NHÀ GIẢ KIM (I)

Phần Một

1 – Tên của chàng trai là Santiago. Mặt trời vừa sẩm tối khi cậu cùng với đàn cừu đến ngôi nhà thờ hoang phế. Mái nhà thờ đã điêu tàn từ lâu và một cây sung to lớn mọc lên trên mảnh đất của phòng mặc áo lễ xưa.

 

Chàng trai quyết định ngủ qua đêm ở đó. Cậu cho đàn cừu vào qua cánh cổng hoang tàn và cậu chắn ngang cánh cổng bằng vài tấm ván để tránh đàn cừu có thể đi ra trong đêm. Trong miền này không có sói dữ, nhưng đã có lần một con cừu đi lạc trong đêm và cậu đã mất trọn ngày hôm sau để tìm kiếm nó.

Cậu dùng chiếc áo khoác lau sạch sàn nhà và nằm xuống, cậu dùng cuốn sách vừa đọc xong làm chiếc gối kê đầu. Cậu tự nhủ, lần sau phải đọc cuốn sách dầy hơn để đọc được lâu hơn và làm gối kê đầu thoải mái hơn.

Cậu thức dậy khi trời vẫn tối và nhìn qua mái nhà thờ đã đổ nát hơn nửa, cậu nhìn thấy những vì sao.

„ Tôi mong được ngủ thêm một chút nữa,“ cậu chợt nghĩ. Đêm qua cậu có một giấc mơ giống như giấc mơ một tuần trước đó và lần này cậu cũng tỉnh dậy trước khi giấc mơ kết thúc.

Cậu đứng lên, cầm cây gậy và đánh thức đàn cừu còn đang ngủ. Cậu nhận ra rằng, khi cậu thức dậy, hầu hết các con vật cũng bắt đầu động đậy. Hình như một sợi dây mầu nhiệm đã gắn đời sống của cậu với đàn cừu mà hai năm qua cậu đã gắn bó, hướng dẫn chúng qua các miền quê kiếm đồ ăn và nước uống. Cậu lẩm bẩm: “chúng quá thân thuộc với tôi đến nỗi chúng biết cả thời khóa biểu của tôi”. Nghĩ một lúc về điiều đó, cậu chợt nhận ra điều ngược lại: chính cậu là người đã quen với giờ giấc của đàn cừu.

Nhưng chắc chắn đàn cừu cần nhiều thời gian hơn để có thể tỉnh  thức. Chàng trai thúc dục chúng bằng cây gậy, gọi tên từng con. Cậu luôn luôn tin rằng đàn cừu có thể hiểu những gì cậu nói. Vì thế một đôi khi cậu đọc cho chúng nghe một đoạn của cuốn sách mà cậu say mê hay cậu kể cho chúng nghe về nỗi cô đơn hoặc niềm hạnh phúc của người chăn cừu trên đồng cỏ. Một đôi khi cậu muốn bình luận với chúng về những gì cậu đã nhìn thấy trong các làng mà chúng đi ngang qua.

Nhưng mấy ngày qua cậu chỉ nói với chúng về điều: về một người con gái, con của một nhà buôn đang sống trong ngôi làng mà chúng có thể đi đến đó trong bốn ngày nữa. Cậu chỉ đến ngôi làng đó có một lần vào năm trước. Ông thương gia là chủ tiệm tạp hóa và ông ta luôn luôn đòi hỏi phải cắt lông cừu trước mặt ông để không bị ăn gian. Một người bạn đã kể cho chàng trai về tiệm đó và cậu muốn đưa đàn cừu của cậu đến đó.

2

“Tôi cần bán một ít lông cừu,” chàng trai nói với chủ tiệm.

Tiệm đang đông khách nên chủ tiệm nói với chàng chăn cừu chờ đến buổi chiều. Vì thế chàng ngồi trên bậc thềm cửa tiệm và lấy từ trong bị ra một cuốn sách.

“Tôi không biết làm sao một người chăn cừu lại có thể biết đọc,” một giọng nói con gái từ sau lưng.

Người con gái đúng là tiêu biểu của vùng Andalusia (3), có mái tóc đen chảy dài, đôi mắt mơ màng gợi nhớ lại cuộc chinh phục Moorish (4).

“Đúng thế, tôi thường học nhiều từ nơi đàn cừu của tôi hơn là từ sách vở”, chàng trai trả lời. Trong hai tiếng nói chuyện với nhau, người con gái kể cho cậu rằng nàng là con gái của chủ tiệm, rồi nàng kể về đời sống trong làng, nơi ngày này lại giống như những ngày khác. Chàng chăn cừu kể cho nàng nghe về những cánh đồng Andalusian và liên quan đến những tin tức về các thành phố khác mà cậu đã dừng chân. Cậu nhận thấy cuộc nói chuyện đó thú vị hơn là nói chuyện với đàn cừu của mình.

“Làm sao bạn có thể đọc được?” Người con gái hỏi.

“Giống như mọi người khác. Trong trường,” cậu trả lời.

“Nhưng nếu bạn biết đọc, tại sao bạn lại là người chăn cừu?”

