…..

Doãn Quốc Sỹ
Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến
Phần I
Chương 1 
Tiếng Hát Tự Lòng Đất Khu Rừng Già

Hình ảnh lá cờ vàng ba gạch đỏ phe phẩy thanh bình vẫy gió còn mãi mãi về sau này in hằn trong tâm tưởng Miên một ấn tượng của thịnh vượng và của tình người. (Ôi, còn được sống trong tình người, nàng thách thức mọi gian lao!) Rồi khi nhìn những ruộng lúa con gái lấp lánh nước, những cánh cào cào xanh đỏ xòe bay, Miên đã dám mường tượng đến một tuơng lai không xa xôi gì, nàng ngồi đan áo dưới ánh đèn, nhìn ra bên ngoài là con đường hun hút về miền xa tít nào, nhìn vào phía trong là chiếc giường xinh có … Kha nằm đọc sách, Miên mường tượng đến mâm cơm đơn giản nhưng ngon lành do tay nàng sửa soạn, đến bộ chén tách sạch bóng nàng bày trên bàn trà …
Trên trời khối mây trắng chuyển dịch nhẹ, mặt trời chui dần vào một khối mây đen lớn ùn lên như núi, ánh sáng đương bâng khuâng lồng lộng bỗng tối hẳn, thoạt tối xầm nhưng sau đó vài ba tia sáng thấm qua được kẽ mây mỏng khiến con đường Miên đương dẫn đầu cùng cả vùng ruộng lúa bao quanh nàng bỗng rưng rưng một thứ ánh sáng u hoài. Miên chợt thấy nhớ Kha vô cùng, nhớ như hai người đã thành vợ chồng và đương bị giang sơn cách trở. Nàng muốn quay lại để được thấy mặt Kha mà không dám. Nàng chậm bước một chút thì Hiển, Kha cũng chậm lại theo, nàng đành như người mù nghiêng tai lắng tìm ánh sáng tiếng chân thân yêu, nhưng chẳng hiểu sao, cả Hiển lẫn Kha cùng bước quá nhẹ, nên chỉ những tiếng chân phía sau đó nhòa đi trong tiếng chân nàng.
– Có nên dừng lại đây một chút không? – Hiển hỏi.
– Đồng ý – Kha đáp vội vã.
– Em cũng đồng ý lắm – Miên nói sau cùng và quay lại nhìn Kha, Hiển.
Đó là một cái quán bên đường, cách đồn Bảo – chính phất phới ngọn cờ quốc gia không bao xa. Họ cần phải nghỉ để xả hơi. Đôi gò má Miên hồng lên, vừng trán hiền lành của nàng lấp lánh mồ hôi. Trong quán khi đó chỉ có một bà già bán hàng và một người lính Bảo Chính, người lính này hầu như cũng chẳng thèm để chú ý đến bọn Miên, Hiển, Kha, mặc dầu ba người vừa bước chân vào, anh có ngẩng lên nhìn. Ba người ngồi xuống ghế dài lật ba chiếc bát đàn gọi ba bát nước chè tươi và một đĩa kẹo vừng. Hướng quán nhìn về cánh đồng rộng bên kia đường, một màu xanh mênh mông, làn gió dìu dịu từ khoảng đại dương cẩm thạch đó lùa vào như có thần lực làm tiêu tan mọi lo âu cực nhọc trong lòng ba người.
Bà chủ quán – ý chừng tiếp tục câu chuyện bỏ dở – cất giọng thân mật hỏi người lính Bảo Chính:
– Thế mới rồi cậu về nghỉ phép mười lăm ngày có gì lạ không?
Người lính lơ đãng chép miệng thở dài:
– Chẳng có gì lạ bà ạ (anh lại chép miệng) có con bé Dung đẹp nhất làng lấy thằng Dật mới lên cai xếp, tôi chẳng thiết về nữa.
Thấy Kha mỉm cười kín đáo, bất giác Miên cũng mỉm cười theo, mỉm cười cho thái độ chất phác về tình yêu của chàng trai miền quê đi lính Bảo chính.
– Thế ông cụ vẫn khoẻ mạnh – bà quán hỏi tiếp – năm ngoái tôi về qua làng, thấy cụ còn khoẻ mạnh lắm.
Lần này chàng trai chép miệng một cách hài hước:
– Ôi chao, ông cụ nhát quá bà ạ, lần trước về thăm nhà tôi có biếu cụ chiếc đèn pin, lần này về, tôi hỏi chiếc đèn pin đâu, cụ bảo “tao phải ghè đập ngay tối hôm đầu rồi.” hỏi “Sao”, cụ bảo : “nhà gấn bốt, thằng bé cháu (con anh trưởng) cứ mang đèn ra bấm lập lòe nhỡ ngứa mắt nó câu cho mấy phát moóc chê, chẳng phải đầu phải tai!” Bà bảo cụ tôi nói thế có chán không?
Rồi như để cho quên bực rọc, anh với một chai bia độc nhất trong đám mấy chai li mô nát xếp trên cao, ghè răng mở nút nút bia. Đúng vào lúc đó, Miên kính đáo ngắm khuôn mặt đen xạm của anh: đôi má hơi hóp, lưỡng quyền cao, quai hàm bạnh răng nanh bịt vàng, cả hàm răng ám khói thuốc, khuôn mặt liều lĩnh mà thực thà. Anh thổi chiếc nút bia ra xa ngoài cửa, rồi ngửa cổ tu ừng ực. Có chiếc xe đạp vừa lướt qua quán tiến về phía tỉnh, một người đàn ông tóc chải mượt đèo một cô mũm mĩm áo màu quần trắng. Anh lính Bảo chính ngửa cổ tu đến lần thứ hai thì chai bia đã vơi quá nửa, anh quả thực đương muốn phá ” sầu thành “bằng rượu bia. Anh ngửa cổ tu gấp một lần nữa vì thoáng có tiếng động cơ nổ đằng sau. Trên con đường liên huyện bụi tung trắng xóa như vôi bột, một chiếc xe Dodge 4 phăng phăng tiến lại như con tuấn mã coi khinh quãng đường không chút hiểm trở.
– “Xếp” của tôi đã tới!” – người lính Bảo chính nói cùng lúc với tiếng phang rít bên ngoài, và một thanh niên sĩ quan to lớn có để ria mép thò đầu ra nói lớn, giọng thân mật:
– Ê, chú mày, công việc xong rồi chứ? Lên!
