Tôn Ngộ Không, nhưng đôi khi trách là quá ngang ngược: không còn kể chi tới Trời đất nữa. Người khác thì cười vui không trách cũng không khen: coi đó chỉ là một lối trào phúng vui nhộn thôi, chứ không để tâm đến các điều hàm chứa bên trong.
Sự thực thì cái ngông của Ngộ Không có một giá trị đặc biệt phát xuất từ một bối cảnh lớn lao mà xưa nay chưa được xét tới. Muốn hiểu đươc chiều sâu của cái ngông kia cần phải tìm hiểu cái môi sinh tinh thần của nó. Nói khác là Ngộ Không có thuộc về một dòng tộc với một nền triết lý ngông chăng hay chỉ là đơn phương độc mã? Lúc ấy ta mới thấy Ngô Không thuộc dòng máu văn hóa Đại Việt chứ không cô độc lẻ loi.
46. Để thấy điều đó chúng ta sẽ lần lượt xét qua chốn nơi và cung cách phát xuất cũng như tác động. Trước hết nơi xuất hiện của Ngộ Không nằm ở biển Đông trong nước AO LAI . Vậy Lai với Lạc có liên hệ đại tộc trong huyền sử như các tên Lai, Di Lai, Di Việt, Lạc Việt. Do vậy mà nói AO LAI hay AO LẠC thì cũng là “ao nhà” có tên là AO VIỆT hoặc VIỆT TRÌ cũng thế: đều nằm trong miền có đảo tên là Bồng Lai… Thế rồi Ngộ Không lên làm vua ở THỦY LIÊM ĐỘNG thì cũng là giống với Lạc Long Quân ở dưới THỦY PHỦ. Ngộ Không còn là Lân Bang với LONG VƯƠNG nơi Lã Tôn có sang mượn được cây Kim Cô Thiết Bảng. Long Vương với Lạc Long Quân chả cùng họ Long là gì.
47. Đấy là về nơi, còn về PHONG CÁCH XUẤT hiện thì cũng độc lập không cha không mẹ, không trời không đất y như ông thủy tổ tối sơ của Việt Tộc gọi là Bàn Cổ.
Hỗn mang chi sơ
Vị phân thiên địa
Bàn Cổ thủ xuất
Thủy phân âm dương
Nghĩa là tự cường, tự lực, đến nỗi việc sinh ra cũng tự sinh!
Đến lúc đi học thì học về âm dương mà cái tinh hoa được kết đúc theo cơ cấu gọi là huỳnh đình.
“Gặp tiên thỏ thẻ đôi lời
Đâu nơi cực lạc đâu nơi huỳnh đình” (hồi 1)
Chữ đình đây cùng một nghĩa với chữ đình trong Động Đình Hồ chỉ cái nhà hay cái động rỗng. Còn huỳnh là chữ hoàng đọc trại, nó có nghĩa la trống rỗng như được chỉ trong trung cung của ngũ hành gọi là ngũ hoàng cực, nên huỳnh đình có nghĩa là nhà rỗng, vì nó nằm ở hành ngũ có tên là hành vô địa, tức trống rỗng. Thế là tỏ ra có họ máu hàng dọc với trống đồng ở chỗ trống và rỗng.
48. Chính sự trống rỗng đó mới có thể làm nên nơi hội họp của thiên địa để làm nên con người Đại Ngã được định nghĩa là “thiên địa chi đức”, nên có đủ vạn vật nơi mình: “vạn vật giai bị ư kỷ”: ai mà biết “phản tâm nhi thành (sẽ) lạc mạc đại yên” trở lại lòng mình vui thú xiết bao. Ông thầy dậy Lão Tôn xưng là ” câu bồ đề “: bồ đề là Ngộ, còn CÂU là tất cả, tức hiểu cả đức Trời lẫn đức Đất. Trong Lão Tôn đức đất được biểu thị bằng cây Kim Cô Bảng rút lên tự lòng bể Đông, còn đức Trời là ăn những thứ quí nhất trên thiên đình như bàn đào, kim đơn với thuốc trường sinh bất tử, khiến cho Lão Tôn không kém gì Trời, tự xưng là TỀ THIÊN ĐẠI THÁNH, bắt được Trời phải chấp nhận. Thế rồi khi gặp việc cần thì đòi Trời phải nhường chức cho mình. Rõ ràng là dòng tộc của Bàn Cổ tự tay sắp đặt Trời đất. Nhiều lúc trách móc cả Phật Tổ lẫn Lão Quân cũng như dưới trung giới diệt biết bao yêu ma quỉ mỵ. Rõ ràng là bà con của Lạc Long Quân, vị vua cao cả đã diệt hồ tinh, ngư tinh, mộc tinh.