Chàng trai lẩm bẩm một câu nói để tránh trả lời trực tiếp câu hỏi của người con gái. Cậu chắc rằng nàng sẽ chẳng hiểu nổi. Cậu tiếp tục kể những câu chuyện về những hành trình của cậu và về nét tươi đẹp của nàng. Đôi mắt Moorish mở rộng kèm theo chút sợ hãi và ngạc nhiên. Khi thời gian trôi qua, chàng trai ước mơ ngày hôm ấy sẽ chẳng qua đi và cha nàng sẽ luôn luôn bận rộn để cậu phải chờ thêm ba ngày nữa. Cậu nhận ra rằng cậu đang có một cảm xúc mà trước đó cậu đã chẳng bao giờ trải qua: nỗi mong ước được sống ở một nơi mãi mãi. Với người con gái có mái tóc đen đó, cuộc sống của cậu sẽ chẳng bao giờ như trước nữa.

Nhưng sau cùng ông thương gia cũng xuất hiện và hỏi mua lông của bốn con cừu. Ông trả tiền cho chàng trai và bảo cậu trở lại vào năm sau.

3

Và bây giờ chỉ còn bốn ngày nữa chàng trai sẽ trở lại ngôi làng xưa. Cậu hồi hộp và cũng xen lẫn bồn chồn: có thể người con gái đã quên cậu. Nhiều người chăn cừu đã đi qua đó, đã bán lông cừu.

“Không sao cả,” cậu nói với đàn cừu. “Tôi biết nhiều người con gái khác nữa, ở những ngôi làng khác.”

Nhưng trong trái tim, cậu biết một vấn đề đang trĩu nặng trong tâm hồn. Cậu biết những người chăn cừu, giống như những thủy thủ và các khách buôn bán rong, luôn luôn tìm một nơi chốn, nơi có người có thể làm họ quên đi thú vui của những tháng ngày lang thang vô tư.

4

Bình minh ló dạng và chàng chăn cừu thúc dục đàn cừu đi về hướng mặt trời. Cậu nghĩ, chúng chẳng bao giờ phải có một quyết định nào, có lẽ vì thế mà chúng luôn luôn ở bên cạnh tôi.

Chỉ có một nhu cầu cần thiết đối với đàn cừu là đồ ăn và nước uống. Bao lâu mà chàng trai còn tìm ra được đồng cỏ ở Andalusia đàn cừu vẫn là bạn của cậu. Vâng, ngày tháng của chúng luôn luôn giống nhau, dường như thời khắc vô hạn giữa bình minh và hoàng hôn; và chúng chẳng bao giờ đọc một cuốn sách, chúng cũng chẳng hiểu những gì chàng trai kể cho chúng nghe về những thắng cảnh trong thành phố. Chúng thỏa mãn với đồ ăn và nước uống, và đổi ngược lại, chúng hào phóng cho lông, cho tình hợp đoàn và – một lần duy nhất trong đời – cho thịt của chúng.

Chàng trai nghĩ: Nếu hôm nay tôi trở thành con quái vật và tôi quyết định giết chúng từng con một, thì chúng chỉ nhận ra được điều đó khi hầu như cả đàn đã bị giết. Chúng tin tưởng vào tôi và chúng quên tin tưởng vào bản năng của mình, bởi vì tôi hướng dẫn chúng đến nơi có lương thực.

Chàng trai ngạc nhiên về suy nghĩ của cậu. Có lẽ ngôi nhà thờ, trong đó có một cây sung mọc lên, đã ám ảnh cậu. Ngôi nhà thờ đó đã tạo cho cậu hai lần có cùng một giấc mơ và gây cho cậu cảm giác giận dữ với đàn cừu trung thành của cậu. Cậu uống một chút rượu còn lại từ bữa ăn tối hôm trước, và cậu kéo chiếc áo khoác chặt hơn vào mình. Cậu biết rằng trong vài giờ nữa, khi mặt trời đứng bóng, sức nóng sẽ mãnh liệt đến nỗi cậu không còn có thể đưa đàn cừu băng qua cánh đồng. Đây là thời điểm mà người Tây Ban Nha thường ngủ trưa trong mùa hè. Sức nóng còn kéo dài đến khi mặt trời lặn, và trong suốt thời gian này cậu vẫn phải mặc áo khoác. Nhưng khi cậu muốn than phiền về gánh nặng của chiếc áo cậu mang trên người, cậu chợt nhớ rằng chính chiếc áo khoác này giúp cậu trải qua cơn lạnh khi mặt trời xuống.

Cậu nghĩ, chúng ta phải chuẩn bị cho những thay đổi và cậu biết ơn về chiếc áo dầy cộm và ấm áp này.

Chiếc áo khoác có một ý nghĩa và chàng trai cũng vậy. Mục đích đời sống của cậu là du hành và sau hai năm lang thang trên miền đất Andalusia, cậu biết tất cả thành phố trong miền. Cậu dự định trong cuộc gặp gỡ sắp tới, cậu sẽ phân trần cho cô gái hiểu tại sao một người chăn cừu bình thường lại có thể đọc. Cậu sẽ kể cậu đã học trong một chủng viện cho đến năm 16 tuổi. Cha mẹ cậu muốn cậu trở thành một linh mục, và đó cũng là niềm hãnh diện cho một gia đình nông dân bình dị. Họ đã làm việc cực nhọc để có cơm bánh và nước uống, giống như những con cừu. Cậu đã học tiếng La Tinh, Tây Ban Nha và thần học. Nhưng ngay từ nhỏ cậu đã muốn biết về thế giới và điều này đối với cậu quan trọng hơn là biết về Thiên chúa và học về tội lỗi của con người. Một buổi chiều, trong dịp thăm gia đình, cậu đã thu hết can đảm để nói với bố rằng cậu không muốn trở thành linh mục. Nhưng cậu mong muốn được du hành.