Người lính Bảo chính vừa “dạ dạ” vừa nhảy lên liền phía sau, chợt người sĩ quan nhíu lông mày, chăm chú nhìn Kha hơn nữa rồi quát, vẫn bằng giọng thân mật:
– Có phải thằng Kha đấy không?
Từ lúc chiếc Dodge4 dừng lại, Kha vẫn không hề chú ý đến ai, nghe tiếng hỏi, chàng giật mình ngẩng lên, đôi mắt tròn xoe miệng há rồi lập tức chuyển thành nụ cười sáng ngời hân hoan:
– Luận! Trời, cậu đóng quan mấy rồi?
– Hà hà, suýt đóng quan sáu! Cách đây ba ngày, trong một chiến dịch càn quét, tao bị phục kích.
– Mình và mấy người bạn kia (Kha chỉ Hiển và Miên) vừa chân ướt chân ráo hồi cư đến đây chưa biết phải trình diện và xin giấy má tạm thời ở đâu.
– Giấy má mẹ gì, lên đây theo tao.
Luận nhảy xuống, bảo người lính lái xe ngồi xuống dưới, khẽ cúi chào Miên, Hiển (chào lấy lệ, chẳng lẽ lại không chào) rồi nói luôn với Kha:
– Xin cứ lên xe tất cả, rồi đâu có đó.
Nói dứt, Luận nhảy lên ngồi trước tay lái, Kha đã trả tiền bà quán và nói vắn tắt mấy lời về lý lịch của Luận cho Hiển, Miên hay:
– Cha này trước ở ban kịch Tháng tám (ban kịch thành lập sau ngày cách mạng 19 – 8) có tản cư ít lâu, rồi vào thành.
Kha lên xe, ngồi ngay bên tay mặt Luận, hỏi:
– Sao cậu lại vào nghề lính?
Luận đã vào số cho xe chạy lẹ, dáng rất thành thạo đáp:
– Chó nó thích vào lính cho Tây. tao lẩn, nhưng lần thứ ba nó tóm ngay tại nhà, lôi sềnh sệch xuống Nam Định theo học lớp sĩ quan chín tháng ở đó.
Ngưng một chút, Luận hỏi:
– Sao đương ở ngoài đó lại về?
– Cậu còn hỏi câu đó à?
Luận cười.
Phía sau xe có Hiển, Miên, người lính Bảo chính tài xế, người lính thất tình (ở quán), và hai bà cùng đứng tuổi vốn là hai bà chủ thầu các độ vật vãnh cho nhà binh. Thâm tâm hai bà cũng coi khinh vẻ ăn mặc tiều tụy của hai anh em Hiển, Miên, tuy nhiên để tỏ ra mình là hạng người lịch thiệp, hai bà cũng có dịu đôi mắt nhìn: khi hai anh em khom lưng bước vào và khi Hiển, Miên cúi chào thì hai bà cũng khẽ cúi đầu đáp lại, sau đó mới tiếp tục câu chuyện đương dở dang. Đây hẳn cũng là buổi đầu hai bà gặp nhau, hai bà đang khoe sự sung túc ở miền quê của riêng bà.
– Nhà tôi vườn ao trước; đán h cá, chúng tôi chỉ ăn cá chắm, cá chép thôi bà ạ, cá mè thì cho người làng (bà làm điệu nói vói người làng) lấy về mà ăn đi, nhà tôi không ăn cá này đâu, mang về mà ăn đi, nhà này không có bán!
– Nhà tôi bà ạ – bà kia tiếp – lò than lúc nào cũng hồng. Khách đến nhà, nhổ mấy củ xu hào, con gà chỉ kịp kêu đến “quéc” một cái là đã luộc ở trong nồi rồi. gạo tám thơm, gạo rự, gạo ré cánh … chẳng thiếu thứ gì.
Xe đến chỗ quành, Luận không hãm bớt tốc lực, mọi người mất thăng bằng, xô về một chiều. Lời đàm thoại của hai bà thích ứng ngay với hoàn cảnh:
– Gớm, như đi máy bay!
– Ấy thưa bà, trên máy bay được cái người ta còn có giây da buộc lấy mình như thế này này ạ. (bà làm điệu giây da quấn ngang bụng).
Tiếng Kha reo vui hỏi Luận:
– Ồ kìa, loại xe gì mà kỳ lạ vậy?
– Mày thật là mán rừng, loại xe vespa của Ý đấy! – Luận đáp.
– Xe nhỏ mà chạy lẹ quá, trong thanh nhã chứ không hùng hồn như loại xe mô tô cũ.
– Vespa, tiếng ý là con ong, mày chú ý xem nhìn chiếc xe hao hao giống con ong.
– Ờ nhỉ.
– Loại xe này giờ đây phổ thông lắm, họ cho thuê sáu mươi đồng một giờ.
Luận bỗng phang “kít” cho xe đỗ trước một đồn binh rồi bảo Kha:
– Để tao vào gặp thằng trưởng đồn rồi bảo Kha:
– Để tao vào gặp thằng trưởng đồn lê dương ở đây một chút.
Hiển và Miên cũng thò đầu ra nhìn. Đây là một đồn binh ở ngoài tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Những bao cát xếp cao quanh lỗ châu mai trước đồn, thấp thoáng có bóng người lính gác bên trong. Một toán tù binh khác, cứ hai người một, khiêng thùng phân đi đổ. Mấy tên lính Tây đội ca lô xanh (mũ lê dương) đương chỉ trỏ ra lệnh cho tù binh, một tên nói gì với thầy đội thông ngôn đứng gần đấy, thày cười cầu tài và gật đầu lia lịa. Cách đồn binh một đường hẻm nhỏ, bắt đầu có nhà thường dân. Ánh nắng đã chói chang, đống rác lớn gần tiệm ăn tỏa hơi nồng nặc hòa với mùi rãnh nước đen ngòm chảy ri rỉ từ cửa tiệm ăn ra cống lớn, một đứa trẻ trần truồng ngồi bĩnh gần đấy.
Luận đã trở ra và cho xe chạy rẻ theo đường vào tỉnh lỵ, xe cộ đủ loại xuất hiện: xe bò; xích lô, xe đạp, vélo solex, vespa, ô tô hàng … và đã thấy thấp thoáng nhiều bóng áo màu, quần trắng của các thiếu nữ con nhà khá giả. Hai người lính được lệnh Luận cho xuống đồn trước (đồn này do Luận chỉ huy và đóng sát tòa tỉnh trưởng), hai bà chủ thầu xuống khoảng gần chợ; khi chỉ còn bọn Hiển, Kha, Miên trên xe, Luân mới quay xuống nói với tất cả.
