NHÀ GIẢ KIM (IItt)

Phần Hai (tt)

12

“Tại sao họ lại làm cho vấn đề trơ nên phức tạp như thế?” một đêm kia chàng trai hỏi chàng trai người Anh. Cậu nhận thấy chàng trai người Anh bối rối.

“Để chỉ những người chịu trách nhiệm về sự hiểu biết mới có thể hiểu nó,” anh ta nói. “Hãy tưởng tượng xem nếu mỗi người đi lang thang rồi biến chì thành vàng. Vàng sẽ mất đi gía trị của nó.

“Chỉ người nào kiên gan và muốn nghiên cứu sâu về vấn đề này mới đạt được ‘công trình chủ’. Đó là lý do tại sao tôi lại đến đây giữa sa mạc. Tôi đang tìm kiếm một nhà giả kim thật sự giúp tôi giải những mật mã.”

“Cuốn sách này được viết khi nào?” chàng trai hỏi.

“Nhiều thế kỷ trước.”

“Thời đó chưa có việc in ấn,” chàng trai tranh luận. “nên không phương tiện để mọi người biết về thuật giả kim được. Tại sao họ lại dùng ngôn ngữ kỳ lạ này với quá nhiều đồ họa?”

Chàng người Anh không trả lời trực tiếp câu hỏi của chàng trai. Anh ta nói rằng mấy ngày qua anh đã quan sát xem đoàn lữ hành di chuyển ra sao, nhưng anh ta không học thêm được gì mới. Chỉ có một điều mà anh nhận thấy là người ta nói nhiều hơn về chiến tranh.

13

Rồi một ngày chàng trai trả chàng người Anh cuốn sách. “Anh có học được gì không?” chàng trai người Anh hỏi, háo hức lắng nghe. Anh ta cần nói chuyện với người khác như để tránh phải nghĩ về chiến tranh có thể sắp bùng nổ.

“Tôi học rằng thế giới có một linh hồn và bất cứ ai hiểu linh hồn đó, cũng có thể hiểu ngôn ngữ của mọi sự vật. Tôi học rằng nhiều nhà giả kim đã đạt đến  ‘huyền thoại riêng’ của họ, và đã khám phá ra linh hồn của thế giới, ‘đá triết học’ và thuốc trường sinh.

“Nhưng trên hết, tôi học rằng tất cả những sự này quá đơn giản đến nỗi chúng có thể được khắc trên bề mặt của viên bích ngọc.”

Chàng người Anh thất vọng. Những năm nghiên cứu, những biểu tượng ma thuật, những chữ lạ và những thiết bị của phòng thí nghiệm… không có gì gây ấn tượng cho chàng trai này. Linh hồn cậu quá chất phác để hiểu những điều này, anh ta nghĩ.

Anh ta lấy lại cuốn sách và cất chúng lại trong túi.

“Hãy trở về quan sát đoàn lữ hành đi,” anh ta nói. “Điều đó chẳng dậy tôi chút gì cả.”

Chàng trai trở lại ngắm nhìn sự yên lặng của sa mạc và bụi cát do thú vật làm tung lên. “Mỗi người có cách học riêng,” cậu tự nghĩ. “Cách của anh ta không là cách của tôi, và cách của tôi không giống như cách của anh ấy. Nhưng cả hai chúng tôi đều đi tìm ‘huyền thoại riêng’, và vì thế tôi tôn trọng anh ta.

14

Đoàn lữ hành bắt đầu di chuyển cả ngày lẫn đêm. Người Bedouins che mặt xuất hiện thường hơn, và người phu lạc đà – người đã trở thành bạn thân của chàng trai – giải thích rằng chiến tranh đã bắt đầu xẩy ra giữa các bộ lạc. Nếu đến được ốc đảo sẽ là một may mắn lớn cho đoàn.

Thú vật thở dốc vì mệt mỏi, và người ít nói chuyện với nhau hơn. Sự yên lặng trong đêm đáng sợ hãi, ngay cả tiếng kêu của con lạc đà – trước đây là chuyện bình thường –nhưng bây giờ cũng làm mọi người lo âu, vì nó có thể là biểu hiệu của cuộc đột kích.

Người phu lạc đà dường như chẳng quan tâm gì đến mối đe dọa của chiến tranh.