5

“Con ơi, bao nhiêu người trên thế giới đã đến ngôi làng này,” ông bố nói.  “Họ đến đây với mục đích tìm kiếm điều mới lạ, nhưng khi họ ra về, căn bản họ vẫn là người giống như khi họ đến. Họ trèo lên ngọn núi, tham quan các lâu đài, và họ nghĩ rằng quá khứ tốt đẹp hơn những gì chúng ta đang có hiện nay. Họ có mái tóc bạch kim hay làn da đen, nhưng căn bản họ cũng giống như những người sinh sống ở đây.”

“Nhưng con muốn thăm các lâu đài trong thành phố nơi họ sống,” đứa con giải thích.

“Những người này, khi họ đến mảnh đất của chúng ta, họ nói họ muốn sống mãi nơi đây,” người cha tiếp tục.

“Vâng, con muốn tham quan quê hương của họ và muốn thấy họ sống ra sao,” người con nói.

“Những người đến đây, họ có tiền để chi phí, nên họ có thể du hành,” người cha nói. “Còn đối với chúng ta, cách duy nhất để du hành là trở thành người chăn cừu.”

“Vâng, như vậy con sẽ thành người chăn cừu!”

Ông bố không nói gì nữa. Ngày hôm sau, ông đưa cho đứa con một túi chứa ba đồng tiền vàng Tây Ban Nha cổ.

“Bố tìm thấy những đồng tiền này trong một cánh đồng. Bố muốn dùng chúng như một di sản cho con. Nhưng hãy dùng nó để mua đàn cừu. Hãy mang nó ra đồng và một ngày nào đó con sẽ hiểu rằng nông thôn của chúng ta là nhất và những phụ nữ của chúng ta cũng đẹp nhất.”

Rồi ông chúc lành cho cậu con trai. Chàng trai có thể đọc được trong ánh mắt đăm đăm của cha một ý định đã muốn có thể trở thành chính mình, muốn du hành quanh thế giới – một ý định vẫn sống động, mặc dù cha cậu đã phải cố gắng chôn dấu nó qua hàng chục năm, dưới gánh nặng tranh đấu để có nước uống, có thực phẩm để ăn và có cùng một nơi để ngủ mỗi khi đêm về trong cuộc sống của ông.

6

Bầu trời nhuộm đỏ và bất ngờ mặt trời xuất hiện. Chàng trai nghĩ lại buổi nói chuyện với bố và cảm thấy hạnh phúc; cậu đã từng thăm nhiều lâu đài và gặp gỡ nhiều phụ nữ (nhưng không người nào giống như người đang đợi cậu từ mấy ngày nay). Cậu đang làm chủ một áo khoác, một cuốn sách mà nó có thể đổi lấy một cuốn khác và một đàn cừu. Nhưng quan trọng hơn, mỗi ngày cậu có thể sống điều mà cậu mơ ước. Nếu cậu chán những cánh đồng Andalusia, cậu có thể bán đàn cừu và ra biển. Khi cậu chán biển, cậu có thể thăm các thành phố khác, quen biết các phụ nữ khác và có những cơ hội mới để hạnh phúc. Cậu nghĩ, đi tìm kiếm Thiên Chúa trong chủng viện khó hơn là tìm kiếm Thiên Chúa khi nhìn ngắm bình minh.

Bất cứ khi nào có thể, cậu luôn luôn tìm con đường mới để du hành. Trước đó cậu đã chẳng bao giờ đến ngôi nhà thờ đổ nát đó, mặc dù cậu đã nhiều lần đi qua vùng này. Thế giới to lớn và vô hạn, cậu chỉ cho phép đàn cừu nghỉ ngang đường một lúc, vì cậu muốn khám phá những điều mới lạ khác nữa. Vấn đề là đàn cừu không nhận ra mỗi ngày chúng đi trên những con đường mới. Chúng không nhìn ra cánh đồng mới và thời tiết thay đổi. Tất cả những gì chúng nghĩ là về đồ ăn và nước uống.

Có lẽ tất cả chúng ta cũng giống như vậy, chàng trai nghĩ. Ngay đối với tôi – từ ngày gặp người con gái của ông thương gia, tôi đã chẳng bao giờ nghĩ về người phụ nữ nào khác nữa. Nhìn ánh mặt trời, cậu áng chừng sẽ có thể đến Tarifa trước khi mặt trời đứng bóng. Ở đó cậu có thể đổi cuốn sách lấy một cuốn dầy hơn, đổ đầy bình rượu, cắt tóc và cạo râu; cậu chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với người con gái, và cậu không muốn nghĩ đến tình trạng có thể một vài người chăn cừu khác, có đàn cừu lớn hơn, đã đến đó và đã hỏi nàng làm vợ.

Chàng trai nghĩ, khả năng có thể biến ước mơ thành hiện thực làm cho đời sống thú vị. Khi nhìn ánh mặt trời một lần nữa, cậu vội vàng cất bước. Bất ngờ cậu nhớ ra ở Tarifa có một bà già có thể giải đoán được các giấc mơ.