– Tôi sẽ đưa các bác đến một gia đình người quen, sớm mai tôi sẽ đích thân đưa các bác ra bến xe về Hà Nội. Khi tới Gia Lâm các bác nhớ xuống trình diện với ty Công An, xin giấy thông hành tạm thời, rồi tìm người thân làm chứng bảo đảm để được cấp thẻ căn cước. Như vậy là «chu» rồi, các bác khỏi phải đến trình diện tại ty Công An ở đây để rồi bị giữ lại qua đêm như tù.
Kha nói mấy lời cám ơn Luận, nhưng Luận hầu như bỏ ngoài tai mấy lời khách sáo đó, và tiếp tục câu chuyện vói riêng Kha:
– Thằng cha Trưởng Ty trước làm ở bên Kiểm Tục, dùng thuốc cường dương như cơm bữa; qua đêm ở đấy, em gái mày có thể bị nguy (Luận tưởng Miên là em gái Kha), mày nên nhớ ở tỉnh nhỏ thì Kiểm Tục, Công An, Hiến Binh là vua, đó là Dịch hạch, Dịch tả và Thương hàn, mấy hôm trước đây tao mới chửi cho chúng nó một trận.
Luận cho xe chạy dọc theo phố chợ, rồi rẽ vào một đường phố khác, hai bên là nhà ở chứ không phải là cửa hàng. Chiếc Dodge4 còn rẽ vào một đường phố hẹp nữa, không khí yên tĩnh như giữa miền quê dừng lại trước một căn nhà có hàng rào duối gai trước cửa, một chút sân rải đá cuội phía trước, vây xung quanh có cây ăn quả mới lớn, trông còn khẳng khiu lắm. Luận đưa Hiển, Kha, Miên vào giới thiệu với cụ chủ nhà trạc sáu mươi tuổi, xin cụ cho ở nhờ đến sớm mai sẽ ra xe hàng hồi cư về Hà Nội. Cụ vui vẻ nhận lời, giới thiệu Miên vói cô con dâu đứng gần đấy: người con trai vừa đi chơi quanh lối xóm về, cụ giới thiệu với Hiển, Kha. Những người đàn ông bắt tay nhau hỉ hả. Luận to béo bao nhiêu thì Đản (tên người con trai cụ chủ) gầy nhom bấy nhiêu, nhất là mái tóc anh lại cố tình để dài, nghệ sĩ. Thấy tay anh cầm quyển Tản Đà vận văn, Luận nói giỡn thân mật:
– Thời đại nguyên tử rồi mà còn đọc kinh Thi! (Ý Luận chỉ muốn nói là đọc thơ).
Lập tức Đản giơ tay lên vuốt mái tóc dài, nước da trắng trên khuôn mặt gầy càng xanh lướt thêm để phản đối và anh đáp:
– Ô hay, chính bom nguyên tử được làm ra để bảo vệ Kinh Thi chứ.
Cụ chủ xếp cho bọn Hiển lên ở căn gác xép, phía sau. Dưới bếp gia nhân đương bận rộn làm gà, thái xu hào, cà rốt. Cụ chủ nói với Luận:
– Chả hôm nay nhà tôi có kỵ, chiều mời trung úy bớt chút thì giờ đến sơi cơm với chúng tôi.
– Dạ cám ơn cụ, nếu có thì giờ thế nào cháu cũng lại – Luận đáp.
Một năm trước đây, cô con gái mười chín xuân xanh của cụ lọt vào cặp mắt diều hâu cú vọ của tên trưởng ty Kiểm Tục (mà hiện là trưởng ty Công An). Ngày đó Luận cũng vừa được cử đến đóng đồn ở đây, ngẫu nhiên gặp ông cụ đứng trước cửa, đôi bên bắt chuyện, ông cụ kể lại sự tình, Luận nổi cơn anh hùng “giữa đường thấy sự bất bằng mà tha “, đến gặp phăng tên trưởng ty Kiểm Tục, báo cho hắn biết người con gái mười chín tuổi kia là em nuôi của Luận. Cô gái thoát, năm sau lấy chồng, Luận được gia đình này coi như ân nhân. Đản cũng mới lấy vợ được hai tháng nay.
Luận từ biệt mọi người trở về đồn và giao hẹn chiều sẽ lại. Kha, Hiển, Miên lần lượt vào buồng tắm. Họ định tắm xong thì thủng thẳng ra chợ ăn trưa, nhưng cụ chủ đã kêu dọn cơm và mời cả ba lên ngồi cùng bàn, từ chối làm sao cũng không được. Điều Miên còn nhớ trong bữa cơm đầu tiên miền quốc gia đó là mặc dầu đã cố giữ ý mà ba người vẫn ăn nhanh và ăn khoẻ nhất, đúng tác phong kháng chiến! Tắm rửa xong thay bộ đồ mới sạch sẽ (tuy vẫn nâu sồng) trông họ không đến nỗi nào.
Sau bữa ăn, Đản nói chuyện với Hiển, Kha, Uyển, vợ Đản, thủ thỉ nói chuyện với Miên ở góc hiên. Đàn bà làm quen nhau hơi chậm, nhưng khi đã quen thì tâm sự liền. Thì ra Đản và vợ đương giận nhau. Đản hiện làm thư ký tại một quận cách tỉnh lỵ hai mươi nhăm cây số. Quận lỵ này có hai thư ký, hai người thỏa thuận dàn xếp với sự ưng ý thông cảm của quận trưởng là mỗi người trong một tuần có thể về với gia đình được ba ngày, Đản về vào những ngày thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật. cặp vợ chồng mới này âu yếm nhau lắm. Thứ sáu vừa rồi, về tới nhà, Đản thấy vợ từ buồng tắm ra, đã mặc coóc sê nhưng chưa mặc áo, chỉ khoác ngoài có chiếc khăn bông lớn, chàng bất bình nói mỉa: ” Mới đi vắng có bốn ngày mà đã ăn mặc hở hang thế, đi vắng hàng tháng có lẽ khỏa thân mất “, tức thì Uyển công phẫn đáp lại cũng có đôi phần trắng trợn. Thế là hai vợ chồng giận mát nhau. Hai ngày qua rồi, chỉ còn một hôm nữa thôi ( mai thứ hai Đản đã phải đến quận lỵ). Ngắm thân thể đẫy đà của vợ Đản, Miên mỉm cười nghĩ thầm: ” Rồi tất đêm nay hai anh chị phải làm lành nhau.”