“Tôi vẫn sống,” ông ta nói với chàng trai khi họ cùng ăn một chùm chà là vào một đêm không có lửa và không có trăng. “Khi tôi ăn, tôi chỉ nghĩ về ăn. Khi tôi đi, tôi tập trung vào đi. Nếu tôi phải chiến đấu, thì ngày tôi chết cũng đẹp như những ngày khác.

“Bởi vì tôi không sống trong quá khứ, cũng không sống trong tương lai. Tôi chỉ quan tâm đến hiện tại. Nếu bạn luôn luôn có thể sống trong hiện tại, bạn sẽ là người hạnh phúc. Bạn sẽ nhìn thấy sa mạc sống động, vòm trời đầy sao và các bộ lạc đánh nhau vì họ là một phần của chủng tộc nhân loại. Đới với bạn đời sống sẽ là một ngày hội, một buổi lễ lớn, vì đời sống là giây phút hiện tại chúng ta đang sống.”

Hai đêm sau, khi chàng trai chuẩn bị ngủ, cậu ngước nhìn vì sao đã dẫn đường cho họ hàng đêm. Cậu nhận thấy dường như chân trời có vẻ thấp hơn mọi khi, bởi vì cậu có thể nhìn thấy những vì sao trên chính sa mạc.

“Đó là ốc đảo,” người phu lạc đà nói.

“Vậy tại sao chúng ta không đi đến đó đêm nay?” chàng trai hỏi.

“Bởi vì chúng ta phải ngủ.”

15

Chàng trai thức giấc khi mặt trời mọc. Đó, trước mặt chàng, nơi có hàng ngàn vì sao đêm trước, là hàng cây chà là dài vô tận, bao phủ cả vùng sa mạc.

“Chúng ta đã đến nơi,” chàng người Anh nói. Anh ta cũng thức dậy sớm.

Nhưng chàng trai im lặng. Cậu đã quen với sự yên lặng của sa mạc và thích ngắm nhìn hàng cây. Cậu vẫn còn một đoạn đường dài để đến Kim tự tháp, và một ngày nào đó buổi sáng hôm nay chỉ còn là một kỷ niệm. Nhưng đây là giây phút hiện tại – ngày hội mà người phu lạc đà đã nhắc đến – và cậu muốn sống giờ phút này, cũng như cậu đã chu toàn trách nhiệm trong quá khứ và ước mơ về tương lai. Mặc dù viễn tượng về cây chà là một ngày kia chỉ còn là kỷ niệm, nhưng bây giờ nó biểu hiệu bóng mát, nước và nơi trú ẩn tránh chiến tranh. Hôm qua, tiếng lạc đà kêu là tín hiệu của nguy hiểm, và bây giờ hàng cây chà là có thể báo hiệu một phép mầu.

“Thế giới nói nhiều ngôn ngữ,” chàng trai nghĩ.

16

“Thời gian đi qua nhanh, đoàn lữ hành cũng vậy,” nhà giả kim nghĩ khi ông ngắm nhìn hàng trăm người và thú vật tiến vào ốc đảo. Dân chúng reo hò về đoàn người mới tới, bụi bay che lấp ánh mặt trời sa mạc và những đứa trẻ của ốc đảo phấn khởi về những người sa lạ mới tới. Nhà giả kim nhìn thấy ông trưởng bộ lạc chào trưởng đoàn lữ hành và hai người trò chuyện hồi lâu với nhau.

Nhưng nhà giả kim không quan tâm lắm đến việc đó. Ông đã thấy nhiều người đến rồi đi, và sa mạc vẫn như xưa. Ông đã thấy vua chúa và người ăn xin đi qua sa mạc cát này. Cồn cát luôn thay đổi vì gió thổi, nhưng hạt cát vẫn là những hạt cát mà ông biết từ thời niên thiếu. Ông lây niềm vui khi nhìn thấy niềm hạnh phúc mà người lữ hành đạt được, ví sau nhiều tuần lễ chỉ thấy cát vàng và trời xanh, nay họ lại nhìn thấy màu xanh của cây chà là. “Có lẽ Thiên Chúa dựng nên sa mạc để cho con người biết quý trọng cây chà là hơn,” ông nghĩ.

Ông quyết định chú tâm vào một việc cụ thể hơn. Ông biết trong đoàn lữ hành có một người mà ông có thể truyền đạt một vài bí ẩn của ông. Những điềm đã báo cho ông như vậy. Ông không biết người đó, nhưng đôi mắt thực tiễn của ông sẽ nhận ra khi người đó xuất hiện. Ông hy vọng rằng người này cũng có khả năng như người học việc trước.