7

Người đàn bà già dẫn chàng trai vào trong căn phòng đàng sau nhà, được ngăn cách với phòng khách bởi một màn cửa bằng hạt cườm nhiều màu. Vật dụng trong phòng chỉ là một chiếc bàn, một ảnh trái tim Chúa Giê-su và hai chiếc ghế.

Bà lão ngồi xuống, bảo chàng trai ngồi theo. Rồi bà nắm cả hai bàn tay cậu trong tay bà, và bà bắt đầu yên lặng cầu nguyện.

Lời nguyện giống như kinh cầu của dân Di-gan (5). Trên cuộc hành trình chàng trai đã trải qua kinh nghiệm với người Di-gan, họ cũng du hành nhưng không có đàn cừu để chăn. Người ta nói rằng người Di-gan dùng đời sống của họ để lừa đảo người khác. Người ta cũng kể rằng họ có liên minh với quỷ thần, họ bắt cóc trẻ em, đem chúng vào các trại bí mật, huấn luyện chúng thành nô lệ cho họ. Khi còn nhỏ, chàng trai luôn sợ bị người Di-gan bắt cóc, và sự sợ hãi thời thơ ấu này lại trở về khi bà lão nắm tay cậu trong tay bà.

Nhưng bà có hình trái tim Chúa Giêsu ở đây, cậu nghĩ, cố gắng để trấn an mình. Cậu không muốn tay mình run lên, tỏ cho bà già biết nỗi sợ hãi của cậu. Cậu yên lặng đọc kinh ‚Lạy Cha‘.

“Rất thú vị,” bà lão nói và không rời mắt khỏi tay cậu, rồi bà yên lặng.

Dần dần chàng trai cảm thấy lo âu. Tay cậu bắt đầu run, và bà lão cảm thấy điều đó. Cậu vội vàng rút bàn tay ra.

“Cháu đến đây không phải để nhờ bà xem chỉ tay,” cậu nói, một sự hối hận thoáng đến. Cậu chợt nghĩ, mặc dù giấc mơ đối với cậu rất quan trọng, nhưng có lẽ tốt hơn nên trả tiền cho bà ta và ra về dù không biết thêm được gì.

“Cháu đến đây vì muốn hiểu về giấc mơ của cháu,” người đàn bà nói. “Và giấc mơ là ngôn ngữ của Thiên Chúa. Khi Ngài nói bằng ngôn ngữ của chúng ta, bà có thể giải đoán những gì Ngài nói. Nhưng nếu Ngài nói bằng ngôn ngữ của linh hồn, thì điều đó chỉ có mình cháu mới hiểu được. Nhưng dù gì thì bà cũng sẽ thu phí tư vấn.”

Một cách lường gạt khác, chàng trai nghĩ. Nhưng cậu quyết định liều một phen. Một người chăn cừu luôn luôn liều với sói rừng, với hạn hán, và điều đó làm cho cuộc sống chăn cừu thú vị.

“Cháu hai lần có cùng một giấc mơ,” cậu nói. “Cháu mơ rằng cháu ở trong một cánh đồng với đàn cừu của cháu, chợt một đứa bé xuất hiện và chơi với thú vật. Cháu không thích người ta làm điều đó, vì đàn cừu rất sợ người lạ. Nhưng trẻ con dường như luôn luôn có khả năng chơi với thú vật mà không làm chúng sợ. Cháu không biết tại sao. Cháu không biết làm sao thú vật lại biết được tuổi tác của con người.”

“Hãy kể cho bà nghe nhiều hơn về giấc mơ của cháu,” bà lão nói. “Bà còn phải tếp tục nấu ăn, và nếu cháu không có nhiều tiền, bà cũng không thể dành cho cháu nhiều giờ được.”

“Đứa trẻ yên lặng chơi với đàn cừu của cháu một lúc,” chàng chăn cừu tiếp tục kể, một chút ngượng nghịu. “Và bất ngờ đứa trẻ cầm hai tay cháu và dẫn cháu đến Kim Tự Tháp bên Ai Cập.”

Chàng trai ngừng lại một lát để dò xem bà già có biết Kim Tự Tháp ở Ai Cập là gì không. Nhưng bà ta không nói gì.

“Rồi ở Kim Tự Tháp Ai Cập,” – cậu nói những chữ sau cùng chậm rãi để cho bà lão có thể hiểu – “đứa trẻ nói với cháu, ‘Nếu bạn đến đây, bạn sẽ tìm thấy một kho tàng chôn giấu.’ Và vừa khi nó muốn chỉ cho cháu chính xác nơi kho tàng thì cháu thức giấc. Cả hai lần đều như vậy.”

Bà già yên lặng một lúc lâu. Rồi bà lại cầm tay cậu và nghiên cứu nó cẩn thận.

“Bây giờ bà sẽ không thu tiền lệ phí của cháu,” bà nói. “Nhưng bà muốn một phần mười kho tàng, nếu cháu tìm được nó.”

Chàng trai cười to – vì hạnh phúc. Chỉ vì một giấc mơ về một kho tàng chôn giấu, cậu có thể tiết kiệm được số tiền ít ỏi còn lại!

“Vâng, bà hãy giải giấc mơ cho cháu,” cậu bé nói.

“Trước hết hãy thề với tôi. Thề rằng cháu sẽ cho bà một phần mười kho tàng để đổi lại những gì mà bà định nói với cháu.”

Chàng trai thề sẽ làm. Người đàn bà đòi hỏi cậu thề một lần nữa trong khi nhìn vào hình trái tim Chúa Giêsu.