Mãi tới một giờ, những người bạn trẻ mới giải tán để đi ngủ trưa một tí. Miên nằm trên giường nhỏ, Hiển và Kha trải chiếu xuống sàn vào một góc, Miên đã chợp ngủ, nàng mệt lắm rồi, nàng không ngờ khi Kha cũng đã ngáy khẽ, Hiển còn lắng nghe Đản từ một căn phòng bên dưới rền rỉ ngâm bài “Cảm thu tiễn thu” của Tản Đà:

Từ vào thu đến nay.
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu gềnh
Sông thu đưa lá bao nghành biệt ly.

Hiển nghe mà rùng mình, chàng nhớ lại thuở thịnh thời của thực dân, nhớ lại hình ảnh cô đầm hãnh tiến rượt đuổi người thanh niên Việt ở trước rạp Eden. Chàng mường tượng những cảnh tù đày ở Côn Lôn, Lao Bão lẫn lộn với những cảnh thanh niên trụy lạc ở Khâm Thiên, ở ngõ Sâm Công, rồi những cảnh làm đĩ, những cảnh người ngoại quốc nhìn người Việt bằng con mắt miệt thị, những cảnh trí óc thông minh Việt Nam đã không được sử dụng, mà còn bị hạn chế để đến nỗi kẻ biết lái xe tăng được coi như một kỳ tài quái kiệt, chàng nghĩ đến cảnh đời trống rỗng, người xót thương cho dân tộc chỉ còn biết kêu than tiêu cực: nhạc “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong, thơ “Cảm thu tiễn thu” của Tản Đà; chàng nghĩ đến những ngày hè oi ả, tiếng ve kêu ánh ỏi dưới hai hàng me hay hai hàng phượng vĩ hoa đỏ rực báo mùa thi, than ôi thi cử mà làm gì, nhà trường sản xuất ra những kẻ hiên ngang thì mất đầu như Nguyễn Thái Học, Ký Con, những hạng tầm thường “phi cao đẳng bất thành phu phụ” thì gác tía lầu son.


II 

Bốn giờ chiều, Luận đến sớm ngỏ ý đón Hiển, Kha, Miên để đưa đi một vòng qua các phố tỉnh lỵ gọi là “xem tình hình quốc gia”. Miên từ chối khéo, nàng ở lại, xuống bếp giúp Uyển sắp đặt các đồ nấu nướng. Lên xe Dodge 4, cả ba người đàn ông cùng ngồi trên, Kha ngồi giữa ngay sát bên tay mặt Luận, Hiển lơ đãng nhìn cảnh sinh hoạt của dân chúng hai bên lề phố, trong khi Luận huyên thuyên nói về chuyện vợ con của chính anh:
– Thật tình moa coi en (elle) như vợ chính thức rồi, cần chó gì phải giá thú giá thiếc, nhưng moa vừa đi opération (công tác) nửa tháng về, elle đã ngoại tình. Mà với ai? Với thằng bạn thân của mình mới chó chứ.
– Cậu có đánh thằng bạn? Kha hỏi.
– Ấy mình cũng định thế, thằng cha đó cran (gan) lắm, nó nói với moa, chính vợ mày tấn công tao trước, mày về cảnh cáo nó thì hơn”. Lần đầu moa tha thứ, moa chỉ vào elle giao hẹn: “Tôi báo cho cô biết là tôi bỏ qua chuyện trở về trước, nhưng từ nay trở về sau, cô phải ngừng lập tức cái trò bỉ ổi ấy!” Lần sau moa đi opéraration, elle lại chứng nào tật ấy; sau bữa ăn tối, moa lẵng lặng bước vào phòng elle như thường lệ, dừng lại trước mặt elle, mím chặt môi, đứng nghiêng người về phía bên phải, phóng một quả đấm thôi sơn vào đúng quai hàm, elle lộn đi mấy vòng trên chiếc giường rồng rồi ngã xấp xuống đất. Elle gan lắm, không khóc một tiếng trừ tiếng kêu thất thanh duy nhất lúc thoạt đầu, rồi xếp va li đi ngay, hôm sau chiếu điện thấy có một fêlure ( rạn nứt) ở khoảng đó.
Kể dứt câu chuyện một cách rất tự nhiên, coi như Kha đã biết elle là ai rồi, Luận cất tiếng hát một bản tình ca than cho duyên kiếp bẽ bàng, giọng trầm buồn rất đỗi thương cảm, chính Kha cũng không ngờ con người có giọng ca nghệ sĩ ấy lại cũng là con người vũ phu của thế đứng “nghiêng mình bên phải” và “phóng một quả thôi sơn” lên quai hàm người đẹp. Giọng hát trầm buồn bỗng ngừng bặt, tốc độ xe giảm hẳn, tiếng Luận hốt hoảng cùng với tiếng kèn kẹt của cần sang số:
– Bỏ cha tôi rồi, đồ giả;
Kha ngơ ngác hỏi:
– Giả gì kia?
– Mày trông con bé đứng trước cửa, bên tay mặt mày:
– Cô giáo tiểu học mới đổi tới đấy. Sáng nay tao gặp elle đi lễ chùa, ngực thế này (Luận phác một vòng trước ngực mình), mà bây giờ trong elle mặc áo cánh đứng trước cửa, ngực lép xẹp. Của giả rồi! Đau thế!
Xe chạy nhanh dần và giọng hát trầm buồn của Luận lại nổi lên, Kha nghe mà có cảm giác Luận đương đặt cả cuộc đời mình lên chiếu bạc ván chót và biết mình thua nên thả cho đời tan trước vào tiếng hát đó.
Từ lúc lên xe, Hiển vẫn cúi đầu suy tư, đôi khi chàng có mỉm cười, hoặc cười thành tiếng khẽ góp vào câu chuyện của Luận, nhưng rõ là chỉ có tính cách xã giao thôi.
Luận bỗng bẻ quặt tay lái. Hiển xô vào Kha và cả hai xô vào cánh tay “hải tặc” của Luận. Xe vút về phía trước, chồm lên, tiếng phang rít, tiếng Kha ngạc nhiên:
– Ồ đã đến nhà này!
Thì ra trên đường về, Luận cho xe chạy quành ngả khác đi vào một đường hẹp nhưng vắng và khi xe nhô khỏi đường hẹp đó chỉ quặt ngoẹo sang tay trái một chút là tới nhà.
Khách đã lác đác đến, trong nhà đèn nến sáng choang, không khí tấp nập nhưng nghiêm nghỉnh. Ba người bạn trẻ lén thẳng lên gác xép để đứng ngồi thoải mái. Kha lục ba lô tìm cuốn sổ tay. Đã từ lâu chàng có thói quen ghi chép những cảm nghĩ.