Lão Tôn còn tỏ ra là anh em ruột thịt với Hùng Vương vì cũng có sách ước gậy thần: sách ước là 72 phép thần thông biến hóa, còn gậy thần là Kim Cô Bảng có sức vươn tới Trời hoặc rút nhỏ lại bằng cái kim. Cả hai sách ước cũng như gậy thần đều phát xuất từ Kinh Dịch một cuốn kinh duy nhất trên đời là kinh vô tự.
49. Vì những lý do đó khi đọc và ngẫm nghĩ kỹ về thân thế sự nghiệp của Tôn Ngộ Không ta mới thấy rằng Lão Tôn không phải là chi khác hơn là “HỒN TRIẾT GIA, DA ÔNG TRƯỜNG” (khỉ sống lâu gọi là ông trường). Đã sống lâu thì chắc phải có dòng tộc và quả thực đó là con cháu của những ông chống Trời mà một số tên tuổi được huyền sử năng nhắc nhở như Bàn Cổ, Toại Nhân, Phục Hy, Nữ Oa, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Tản Viên, Thánh Gióng… Đó là những mẫu mực tối sơ đã xuất hiện không cha không mẹ, không Trời, không đất, hay ít ra thì cũng làm những việc có tầm mức lớn lao như vũ trụ. Thiếu một chuỗi những tổ phụ trên thì không thể có Tề Thiên Đại Thánh.
50. Nói cụ thể là tác giả Tây Du cũng phải xuất hiện trong địa bàn tổ đó, vì Ngô Thừa An tiên sinh là người đất Giang Tô, mà Giang Tô nằm trong nước Ngô, đời Chiến Quốc đã bị Việt Câu Tiễn sát nhập vào Việt Chiết Giang. Mà Việt Chiết Giang là một mảng còn sót lại từ cái miền mênh mông của Việt tộc khởi từ vùng Bột Hải (của Bách Bộc) một tên khác của Bách Việt, bao lấy Sơn Đông và Châu Từ nơi có núi Đồ Sơn quê hương của Nữ Oa, và bà vợ Việt của ông Đại Vũ, rồi duỗi chân vào Động Đình Hồ, Phúc Kiến cho tới Quảng Đông, Quảng Tây, Việt Nam… Mấy địa danh đó mới chỉ làm nên bức dư đồ rách nát của cái địa bàn lớn hơn nữa của một miền đất mênh mông đã sản xuất ra nền triết lý về con người cao cả, một nền triết đã kết tinh cách cực kỳ rực rỡ vào cái trống đồng của Việt Tộc mà những tay biết khua lên là Lạc Long Quân, Hùng Vương, Thánh Gióng, Tản Viên và người cuối cùng có vẻ híp-pi hơn cả là Tôn Ngộ KHÔNG (trống không). Nhờ đó “ba hồi trống thu không” cứ âm vang mãi trong tâm hồn Việt tộc, nghĩa là xưa đã có những ông chống Trời, nay tới đời cận đại này cũng còn những ông có máu đó.
51. Hãy kể một truyện trong nhân thoại Việt đó là truyện “CƯỜNG BẠO ĐẠI VƯƠNG” đời nhà Lý ở đất Vụ Bản, Nam Định. Truyện kể rằng ông là một người rất khỏe mạnh, vạm vỡ, tính tình ngang ngạnh, coi Trời bằng vung, nên Ngọc Hoàng cho Thiên Lôi xuống đánh, nhưng Cường Bạo đã đánh lại Thiên Lôi, bắt Thiên Lôi phải chạy về Trời. Ngọc Hoàng lại sai Hà Bá làm lụt nhưng Cường Bạo dùng cây chuối làm bè: nước lên cao bao nhiêu bè cũng theo đó mà lên mãi mãi, đến nỗi trở thành mối đe dọa cho Thiên Đàng, Nam Tào, Bắc Đẩu sợ xanh mặt, Ngọc Hoàng thở dài nói không ngờ cái thằng đó lại quá quắt như vậy. Cuối cùng Ngọc Hoàng không biết làm sao đành phải phong chức cho CƯỜNG BẠO ĐẠI VƯƠNG, tự đấy Ngọc Hoàng mới ăn ngon ngủ kỹ… Câu truyện trên quả là cùng một hơi hưởng như TỀ THIÊN đại náo thiên cung không mấy khác.