“Đây là một giấc mơ bằng ngôn ngữ của thế giới,” bà ta nói. “Bà có thể giải đoán nó. Nhưng sự giải đoán này rất khó khăn. Vì thế, bà cảm thấy bà xứng đáng nhận được một phần của những gì cháu tìm thấy.”

“Và đây là lời giải đoán của bà: cháu phải đến Kim Tự Tháp bên Ai cập. Bà chẳng bao giờ nghe về chúng, nhưng nếu một đứa trẻ chỉ cho cháu, tháp đó phải có thật. Nơi đó cháu sẽ tìm thấy kho tàng và cháu sẽ giầu có.”

Chàng trai ngạc nhiên và rồi thất vọng. Cậu không cần phải tìm đến bà già này để biết điều đó. Nhưng cậu nhớ lại, cậu chẳng phải trả xu nào.

”Cháu không muốn mất giờ về chuyện đó,” chàng trai nói.

“Bà đã nói giấc mơ của cháu là một giấc mơ khó giải đoán. Một việc đơn giản trong đời sống là chỉ có những người khôn ngoan mới có thể hiểu được những việc phi thường. Vì bà chưa khôn ngoan, bà phải học những nghệ thuật khác, giả xử như việc xem chỉ tay.”

“Vâng, vậy làm sao cháu có thể đến Ai Cập?”

“Bà chỉ có thể giải đoán giấc mơ. Bà không biết cách nào để biến chúng thành hiện thực. Đó là lý do tại sao bà phải hài lòng sống với những gì mà con gái bà cung cấp cho bà.”

Và bà già bảo chàng trai ra về, vì bà đã tốn khá nhiều giờ cho cậu.

8

Vì thế cậu ra về, cậu nhất định sẽ chẳng bao giờ tin vào giấc mơ nữa. Cậu chợt nhớ, cậu còn phải làm nhiều việc nữa: cậu ra chợ mua một số đồ ăn, cậu đổi cuốn sách cũ lấy một cuốn dầy hơn, và cậu tìm thấy một ghế băng trong quảng trường để thử rượu mới mua. Trời nóng nực và rượu làm cậu khoan khoái. Đàn cừu ở trước cổng thành phố, trong một chuồng của người bạn. Chàng trai biết nhiều người trong thành phố. Đó là điều làm cho cuộc sống lữ hành hấp dẫn – cậu luôn luôn quen biết bạn mới, và cậu không phải mất trọn thời gian với họ. Khi mỗi ngày lại nhìn thấy cùng những người ấy, như cậu đã trải qua trong chủng viện, những người đó dần dần sẽ trở thành một phần đời sống của mình. Và khi đó họ muốn người khác thay đổi. Và họ sẽ nổi giận khi nguời khác không thay đổi như ý họ muốn. Mỗi người hầu như đều có một ý tưởng rõ ràng về cách người khác phải sống làm sao, nhưng không ai biết mình phải sống thế nào.

Cậu quyết định chờ mặt trời lặn sâu hơn nữa rồi mới cùng với đàn cừu xuyên qua cánh đồng. Còn ba ngày nữa, cậu sẽ gặp lại người con gái ông thương gia.

Cậu bắt đầu đọc cuốn sách cậu mới mua. Những trang đầu tiên tả về một đám tang. Và tên của những người trong truyện rất khó phát âm. Nếu cậu viết sách, cậu nghĩ, cậu sẽ giới thiệu từng nhân vật một, như vậy độc giả không cần phải nhớ quá nhiều tên.

Sau khi cậu có thể tập trung về những gì cậu đọc, cậu bắt đầu thích cuốn sách hơn: đám tang tổ chức vào một ngày có tuyết, và cậu thích cảm giác lạnh. Vừa khi cậu tiếp tục đọc, một ông già ngồi xuống bên cạnh và tìm cách bắt chuyện với cậu.

“Họ đang làm gì vậy?” ông già chỉ tay vào đám người trong quảng trường và hỏi.

“Làm việc,” đứa bé đáp lại khô khan, làm như nó đang muốn tập trung đọc sách.

Nhưng thực tế, cậu đang nghĩ về việc cắt lông cừu trước mặt người con gái của ông thương gia, qua đó nàng sẽ nhìn thấy cậu có khả năng làm những việc khó khăn. Cậu đã tưởng tượng cảnh này nhiều lần: mỗi lần nàng đều thán phục khi cậu cắt nghĩa phải cắt lông cừu từ sau đến trước. Cậu cũng cố gắng nhớ lại những câu truyện hay thích hợp để kể khi cắt lông cừu. Hầu hết các truyện này cậu đã đọc trong sách, nhưng cậu sẽ kể như là chính cậu đã trải qua. Nàng sẽ chẳng bao giờ biết được sự khác biệt, vì nàng không biết đọc sách.

Trong khi đó, ông già vẫn cố tìm cách bắt chuyện. Ông nói rằng ông mệt và khát nước, và ông xin chàng trai một hớp rượu. Cậu đưa chai rượu cho ông và mong ông để cậu yên.