Tiếng Luận:
– Kha này!
– Gì?
– Mày còn nhớ dạo chúng mình đóng kịch?
– Còn.
– Dạo đó chúng mình trẻ quá nhỉ?
– Ừ.
– Thời đó tao theo riết em nào, em đó phải chết. Đủ mánh lới. Rồi khi đã “biết” em hai ba lần rồi, a lê hấp, đá! Giờ đây trong nét mặt mày còn đẹp, mày còn giữ được vẻ cao thon, thì thì “xí” trai quá rồi, bụng thấy một ngày một to, đít một ngày một xệ xuống.
Kha, Hiển cùng bật cười. Kha nói:
– Cậu cứ nói vậy chứ trông costaud như cậu con gái nó mới dễ mê.
Luận vung tay ý muốn tìm lới phản đối, tay chàng quơ xuống chiếu đụng phải tập giấy có bìa ngoài mà Kha sắp xếp vào ba lô. Chiếc bìa tung ra, Luận nhìn vào và reo:
– A, mày làm thơ đấy à?
Kha chặc lưỡi:
– Thôi đôi khi buồn, làm chút ít.
Luận đọc, chăm chú đọc, vỗ đùi đen đét:
– Được, được lắm! tao cũng làm thơ đấy nhé, viết cả truyện ngắn nữa, vẫn đăng đều ờ tờ Quân Đội, bán nguyệt san của Nha Chiến Tranh Tâm Lý.
– Giỏi đấy!
– Để tao giữ tập thơ này của mày rồi cho đăng dần vào bán nguyệt san Quân Đội và một vài tờ civil khác tao quen.
– Cũng được, miễn là bố đừng đánh mất của con, và cũng chỉ nên lấy một số ít thôi, bao giờ đăng hết hãy lấy sau.
– Cậu về Hà Nội đã biết sẽ ở địa chỉ nào chưa?
Hiển đở lời Kha:
– Chúng tôi sẽ ở nhà số 78 phố Chợ Hôm, anh ghi cho để nếu tiện dịp mời anh tới liên lạc với chúng tôi cho vui.
Luận giữ chừng chục bài thơ và ghi địa chỉ trên vào sổ tay, Kha cất tập thơ còn lại vào ba lô.
Hiển ra nằm khoèo trên chiếc chiếu giải ở góc nhà. Luận nói với Kha:
– Tụi nhà văn trong báo Quân Đội già có, trẻ có. Tụi trẻ vào đấy để tránh ra trận chết cho thực dân, nếu tao gặp chúng trước thì giờ này cũng đã ở trong ban biên tập đó rồi. Tuy thế nhưng khi lâm trận mới thấy rằng mình chẳng bao giờ chết cho thực dân hết, mình hết để xây dựng một cái gì …. một cái gì tốt đẹp và bền vững cho đất nước. Có lẽ vì đã từng ra trận và trực tiếp linh cảm thấy cái gì tốt đẹp và bền vững ấy nên đôi khi nhàn rỗi tao đâm ra tí toáy muốn làm thơ, làm văn. Cũng không đến nỗi dở đâu, để rồi có dịp tao gửi đến cho mày những tờ báo đó.
Suy nghĩ một phút Luận tiếp:
– Tao ưng tập thơ này của mày lắm, đó là tập thơ đầu tay chứ gì. Trong văn chương tao tin và yêu những tác phẩm đầu tay vì đây là tiếng nói tinh khiết nhất của tình cảm ban dầu, càng những tác phẩm về sau ngoài bút càng … điếm đi (Luận cất tiếng cười lớn). Đúng thế, người ta thì bảo là “già giặn hơn”, tao thì cho là “điếm hơn”, vẫn những tình cảm cũ nhưng nặng về kỹ thuật để dễ ngụy trang, làm ra vẻ mới lạ, nhiều khi tác phẩm chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật! Cho nên tự rút kinh nghiệm, với bất cứ tác giả nào quốc tế hay quốc nội tao cũng chỉ đọc ba bốn tác phẩm đầu, còn thì …(Luận làm điệu bằng tay) lướt, lướt!
Kha cười chậc lưỡi:
– Cũng có lý!
– Thế còn mày – Luận hỏi – Mày viết lách vào trường hợp nào, nhớ không?
Kha mím chặt môi, cười mỉm, ngước nhìn. Hình ảnh Vân thoáng trong trí chàng. Suốt trong mấy tháng đầu, cuộc kháng chiến sục sôi trong bầu không khí căm hờn quân thực dân cướp nước, Kha hoàn toàn quên Vân. Nhưng khi trung đoàn Thủ Đô đã tản lên miền Trung du, cuộc kháng chiến mở rộng trong không gian và nhuốm màu sắc trường kỷ trong thời gian, thì lòng người kháng chiến cũng phải giữ cho nó chừng mực để mà trường kỷ chiến đấu, hình ảnh Vân lúc đó trở lại thân yêu hơn bao giờ hết.
Luận nhắc lại câu hỏi:
– Sao, mày viết lách vào trường hợp nào, nhớ không?
– Kháng chiến được khoảng một năm thì ông Hồ có dịp làm một bài thơ khuyến khích nhân dân:

Ngành ngành thi đua
Người người thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua

Đọc xong bài thơ trên, mình chỉ hơi nhíu lông mày nghĩ thầm: “Thơ đếch gì thơ thế! ” Tuy nhiên dạo đó mình còn quý ông Hồ, nên chỉ phản ứng bằng cách làm một bài thơ trữ tình nói về tình người mẹ cày cấy ở cánh đồng nhà nhớ người con ra đi diệt giặc, cầu chúc cho giặc chóng tan và con được yên lành trở về, đó là bài thơ số một cậu giữ. Bài thơ viết xong mình cất vào đáy ba lô.