B. Triết lý cái ngông:
Như vậy là tính ngông có một dòng tộc vừa lớn lao vừa lâu dài nên rất đáng cho con cháu nghiên cứu về ý nghĩa thâm sâu của sự vụ. Muốn hiểu tại sao có cái ngông nọ thì cần đặt nó vào vị trí đúng hợp, nghĩa là phải nhìn toàn thể các lối động ứng của con người với những nhân sinh quan kèm theo để biết tính ngông nằm ở chỗ nào, mới trông hiểu ra được tại sao ngông là một nền triết lý và ngông đem lại những ơn ích lớn lao nào.
Triết lý An Vi cho cứu cánh con người là đạt được đợt Ngộ Không, tức là giác ngộ được cái Không Chân Thực vì đó là đường dẫn đến diệu hữu, mà dấu bên ngoài là đạt hạnh phúc, còn nội chất là hiện thực được những khả năng cao cả của con người Đại Ngã vốn tiềm ẩn ở trong thân tâm ta.
53. Nói kiểu khác thì đó là ánh linh quang trong tâm hồn mà mỗi người có sứ mạng phải làm cho sáng tỏ để nó chiếu giải ra, lan to ra mãi mãi, để mở chân trời cho tâm thức nhìn ra được những chân lý phi thường. Muốn làm được như vậy cần phải dẹp các chướng ngại là các dị đoan, những tin tưởng vào yêu ma quỉ thần: những thứ này có thực và tác hại nhiều hay ít là tùy nơi lòng con người tin vào chúng. Tục ngữ nói “tin ma ma làm” là câu phương ngôn cực kỳ sâu sắc chỉ rằng cái vũ trụ âm u thần tiên ma quái có thể làm hại mình là do mình a dua, mở đường cho nó làm hại mình, do trình độ ấu trĩ của mình chưa biết lối tu chân chính. Như vậy thì cứu cánh gần của con người phải là làm sao phá được lòng tin đặt vào những yêu quái quỉ thần nọ. Phá xong mới trông đạt đợt ngộ không cũng là đạt hạnh phúc. Việt lý gọi việc phá đó là “ba hồi trống thu không” mà trong Tây Du chỉ bằng “ba cú ông thầy gõ trên đầu Ngộ Không”.
54. Đó là cái học vô ngôn cao nhất không còn thể biểu lộ bằng lời mà bằng vài ba cử động nó nằm bên trên bốn loại học khác.
Loại nhất gọi là chữ thuật dậy cho biết tiên tri.
Loại hai gọi là chữ lưu: dậy biết làm thầy, làm thuốc, tụng kinh.
Loại ba gọi là chữ kinh: biết tọa thiền.
Loại bốn gọi là chữ động: biết hành thiền.
Loại năm thì thầy không gọi tên nữa mà chỉ “gõ đầu Ngộ Không ba cái, chắp hai tay sau đít, quay vào phòng, đóng cửa lại.” (hồi 2). Trước cử động kỳ lạ đó các trò khác không hiểu chi hết, nhưng Ngộ Không biết được đây là thầy ra dấu đặc biệt nên “đến canh ba lẻn vào cửa sau, vô phòng để thầy truyền phép” (hồi 2). Mấy chữ ba lắp lại nhiều lần chỉ “ba hồi trống thu không” hay là cái “chân không” có kéo theo “diệu hữu” tức kéo theo sự tụ hội trời đất người là những thực thể chỉ có thể hội tụ ở nơi “chân không”, tức tâm hồn trong sáng là bản chất của con người Đại Ngã Tâm Linh vậy. Vì chữ không ấy mà cần đi tìm kinh vô tự. Vì vô tự nên muốn chỉ thị thì phải dùng biết bao hình ảnh mà lẫy lừng hơn cả là cuộc Tây Du thỉnh kinh; còn bức họa về cái chân không đó thì trống đồng Ngọc Lữ có thể là một.