Nhưng ông già muốn nói chuyện, và ông hỏi cậu đang đọc gì. Chàng trai muốn tỏ ra bất lịch sự, muốn di chuyển sang một băng ghế khác, nhưng bố cậu đã dậy phải tôn trọng người lớn tuổi. Vì thế cậu đưa cho ông già cuốn sách – vì hai lí do: trước hết chính cậu cũng không chắc chắn phải phát âm tựa đề như thế nào, và lí do thứ hai là khi ông già không biết đọc, ông sẽ tự cảm thấy xấu hổ và đi qua một băng ghế khác.

“Hmm…” ông già nói, nhìn mọi phía cuốn sách như nó là một vật lạ lẫm. “Đây là một cuốn sách quan trọng, nhưng nó thật sự nhàm chán.”

Chàng trai sửng sốt. Ông già biết đọc và ông đã đọc cuốn sách này. Và nếu cuốn sách thật sự nhàm chán như ông già nói, cậu vẫn còn thời gian để đổi cuốn khác.

“Nó là một cuốn sách viết về những điều mà hầu hết các sách khác trên thế giới cũng viết,” ông già tiếp tục. “Nó miêu tả con người không có khả năng chọn lựa ‘huyền thoại riêng’ cho chính mình. Và nó kết luận rằng ai cũng tin vào sự lừa dối lớn lao nhất của thế giới.”

9

“Sự lừa dối lớn lao nhất của thế giới là gì?” chàng trai hỏi trong sự tò mò.

“Đó là điều này: vào một thời điểm nhất định trong đời sống, chúng ta không còn kiểm soát được những gì đang xẩy ra cho chúng ta, và vì thế đời sống của chúng ta bị số mệnh đưa đẩy. Đó là sự lừa dối lớn lao nhất của thế giới.”

“Điều đó chẳng bao giờ xẩy ra với cháu,” chàng trai nói. “Họ muốn cháu trở thành linh mục, nhưng cháu quyết định thành người chăn cừu.”

“Thế tốt hơn nhiều,” ông già nói. “Bởi vì cháu thực sự thích du hành.”

“Ông ấy biết những gì mình nghĩ,” chàng trai nói với chính mình. Trong khi đó ông già vẫn lần dở cuốn sách, gần như ông ta không muốn trả lại nó. Chàng trai nhận thấy quần áo của ông khác lạ. Ông giống như người Ả Rập, vẫn thường thấy trong vùng này. Phi Châu chỉ cách Tarifa vài giờ, chỉ cần đi ngang qua một eo biển bằng thuyền. Người Ả Rập thường xuất hiện trong thành phố, mua sắm và hát những lời kinh xa lạ của họ nhiều lần trong ngày.

“Ông từ đâu đến?” chàng trai hỏi.

“Từ nhiều nơi.”

“Không ai có thể đến từ nhiều nơi,” chàng trai nói. “Cháu là một người chăn cừu, cháu đã đến nhiều nơi, nhưng cháu chỉ có thể đến từ một nơi – từ một thành phố gần một lâu đài cổ kính. Đó là nơi cháu được sinh ra.”

“Thế thì tốt, có thể nói là tôi sinh ra ở Salem.”

Chàng trai không biết Salem ở đâu, nhưng cậu không muốn hỏi, sợ sẽ bị coi là thiếu hiểu biết. Cậu ngắm người dân trong quảng trường một lúc lâu; họ đến rồi đi, và hầu như tất cả đang bận rộn.

“Vậy thì Salem trông giống cái gì?” cậu hỏi, cố gắng để tìm ra manh mối.

“Nó giống như nó luôn luôn đã là.”

Không ra đầu mối. Nhưng cậu biết Salem không ở Andalusia. Nếu nó ở đây, có thể cậu đã nghe về nơi ấy.

“Và ông làm gì ở Salem?” cậu giằng co.

“Tôi làm gì ở Salem ư?” Người đàn ông cười. “Vâng, tôi là vua ở Salem.”

Người ta nói những điều lạ lẫm, chàng trai nghĩ. Một đôi khi tốt hơn nên ở với đàn cừu, vì chúng không nói gì. Và tốt hơn một mình với cuốn sách. Sách kể những câu chuyện không thể tưởng tượng được vào thời điểm mà bạn muốn nghe. Nhưng khi bạn nói chuyện với người khác, một đôi khi họ nói những điều xa lạ mà bạn không biết phải tiếp tục cuộc nói chuyện thế nào.

“Tôi tên là Melchizedek,” người đàn ông nói. “Cháu có bao nhiêu con cừu?“

“Đủ,” chàng trai nói. Cậu nhận ra rằng ông già muốn biết thêm về đời sống của cậu.

“Vậy thì chúng ta có vấn đề. Ông không thể giúp cháu nếu cháu cảm thấy đã có đủ cừu rồi.”

Chàng trai bắt đầu bực mình. Cậu chẳng xin ông giúp đỡ. Chính ông là người đã xin rượu và đã bắt đầu câu chuyện.

“Cho cháu xin lại cuốn sách,” chàng trai nói. “Cháu phải đi, phải thu đàn cừu lại và lên đường.”

“Hãy cho ông một phần mười đàn cừu của cháu,” người đàn ông nói, và ông sẽ nói cho cháu cách tìm ra kho tàng chôn giấu.”

Chàng trai nhớ lại giấc mơ, và bất chợt mọi chuyện sáng tỏ đối với cậu. Bà già giải mộng đã chẳng thu của cậu lệ phí gì, nhưng ông già này – có thể ông là chồng của bà già đó – đang tìm cách lấy nhiều tiền để đổi lại những thông tin về những điều chẳng có thật. Ông già này có lẽ cũng là người Di-gan.