Nửa tháng sau, một nhà phê bình văn học của Đảng hết lời ca ngợi bài thơ trên của ông Hồ và đề cao ông là “đệ nhất thi sĩ của thời đại”, làm mình phát bẳn lên: ” Ừ, gọi là bài thơ để phổ thông trong nhân dân thì được, nhưng vì bài thơ đó mà nâng ông Hồ lên là đệ nhất thi sĩ bợ đỡ như vậy chó nó cũng không ngửi được”. Uất ức, mình phản ứng bằng một bài thơ trữ tình thứ hai và khi chép xong cẩn thận mình lại cất xuống đáy ba lô. Sau đó ông Hồ thỉnh thoảng vẫn làm thơ và lần nào mình cũng phản ứng lại bằng một bài thơ trữ tình chép xong cất vào ba lô. Chẳng bao lâu đáy ba lô trữ được một tập thơ khá dầy, vì qua mấy lần đầu phản ứng mà làm thơ, nhưng rồi nguồn thơ ở mình đã được nguồn thơ của “đệ nhất thi sĩ” gián tiếp khai phá nên chỉ thỉnh thoảng hứng cảnh sinh tình mình tự động sáng tác lấy. Bề ngoài mình vẫn đi khai hội, kiểm thảo với các “đồng chí” nhưng bên trong là cả một thế giới trữ tình riêng.
Đôi mắt Kha càng dõi về phía xa qua khung cửa sổ, bên ngoài trời đã về chiều. Kha nhớ lại thứ hoa cúc dại có đầy rẫy ở quê nhà. Kha nhớ lại hình ảnh Vân đã có lần hiện lên trong một giấc mơ làm nhòa nhưng cụm hoa vàng. Kha tiếp trong khi Luận như bị thôi miên bởi dáng điệu kể chuyện của Kha:
– Một lần có anh bạn “đồng chí” vỗ vào ba lô hỏi: “đựng những gì mà dầy cộm thế này?” Mình đã đáp lại rất bâng quơ: “Ừ nhỉ, người trìu mến những gì xếp ở đáy ba lô? Đáy ba lô cũng là đáy lòng!”


III 

Khách đến ăn giỗ đã đông đủ, nhưng thể theo lời yêu cầu của bọn Hiển (và của Luận nữa) cụ chủ nhà ưng để đám bạn trẻ đó quây quần ăn với nhau trên gác xép. Khi mọi người vừa ngồi xuống quanh mâm cỗ thì có tiếng radio vọng lên tự căn phòng vợ chồng Đản dưới nhà: nữ danh ca Thùy Trang đương cất giọng não nùng. Vợ Đản vùng đứng dậy như bị điện giật, tiến ra phía cửa sổ ngó xuống, nhận thấy đó là thằng cháu họ, chừng mười lăm tuổi, tự ý vào buồng vặn radio, nàng bước rầm rầm xuống thang, vút một cái tới phòng, tắt nghiến radio cho tiếng Thùy Trang câm bặt. Kha và Miên cùng chú ý thấy Đản hơi mỉm cười đượm chút kiêu hãnh, bàn tay gầy và trắng xanh của anh khẽ đưa lên vuốt mớ tóc dài, và mãi tời khi nghe tiếng bước chân vợ dồn dập trở lên, anh mới kín đáo nói khẽ với mọi người:
– Bà đầm tôi nhất định không bao giờ cho tôi nghe Thùy Trang.
(Khi còn là người yêu của Đản, biết anh thích nghe Thùy Trang hát, Uyển mếch lòng nhưng chưa tiện nói ra. Là vợ Đản rồi, mỗi khi Đản mở radio đón nghe Thùy Trang, Uyển thoạt vùng vằng nện guốc ầm ĩ trong phòng để phá đám, rồi khóc, sau cùng nàng quyết liệt tắt radio).
Miên không rõ những chi tiết trên đây, nhưng thấy Uyển biểu lộ lòng nghen như thế nàntg tin rồi đêm nay đôi vợ chồng đó sẽ làm lành nhau và Miên thấy trong lòng vui vui.
Từ lúc đi vào miền quốc gia, nét mặt Hiển vẫn buồn buồn đôi mắt thường cúi xuống trầm lặng; trái lại Kha cũng như Miên lòng tràn đầy hân hoan, nghe ngắm hết điều này đến việc nọ, nhường như gặp cái hay thì họ vui, gặp cái dở thì họ cố tìm ra khía cạnh ngộ nghĩnh để tha thứ.
Tối hôm đó đã khuya lắm, Miên nằm trên giường còn nghe tiếng Hiển trằn trọc đằng góc phòng, rồi tiếng chàng thở dài, kế đó là tiếng Kha sực thức giấc hỏi:
– Anh chưa ngủ a, Hiển?
– Chưa – Hiển đáp.
Vừa lức trời đổ mưa, chỉ một phút sau tiếng mưa rơi dìu dịu rất dều trên mái ngói, Hiển phát biểu cảm tưởng:
– Nghe mưa rơi nhớ Việt Bắc ghê. nếu chúng nó không phản bội kháng chiến, sau này đất nước hoàn toàn độc lập, những kỷ niệm đó với mình quý giá biết chừng nào.
– Cảnh vùng quốc gia ngộ nghĩnh đấy chứ? – Kha hỏi lại.
Hiển ừ hử và tiếng Kha tiếp:
– Đương ở thế giới ngoài kia con người giống như những đồng xu, nói theo kiểu Maxim Gorki, vào đến đây tôi có cảm tưởng mình vào một khu rừng già …
Miên mỉm cười trong bóng tối, nàng rất ưng và thông cảm với Kha ở hình ảnh “khu rừng già”, rồi nàng chợp ngủ.
Sớm hôm sau Miên thức dậy trước nhất ra giếng vục nước, rửa mặt đánh răng. Vợ chồng Đản còn dậy sớm hơn vì hôm nay đã tới phiên Đản tới quận làm việc. Quả như Miên tiên đoán, họ đã làm lành với nhau, và tuy họ chỉ thì thầm sợ kinh động giấc ngủ của người khác, nhưng dáng điệu họ thật là ríu rít; họ vừa bước xuống thềm thì gặp Miên từ giếng vào, đôi bên thân mật chào nhau và Uyển nói khẽ với Miên:
– Em tiễn nhà em ra xe.
– Vâng – Miên đáp – lát nữa chúng ta sẽ gặp nhau. Chúc anh Đản đi làm việc vui vẻ, thứ sáu lại về với chị.
Miên toan nói thêm vài lời cám ơn và từ biệt Đản vì lát nữa bọn nàng đã xuôi Hà Nội, nhưng nàng thấy rõ rằng lời nàng sẽ vô ích và nhạt nhẽo không để đâu cho hết đối với cặp uyên ương bịn rịn đó và nàng chỉ còn biết dừng lại ngắm họ ra cổng. Tuy sớm nay chẳng lấy gì làm lạnh, Uyển cũng khoác thêm chiếc áo len bên ngoài, chiếc áo len mầu nâu không hợp với nước da hơi xỉn của nàng, Uyển cố giữ vẻ khép nép để thu gọn hơn thân hình hơi xồ xề của nàng trong lần len. Người Uyển còn muốn chun lại hơn nữa khi nàng ngã đầu lên vai Đản. Đó cũng là cách “điệu” cho thêm phần quyến rũ – với trực giác của giới phụ nữ, Miên hiểu ngay thế. Nhưng nàng có hiểu đâu câu chuyện tình của hai người, nó thật lý thú, như chất hương của hoa nở, chất mật rừng man rợ vừa lên men, cứ thế mà tỏa ra, mà bốc lên, quyên lấy nhau, làm say lòng nhau.