55. Đó chính là những nét chấm phá về tiến trình nhân hóa của con người ” the process of homonization” một thực thể được định nghĩa như là hành, là tác, tức bản tính của nó phải là tác là động. Có tác có động mới là người. Cái gì cũng phải làm ra, kể cả chính mình, khởi đầu ngay tự chính mình. Mình là gì thưa là thiên địa chi đức. Đức là linh lực là cội rễ của việc làm. Đừng tưởng rằng cái đức của trời đất kia được cho không đâu, mà chính là người phải làm lấy, dành lấy: phải tự lặn xuống biển Đông, tự tay nhổ lấy bảng Kim Cô đó là đức đất; rồi phải lên trời tìm cách ăn cho được bàn đào, uống cho được thuốc kim đan và đòi Trời nhường chức: đó là đức trời. Cả hai đức trời cũng như đất đều phải tự làm ra chứ chẳng ma nào đem đến dâng cho. Đó là tiến trình nhân hóa đã và đang xảy ra trong loài người, trong mỗi con người. Nó chính là trang huyền sử căn bản nhất, phổ biến hơn cả của con người. Nên bất kỳ ở đâu đâu cũng có thể tìm ra những truyện truyền kỳ hoặc huyền thoại nói xa xôi bóng bảy về trình sử đó.
56. Theo huyền sử Việt tộc với tính cách đơn giản gọn gàng của nó thì ban đầu trời sà xuống đất rất thấp, quá thấp đến độ làm vướng ngà con bò vướng lưng con heo, khiến chúng khó lòng đi lại. Vì thế mà người phải lấy cột để chống trời cao lên đặng có chỗ mà làm nhà cho mình (truyện ông chống trời).
Đó là mẫu truyên tuy vắn tắt nhưng lại hàm ngụ những chân lý thâm sâu cũng như những tác động nền tảng của con người và quyết định vận hệ con người cách sâu thẳm về trình sử của nó. Nếu phải gọi tên những chặng trình sử đó thì sẽ là bái vật, ý hệ và tâm linh. Cần gọi gọn như thế để tiện việc phân tích chứ thực ra thì nó phiền toái hơn nhiều…
57. Vậy bái vật chính là danh từ mà triết lý An Vi dùng để chỉ thị việc trời sà xuống quá thấp can thiệp quá nhiều vào cõi nhân sinh. Tức con người quá tin vào những truyện thần thánh quỉ ma đến nỗi lấy đó làm tiêu chuẩn đo giá trị mà không kể đến bản tính mình, nên nói bóng là bò vướng sừng không đi lại được, tức là những điều “cấm kỵ của trời” không để cho con người sống theo tính bản nhiên của mình. Điều này có nhiều cấp bậc mà nặng hơn cả thì như những vụ giết người để tế thần (Moloch, Astec). Còn nhẹ nhàng tế vi là những gò bó do “mệnh lệnh của trời”, thí dụ nơi thì “trời” cấm ăn thịt heo, chỗ khác cấm ăn thịt bò. Nơi thì cấm hát, chỗ khác bắt đàn bà góa phải lên giàn hỏa chết theo chồng, nơi thì cưới vợ cho Hà Bá, chỗ khác phải dâng tim trẻ con… Kể ra không sao xiết. Cái thì rõ rệt, cái thì tế vi nhưng tất cả đều ngãng trở con người không cho sống theo những nhu yếu thâm sâu của nó, khiến quay chiều nào nó cũng vướng những mệnh lệnh, những giới truyền: chân, tay, mặt, mắt, tóc, tai không một chỗ nào không bị vướng.
58. Nếu muốn một hình biểu thị đặc biệt thì đó có thể là những tượng của Ai Cập cổ đại bao giờ cũng phải tạc trong một tư thế cố định, thí dụ mặt phải nghiêng, nhưng mắt đầy đủ. Tay chân phải trong tư thế truyền ra sẵn. Đó là hình ảnh con người phải vâng theo những cấm kỵ dị đoan tà thuyết được xưng hô là mệnh lệnh của “trời”. Bao nhiêu tài sản phải bỏ ra xây dựng những đền đài cung điện khổng lồ như Zigg Urat, Kim Tự Tháp, Ankor Vat .. Đó là bấy nhiêu dấu vết của trời để lại khi sà xuống quá thấp, hút hết chất nuôi dưỡng, bắt người làm nô lệ cho những thế lực bên ngoài con người, nên có tính cách đàn áp con người. Vì thế muốn là người chân thực con người phải chiến đấu để phá những trở ngại nọ .