Nhưng trước khi chàng trai có thể nói điều gì, người đàn ông đã đứng lên, lấy một cây nhọn và bắt đầu viết trên cát ở quảng trường. Một cái gì đó phản chiếu trên ngực ông ta làm cho chàng trai bị lóe mắt. Với một cử động quá nhanh so với lứa tuổi của ông, ông phủ áo khoác lên che. Khi thị kiến của cậu trở lại bình thường, cậu có thể đọc những gì ông viết trên cát.

Ở đó, trên cát ở quảng trường của thành phố nhỏ đó, chàng trai đọc được tên của bố mẹ cậu, cũng như tên của chủng viện nơi cậu đã theo học. Cậu đọc được tên người con gái ông chủ tiệm mà trước đó cậu không biết, và cậu đọc những điều mà cậu đã chẳng bao giờ nói cho bất cứ ai.

10

“Tôi là vua của Salem,” ông già đã nói.

“Tại sao một vị vua lại nói chuyện với người chăn cừu?” chàng trai hỏi, kinh ngạc và hổ thẹn.

“Có nhiều lí do. Nhưng chúng ta hãy nói về lí do quan trọng nhất là cháu đã thành công trong việc khám phá ra ‘huyền thoại riêng’ (6) của mình.”

Chàng trai không hiểu ‘huyền thoại riêng’ là gì.

“Đó là cái mà cháu luôn luôn muốn đạt được. Mỗi người, khi họ còn trẻ, họ biết ‘huyền thoại riêng’ của họ là gì.

“Vào thời điểm đó trong đời sống của họ, mọi việc đều rõ ràng và mọi việc đều có thể. Họ không sợ hãi để mơ mộng và mong mỏi chờ xem những gì sẽ xẩy ra trong đời sống của họ. Nhưng khi thời điểm này qua đi, một sức mạnh huyền bí sẽ thuyết phục họ rằng họ không thể đạt được ‘huyền thoại riêng’ của mình.”

Những gì người đàn ông nói không thuyết phục cậu cho lắm. Nhưng cậu muốn biết ‘sức mạnh huyền bí’ là gì; người con gái của ông chủ tiệm sẽ kinh ngạc khi cậu kể cho nàng nghe về chuyện đó.

“Nó là một sức mạnh xuất hiện một cách tiêu cực, nhưng thực sự nó chỉ cho cháu cách nhận ra ‘huyền thoại riêng’ của cháu. Nó chuẩn bị tinh thần và ý chí của cháu, vì có một sự thật lớn lao trên mặt địa cầu này: cho dù cháu là ai, hay cháu làm bất cứ điều gì, khi cháu thật sự muốn điều gì, điều đó đã được ước muốn trong linh hồn của thế giới (7). Đó là sứ vụ của cháu trên mặt đất.”

“Ngay cả khi muốn du hành? Hay cưới con gái ông chủ tiệm?”

”Đúng thế, ngay cả khi tìm kiếm kho tàng. Linh hồn của thế giới được nuôi dưỡng bởi niềm hạnh phúc của nhân loại, và ngay cả bởi niềm bất hạnh, ghen tỵ và ganh ghét. Để nhận ra số phận của mình là một nhiệm vụ riêng thực sự. Tất cả mọi sự là một.”

“Và, khi cháu muốn một điều gì đó, cả vũ trụ sẽ chung sức giúp cháu đạt được điều đó.”

Cả hai yên lặng, quan sát quảng trường và người dân thành thị. Ông già cất tiếng trước.

“Tại sao cháu lại là người chăn cừu?”

“Bởi vì cháu thích du hành.”

Người đàn ông chỉ vào một thợ bánh mì đứng trong cửa hàng ở một góc trong quảng trường. “Khi ông ta còn trẻ, ông ta cũng muốn du hành. Nhưng ông ta đã quyết định trước hết mua một tiệm bánh mì và dành dụm tiền. Khi ông ta lớn tuổi, ông dự định sẽ sang Phi Châu một tháng. Ông ta chẳng bao giờ nhận ra rằng, ông ta có thể làm những gì ông ta ước mơ ở mọi thời điểm trong đời sống của ông.

“Ông ta cũng đã có thể quyết định trở thành một người chăn cừu,” đứa trẻ nói.

“Đúng, ông ta cũng đã nghĩ về điều đó,” ông già nói. “Nhưng thợ bánh mì thì quan trọng hơn người chăn cừu. Thợ bánh mì có nhà, trong khi người chăn cừu ngủ ngoài trời. Cha mẹ muốn con gái mình lấy thợ bánh mì hơn là lấy người chăn cừu.”

Chàng trai cảm thấy một nỗi đau trong tim khi nghĩ về người con gái của ông chủ tiệm. Chắc chắn trong thành phố của cô cũng có một thợ bánh mì.

Người đàn ông tiếp tục: “về lâu về dài, những gì con người nghĩ về thợ bánh mì và người chăn cừu trở thành quan trọng với họ hơn là ‘huyền thoại riêng’ của người đó.”

Ông già lật qua cuốn sách và đọc một trang sách ông ta vừa mở. Chàng trai chờ đợi và rồi cậu cũng làm gián đoạn ông như chính ông đã làm gián đoạn cậu. “Tại sao ông lại nói với cháu tất cả điều đó?”