Đản được bổ tới làm thư ký cho quận lỵ đó thì Uyển cũng vừa được nghỉ hè, từ trường tỉnh về trông nom giúp mẹ cửa hàng xén ngay sát nơi Đản trọ. Đây là lần đầu tiên Đản xa nhà, và cũng như hầu hết các chàng trai khác trong cùng trường hợp, anh cảm thấy tâm hồn vừa bâng khuâng vì tới chốn lạ, vừa ngây ngất vì hương vị tự do. Giá như Đản gặp Uyển ở ngay tỉnh lỵ Vĩnh Yên thì Uyển cũng đến bị lẫn ngay trong đám hương sắc trung bình của những cô gái tỉnh, nhưng Đản vốn thích ngâm thơ và thường cũng biết mình thuộc nòi đa tình. Các bạn công chức trẻ cùng trọ đều suy tôn Đản là thi sĩ. Uyển từ tỉnh về bất ngờ, nàng về quận lỵ sau Đản chừng ba hay bốn hôm là cùng vào một buổi chiều tà, giờ gà lên chuồng. Lúc đó Đản vừa bỏ kính trắng, từ căn gác trọ, đôi mắt hấp háy của chàng chợt nhìn xuống miếng sân vuông vắn bên nhà Uyển, khoảng giữa nhà trên và bếp, cháng bất chợt thấy bong một thiếu nữ – bong Uyển – đang vơ vội mấy chiếc quần áo trên giây. Khi chàng mang kính lên thì nàng đã vào nhà. Lòng bồi hồi chàng buột miệng ngâm bài “Cảm thu tiễn thu” của Tản Đà. Một anh bạn trẻ thấy thế bèn tưới dầu thêm vào lửa:
– Nàng học đệ tứ trường tỉnh đấy, chiều nay mình vừa gặp, xinh lắm.
Sự thực anh bạn đó có gặp ghiếc gì đâu. Sớm hôm sau vào giờ đi làm, qua cửa hàng, Đản có đưa mắt nhìn vào thấy nàng cũng vừa từ quầy nhìn ra, dường như nàng đã hiểu chính chàng là người ngâm thơ chiều hôm qua. Thật ra chàng có thấy nước da nàng hơi xỉn và thân hình nàng hơi xồ xề, nhưng người con gái nào đến tuổi dậy thì mà chẳng tỏa ra một cái gì mê hoặc và thiết tha? Buổi trưa tan sở về, chàng tạt vào cửa hàng nàng mua một hộp Gibb đánh răng, các bạn trẻ đứng ngoài kẻ thì dặng hắng, kẻ thì khúc khích cười làm nàng cứ phải cúi gầm mặt, hai tay luống cuống mãi mới gói xong cho chàng hộp Gibb. Ôi, tiếng dặng hắng đó, tiếng cười khúc khích đó đã là những dây dợ vô hình nhưng vô cùng kiên cố buộc trói lấy chàng và nàng ngay từ buổi sơ ngộ. Trong buổi sơ ngộ này, chàng đặc biệt chú ý đến mái tóc nàng cố ý chải xõa xuống che một chút đuôi mắt lim dim bên trái. Khi chàng trả tiền, nàng ngước nhìn cám ơn, đôi mắt nàng một bên to, một bên hơi nhỏ và hơi lé một chút, chính vì vậy mà khi nhìn vào đôi mắt ấy, chàng như thấy mình bị thâu hút vào một thế giới kỳ ảo làm điên đảo tâm hồn. Rồi mỗi lần chàng vào cửa hàng mà có bạn theo, nàng thường ngượng ngập, nhưng nếu chỉ có mình chàng thì nàng lại có khoé nhìn vẫn ngượng ngập đấy mà vẫn thiết tha khiêu khích làm sao. Rồi nàng lại mượn sách của chàng, phần nhiều là những tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, đôi khi nàng cho con bé người làm mang sách sang gửi giả trước giờ chàng đi làm về một vài phút, bên trong thế nào cũng có vài hàng cám ơn mà bên dưới trước khi ký nàng có ghi “Em gái anh”. Nàng rất thành khẩn chỉ xin làm “em gái anh” thôi. Cho đến một buổi sớm kia – đa cảm như chàng thì trọn đời chẳng thể quên được buổi sáng ấy – chàng vừa ra khỏi nhà trọ để đến văn phòng quận thì nàng cũng vừa từ trong cửa hàng dắt xe đạp tiến lên mấy bước cùng một chiều với hướng chàng đi, dáng nàng uyển chuyểnnhư rắn trườn trên cỏ xanh mà đồng thời cũng hiền như chim câu, rồi nàng ngồi lên yên xe bắt đầu đạp xe, hai dây xú chiêng nổi hằn vuông vắn từ hai bên vai xuống, chiếc áo dài nàng mặc hôm ấy màu hồng nhạt đến nỗi chàng có cảm tưởng đó chính là màu da thịt nàng hồng lên ánh qua làn vải. và đấy mới thật là màu da của nàng chứ! Nàng hơi đẫy ư? Không, nàng chỉ tràn đầy sức sống! Trông thấy thân hình nàng mà như ngửi thấy hương thơm, thứ hương thơm nồng ấm tỏa ra tự miền da thịt tràn trề sức sống của nàng. Chàng dừng lại đợi cho bong nàng cùng chiếc xe bon từ từ khuất hẳn sau lối rẽ. Chàng bâng khuâng tiến bước, tới trước một villa nọ chàng vô tình ngửng lên thấy một cô gái trạc đôi tám đương khoanh tay tựa cổng nhìn chàng nửa như tò mò quan sát nửa như chờ đợi bâng quơ. Thấy chàng ngửng lên cô quay vào dáng đi cũng uyển chuyển gót guốc bước mau trên lối đi phủ đất cát màu đỏ ẩm hơi sương, để lại những dấu hằn rất rõ khiên vô cớ người con gái bỗng đượm một vẻ đẹp huyền hoặc. Nhưng cái vẻ uyển chuyển kia, những bước hằn trêbn cát đỏ kia, vẻ kiều diễm chợt tăng lên bội phần của người con gái kia đều quy tụ cả về NÀNG – Uyển – như trăm ngàn con suối nhỏ đổ ra song lớn cho rộng đôi bờ. Trong trí CHÀNG thật ra chỉ còn có NÀNG! Ngay buổi trưa hôm đó chàng mang sang cho nàng mượn một quyển truyện khác, bên trong có bức thư tỏ tình của chàng khởi đầu bằng câu đượm tính chất quyết liệt : “Em yêu ngàn đời của anh …” Buổi chiều chàng sang cửa hàng và nhân lúc vắng người đó nhắc lại vắn tắt những điều đã viết trong thư. Nàng chịu. Tình yêu của chàng và nàng luôn luôn là một ước vọng hiến dâng, nhưng vì họ yêu nhau thật nên các góc cạnh sỗ sàng của dục vọng được xóa mờ đi.