59. Sử trình văn hóa loài người ở tại sự chống đối “Thần Minh” nói đúng hơn là chống lại những quan niệm sai lầm về Thần Minh có tính cách ngãng trở đường tiến hóa con người. Sự chống đối mạnh nhất là thuyết vô thần. Phật Tổ cũng “vô thần” một cây. Ngài được tiếng đã phá vỡ “hai triệu thần Bàlamôn”. Đấy là một bước tiến vĩ đại, nhưng mới là tiêu cực chứ tích cực thì chưa ổn. Vì vô thần Balamôn thì được, chứ vô thần suông thì không xuôi. Thượng Đế phải ở trên hết, phải là cứu cánh cuộc tiến hóa của vạn vật, cũng như của con người: chưa nhìn ra điều đó là chưa tiến hóa hết cỡ. Vì vậy không được vô thần mà phải hữu thần, nhưng để thần khỏi ăn hiếp thì chỉ có thể đi một đường ngông là phải đặt mình ngang với thần, thành ra Tam Tài, nghĩa là nếu trời làm vua, đất làm vua, thì người cũng phải làm vua. Ai bảo thế là ngông thì cũng không dám chối. Có điều cần biết là chưa đâu học được cái ngông kiểu đó. Hãy lấy thí dụ Phật giáo khi truyền vào đất Việt là nơi có đức tính ngông nọ, thì tất nhiên Phật cũng phải nhập gia tùy tục: nghĩa là trước hết phải nhận có Ngọc Hoàng, thứ đến là thử ngông một cái, tức đặt Ngọc Hoàng vào địa vị bên dưới Phật !
60. Được chăng? Mới coi tưởng như ngông hơn Việt đạo. Kỳ thực không là ngông mà đã sa đọa vào tội việt vị: nói theo sách Trung Dung thì trong Phật ” Thiên địa bất vị yên, (nên) vạn vật bất tịnh dục”. Thiên địa có được đặt đúng vị trí thì vạn vật mới được nuôi dưỡng. Đây đặt Thiên bên dưới Phật thì làm chi có “vạn vật tịnh dục”. Cụ thể là Phật giáo chưa đi tới chỗ phát triển cùng cực của đức tự cường, tự tác, để đến chỗ vui chơi cùng cực như được biểu lộ trong tượng Phật Di Lạc. Vì thế mà mặc dầu từ khi vào đất Việt, đạo Phật đã được cải cách nhiều lần (xem kinh Hùng bài Vang Vọng Văn Lang. Hoặc Định Hướng văn học trang 113 và 183-186) nhưng chính vì chỗ việt vị nọ mà chưa vươn lên đến cùng cực. Cụ thể là Đức Di Lạc cứ được truyền bá ngay từ những thế kỷ đầu là sắp đến mà mãi chẳng thấy đến, cho nên sốt ruột Tôn Ngộ Không phải ra đời để hiện thực phần nào tinh thần Di Lạc là hành động cùng cực, an vui ngập tràn. Đó mới là tinh thần ngông chân thật. Nó không ở tại chơi Trời, mà chính là tham dự với Trời. Vì thế ta cần nghiên cứu lại cái đức “chống Trời” của Ngộ Không, tức là của Việt Nho: không dám hơn Thiên mà chỉ tề Thiên thôi.