“Bởi vì cháu đang ở trong thời điểm để nhận ra ‘huyền thoại riêng’ của cháu. Và cháu cũng đang ở trong thời điểm để bỏ đi tất cả.”

“Và đó là lý do ông luôn xuất hiện đúng lúc sao?”

“Không luôn luôn qua cách này, nhưng ông luôn xuất hiện qua cách này hoặc qua cách khác. Một đôi khi ông xuất hiện trong hình thức một giải pháp hay một sáng kiến tốt. Vào một lúc nguy cấp khác, ông làm cho sự việc diễn ra dễ dàng hơn. Ông cũng làm nhiều việc nữa, nhưng hầu hết mọi người không nhận ra ông đã thực hiện chúng.”

Ông già kể về một tuần trước đó, ông bị bắt buộc phải xuất hiện trước người thợ mỏ trong hình dáng một viên đá. Người thợ mỏ bỏ rơi mọi việc để đi tìm ngọc bích. Năm năm trời ròng rã ông đã chỉ làm việc trong một con suối và đã khảo sát trăm nghìn hòn đá để tìm kiếm một viên bích ngọc. Người thợ mỏ muốn bỏ cuộc, đúng vào thời điểm, nếu ông khảo sát chỉ một viên đá nữa – chỉ một viên nữa thôi – ông sẽ tìm thấy viên bích ngọc mà ông tìm kiếm. Từ lâu người thợ mỏ đã hài lòng về ‘huyền thoại riêng’ của mình, nên ông già quyết định tham gia. Ông hóa thành viên đá và lăn xuống chân ông thợ mỏ. Người thợ mỏ, vì tức giận và thất vọng sau năm năm làm việc không kết quả, đã nhặt hòn đá và ném đi. Nhưng ông đã ném hòn đá quá mạnh đến nỗi nó phá vỡ hòn đá nó rơi vào, và lộ ra trong hòn đá đó viên bích ngọc hầu như đẹp nhất thế giới.

“Người ta học rất sớm trong đời sống về nguyên do sự hiện hữu của họ,” người đàn ông nói với một chút cay đắng. “Chính vì thế mà họ cũng bỏ cuộc sớm. Nhưng đó là lẽ thường của đời sống.”

Chàng trai nhắc ông rằng họ đang nói chuyện về kho tàng giấu ẩn.

“Sức mạnh của dòng nước làm lộ ra kho tàng, và dòng nước ấy cũng che giấu kho tàng,” ông già nói. “Nếu cháu muốn biết về kho tàng riêng của cháu, cháu phải cho ông một phần mười đàn cừu của cháu.”

“Ông nghĩ sao về một phần mười kho tàng của cháu?”

Ông già nhìn một cách thất vọng. “Nếu cháu bắt đầu bằng lời hứa cái mà cháu bây giờ không có, cháu sẽ mất đi ước muốn làm việc để đạt được nó.”

Chàng trai kể cho ông rằng cậu đã hứa cho một phần mười kho tàng của cậu cho một bà người Di-gan.

“Người Di-gan chờ đợi người khác làm chuyện đó,” ông già thở dài. “Trong bất cứ tình trạng nào, nó luôn là cơ hội cho cháu học rằng mỗi việc trong đời sống đều có cái giá của nó. Đó là cái mà người lính của Ánh sáng cố gắng truyền đạt.”

Ông già đưa trả cuốn sách lại cho chàng trai.

“Ngày mai, cũng vào giờ này, hãy đem cho ông một phần mười đàn cừu của cháu. Và ông sẽ chỉ cho cháu cách tìm kho tàng chôn giấu. Chào cháu.”

Và ông ta biến mất sau khúc quanh của quảng trường.

Chú thích:

(3) Andalusia nằm ở phía nam bán đảo Iberia của Tây Ban Nha, rộng khoảng 87,597 Km2, có 8,44 triệu dân. Vùng này giầu tính văn hóa, trong đó có âm nhạc flamenco, đấu bò và nhiều công trình kiến trúc mang nét văn hóa Moor, Ả rập và Roma.

 

(4) Người Moors: được dùng để gọi cho nhóm người ở Bắc Phi, có nguồn gốc từ Berber, ngày nay gọi là Tunesia, Algeria và Marocco, và nhóm người Âu châu theo Hồi giáo. Những người này đã tham gia trong đoàn quân chinh phục và thống trị bán đảo Iberia gần 800 năm.

 

(5) Di-gan: tiếng Anh gọi là Gypsy, chỉ người Romani hay nhóm người có đời sống du mục.

 

(6) Huyền thoại riêng dịch từ chữ ‘Personal Legend’. Trong phần giới thiệu, tác gỉả đã cắt nghĩa rằng mỗi ngưởi trên trần gian có một tiếng gọi riêng, một con đường riêng mà Thiên Chúa ban cho trên mặt đất này. Những ai theo huyền thoại riêng này sẽ thành người, tìm ra ý nghĩa cuộc đời và đạt được mục đích của cuộc đời mình.

 

(7) Linh hồn của thế giới – The Soul of the World: Trong một cuộc phỏng vấn, tác giả cho rằng mọi vật đều có linh hồn. Mọi vật ở trước mặt chúng ta chính là phần hữu hình của thực tại. Chúng ta còn có phần vô hình của thực tại, thí dụ như cảm xúc, cảm giác.

Trở Về

Tìm Kiếm