Con cú vọ Thời Cuộc sắp dùng lưỡi hái Chiến Tranh để chia rẽ đôi chim khuyêncủa Ái Tình: có người bà con từ Hà Nội lên báo cho chàng hay là chàng sẽ nhận được giấy động viên vào Nam theo học lớp sĩ quan ở Thủ Đức. Chàng đâu chịu hy sinh tình yêu để xông pha tên đạn cho quyền lợi lũ thực dân cướp nước và lũ tay sai bù nhìn bán nước! Tình yêu đã giúp chàng đủ sức chịu đau đớn khi tự chặt một đốt của ngón tay trỏ, tình yêu đã giúp chàng mưu cơ, biết thản nhiên trả lời vị bác sĩ quân y ở phòng trưng binh là chàng đã chặt đốt ngón tay đó để thề không đánh bạc. Dĩ nhiên người ta không thể cho gia nhập đoàn thể quân nhân một người không thể bấm cò súng. Chàng trở về với chức vụ thư ký quận lỵ. Chàng trở về với nàng, vĩnh viễn với nàng, vĩnh viễn với tình yêu; Hôn lễ cử hành sau đó ít lâu. Chàng thiết tha yêu cầu nàng chọn áo cô dâu màu hồng nhạt, chiếc áo cũng bó sát lấy thân hình. Chàng bàng hoàng nhưng chững chạc đi vào đêm tân hôn; khi ôm thân thể tràn đầy sức sống của nàng, chàng thì thầm ngâm lại bài thơ “Cảm thu tiễn thu” của Tàn Đà, lời thơ có thêm chất men tình yêu nên ngưng đọng như bức ảnh mà linh động như một khúc phim. Rõ rang trong bong tối mà chàng thấy da thịt “người em yêu ngàn đời” đương dậy lên thành màu hồng của áo. Chàng và nàng say sưa trong mối tình bát ngát như cánh đồng lúa đương xuôi về miền Trung châu và cao vút như ngọn Tam Đảo chiều chiều in cắt trên vòm trời tím ngát. Rồi nàng ở lại với gia đình chàng ra đi quận ly làm việc bốn ngày, về với nàng ba ngày. Tình yêu tiết lộ vì hoàn cảnh ấy càng khoác màu vĩnh cửu, chàng chỉ mới mất có một điều tự do là không được nghe Thùy Trang hát, nhưng điều cấm đóan này là một vinh dự chứ đâu là một thiệt thòi? Hai tháng thần tiên trôi qua, cũng có những phút giằn giỗi nhỏ nhưng đó chính là gia vị của tình yêu. Mãi tới kỳ vừa qua sảy miệng, chàng nói một câu hơi nặng tình; vì bất chợt bị chạm lòng tự ái nàng cũng không kìm được tình cảm khi đáp lại. Rồi buổi tối hôm đó nàng nằm trên giường, chàng nằm ở divan đọc sách mãi tới khuya, khuya lắm, chàng mới tắt dèn vờ ngủ cho đến khi ngủ thật. Hai đêm qua như vậy, Sáng ngày thứ ba thì bọn Hiển, Kha, Miên tới do chiếc Dodge 4 của Luận.
Khi cặp vợ chồng trẻ đã ra khuất cổng, Miên toan quay vào thì Kha từ gác xép xuống. Miên thấy niềm vui của mình tinh khiết như ban mai, nàng cười tươi và đon đả nói:
– Em tưởng anh còn ngủ.
– Hiển thì còn ngủ thật – Kha đáp – hôm qua Hiển trằn trọc mãi.
– Để em đưa anh ra giếng. Đi về phía này anh.
Hình như tới lúc đó Miên mới chú ý tới tiếng gà gáy xa, nàng né mình bước vào lối nhỏ, cũng tới lúc đó nàng mới kịp nhận thấy cỏ hai bên lề ướt đẫm sương đêm, và khi nàng cúi xuống vục nước cho Kha, nàng chằm chằm nhìn vào đôi chân Kha, đôi chân đi đôi dép kháng chiến bằng lốp ô tô.
Tám giờ Luận tới cùng chiếc Dodge 4 quen thuộc, lúc đó Hiển, Kha, Miên cũng vừa ăn sang với cụ chủ nhà xong, đương nghe cụ bàn chuyện thời sự và than phiền chẳng hiểu bao giờ chiến tranh mới chấm dứt, đất nước độc lập thật sự. Bộ ba vội vã đứng dậy từ biệt cụ, nhắc lại những lời cám ơn nồng nhiệt mà từ lúc ngồi xuống ăn sang ba người đã tiếp lời nhau nói.
Luận đưa ba người ra bến xe, chính chàng mua ba vé hạng trên. Luận căn dặn thêm một lần nữa khi ba người về đến Gia Lâm nhớ phải vào Ty Công An trình diện mà xin cấp giấy thông hành tạm thời. Đợi tới lúc xe hàng nổ máy hiển, Kha, Miên mới từ biệt Luận lên chỗ ngồi của mình trên xe. Xe hàng chuyển bánh, Luận còn đứng lại làm hiệu vẫy tay cho đến khi xe ra khỏi bến.
– Thế là yên chí – Luận nghĩ thầm – không còn sự gì có thể xảy ra được nữa. Luận đã lầm, chàng có ngờ đâu chính sự chu đáo của chàng mà Kha bị giữ lại ở Gia Lâm rồi giải về đề lao trung ương Hà Nội. Giá như Kha bị khám bắt ở ngay Vĩnh yên, Luận còn can thiệp kịp.


Hết Chương 1. Xem tiếp Chương 2

 

Tìm Kiếm