C. Chống trời biểu diễn bằng vạch và số:
Chữ chống trời ở đây không nên hiểu là chống đối, chối bỏ kiểu vô thần, nhưng phải hiểu là chống lên, kê lên cho cao: xin trời làm ơn co lên tí nữa, và tí nữa nhường lại cho con người ít địa để cắm dùi đặng làm ra cõi người ta. Vì thế xin đổi chống ra chõi hầu tránh sự lầm lộn. Để tả rõ sự khác biệt giữa chống với chõi không gì diễn tả nội dung chữ chõi hay bằng Kinh Dịch. Mỗi quẻ dịch có sáu hào, biểu thị bằng sáu vạch. Nếu là nhị nguyên thì ba vạch trên chỉ trời, ba vạch dưới chỉ đất. ==>Trời
==>Đất
Trong tình trạng đó con người không có được tí địa nào: nằm dẹp lép dưới sức nặng của núi Ngũ Hành. Đó là một tình trạng vong thân khủng khiếp như ta thấy hình ảnh cụ thể trong các bộ ba kiểu Trimurti của Ấn Độ hay Ai Cập. Đó là thứ hữu thần tuyệt đối, thần quá cỡ: không còn dành cho người một địa vị như trong Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân của những ông chõi trời vì đã dành lại của trời một hào đưa về cho con người, rồi lại quay xuống bắt đất để lại cho con người một hào nữa. Và lúc ấy ta sẽ có Thiên, Nhân, Địa như hình sau:
Thiên<==
Nhân<==
Địa <==
64. Như vậy là người đã đạt bậc Tề thiên tề địa. Nếu trời có hai hào, đất có hai hào thì người cũng có hai hào. Nói vắn tắt nếu trời là vua, đất là vua thì người cũng là vua. Làm vua ngang với trời là hậu quả của vụ chõi trời. Đó là đại để triết lý chõi trời mà Lão Tôn đã hiện thực, nên khi xưng mình là Tề Thiên Đại Thánh thì chẳng qua là nói lên nội dung Kinh Dịch: Trời có hai hào, Lão Tôn cũng có hai hào, vị chi là tề thiên chứ còn sao. Đất có hai hào đằng này cũng có hai hào, vậy là đại thánh rồi, chứ có ngoa chi đâu.
63. Đó là một việc đầy âm vang trong đời sống nên còn được biểu thị cách gần gũi hơn bằng cây linh và việc làm nhà. Muốn chống trời thì phải có cây: vì thế mà trong truyền thuyết Việt vốn có cây linh thường được trồng ở bên cạnh bàn thờ tế Trời, hàm ý chống trời lên để con người có chỗ làm người gọi bóng bảy là làm nhà. Do đấy có truyện Nữ Thần Mộc dậy anh em Lộ Bàn Lộ Bộc làm nhà chữ Đinh. Làm nhà chữ Đinh là làm người có linh tính với Đại Ngã tâm linh, vì chữ Đinh có nét dọc chỉ cái để chống y như cây mọc thẳng, nên do Nữ Thần Mộc dậy. Mộc là cây đó. Vì nhà chữ Đinh chỉ Đại – Ngã sánh ngang cùng Trời, Đất, nên ba cặp hai hào được biến ra căn nhà thái thất ba tầng để chứa được cả Trời, Đất, Người (xem trong Chữ Thời). Vì thế khi ai đã hiện thực được nhân tính tràn đầy thì gọi là “nhập ư thái thất” vào được ngôi nhà vũ trụ. Đó là những cách nói khác nhau về hậu quả chõi trời.
64. Tóm lại, Ngộ Không chính là sơ nguyên tượng của nền triết lý Việt Nho nhằm cải đổi Phật giáo trong những bước cuối cùng và tế vi nhất như: sự cố vượt kinh Hữu tự để đi đến chân kinh Vô tự, vượt giai đoạn tĩnh thiền, để sang giai đoạn hành thiền, vượt giai đoạn bi quan tiêu cực để đến giai đoạn dấn thân vào đời cách an vui hí lộng. Đó là mấy bước cuối cùng của nền triết lý siêu diệu Việt Nho cũng gọi là An Vi: làm không vì những động lực bé nhỏ thuộc trần cấu, nhưng làm vì những mục tiêu cao cả như thành nhân, như giúp vào việc tiến hóa của càn khôn vũ trụ. Làm được như thế gọi là An Lự, hay An Vi. Trước khi đi được hai bước An Vi phải đi qua hai bước đầu là định tĩnh. Định tĩnh là hai bước nội thánh. Có đi xuôi mới tới hai bước sau là An Vi thuộc ngoại vượng. Ngộ Không đã đi qua hai bước nội thánh trong các kiếp trước nên kiếp này chưa tu đã được chức Ngộ Không và Tề Thiên Đại Thánh. Vì thế Ngộ Không đã không chọn 36 phép Thiên Can nữa, mà lại chọn 72 phép địa sát để cốt đi vào đời đặng làm tròn 4 bước tu trì là Định, Tĩnh, An, Lự vậy.
Kim Định
(Trích “Phong Thái An Vi”)