“Tôi không hiểu tại sao những việc này lại phải truyền lại cho nhau bằng miệng,” ông ta nghĩ. Chúng không thật sự là những bí mật; Thiên chúa mặc khải những điều này cho các tạo vật một cách phong phú.

Ông chỉ có một lý giải duy nhất cho sự việc này: những việc này phải truyền lại theo cách lối này vì chúng được hình thành từ đời sống thuần túy, và cách sống này không thể diễn đạt qua hình ảnh và từ ngữ.

Bởi vì con người dễ bị hình ảnh và ngôn từ lôi cuốn, đến nỗi dễ quên, không còn chú ý đến ngôn ngữ của thế giới.

17

Chàng trai không tin được những gì cậu nhìn thấy: Ốc đảo, hơn là một nguồn nước có những cây dừa bao quanh – như chàng đã được nhìn thấy trong một sách địa lý – mà còn lớn hơn nhiều làng mạc ở Tây ban nha. Ở đó có ba trăm giếng nước, năm mươi ngàn cây chà là, và vô số lều nhiều màu.

“Ốc đảo giống như trong truyện Một ngàn lẻ một đêm,” chàng người Anh nói, lòng bồn chồn muốn gặp nhà giả kim.

Những đứa trẻ bao quanh họ, tò mò nhìn đoàn người và vật mới đến. Đàn ông trong ốc đảo tò mò hỏi xem đoàn lữ hành có gặp chiến tranh xẩy ra không. Trong khi đó các bà chen lấn nhau vào đám quần áo và đá quý do các thương gia mới đem đến. Sự yên lặng của sa mạc giờ chỉ còn là một giấc mơ xa vời; những người lữ hành nói không ngừng, cười và hò hét như thể họ từ thế giới tâm linh được trở về thế giới của con người. Họ được giải thoát và hạnh phúc.

Mặc dù trước đó họ đã được cảnh báo phải đề phòng trong sa mạc, nhưng người phu lạc đà cắt nghĩa cho chàng trai biết rằng ốc đảo luôn luôn được coi như vùng đất trung lập, bởi vì đa số dân cư trong đó là đàn bà và trẻ em. Xuyên qua sa mạc có nhiều ốc đảo, nhưng các bộ lạc chiến đấu trong sa mạc, để lại ốc đảo như nơi trú ẩn.

Trưởng đoàn phải vất vả lắm mới quy tụ những người lữ hành lại với nhau để loan báo cho họ những chỉ dẫn. Đoàn sẽ lưu trú lại ốc đảo cho đến khi cuộc xung đột giữa các bộ lạc chấm dứt. Vì họ là khách thăm viếng, nên họ phải ở chung với người dân sống ở đó và sẽ được dành cho chỗ ở tốt nhất. Đó là thói quen của lòng hiếu khách. Rồi ông yêu cầu mọi người, kể cả lính gác của ông, trao vũ khí của mình cho người mà trưởng bộ lạc chỉ định.

“Đây là luật của chiến tranh,” trưởng đoàn giải thích. “Ốc đảo không được chứa quân đội hay nhóm binh sĩ nào cả.”

Chàng trai ngạc nhiên khi thấy chàng người Anh lấy từ túi ra cây súng mạ crom và trao cho người đi thu thập súng đạn.

“Tại sao anh lại cần súng?” chàng trai hỏi.

“Nó giúp tôi tin tưởng vào người khác,” chàng người Anh trả lời. Anh ta vui vẻ vì đã đến được đích.

Trong khi đó chàng trai nghĩ về kho tàng. Sự thành tựu của giấc mơ càng gần, sự việc lại trở thành phức tạp hơn. Dường như những gì ông vua già gọi là cái may mắn cho người mới bắt đầu không còn giá trị nữa. Trên đường theo đuổi giấc mơ, cậu sẽ luôn bị thử thách về lòng kiên trì và can đảm. Vì thế cậu không thể vội vàng hay sốt ruột được. Nếu cậu bốc đồng tiến về phía trước, cậu sẽ không nhìn thấy dấu hiệu và điềm của Thiên Chúa trên con đường đi.

“Thiên Chúa đặt chúng dọc con đường tôi đi,” cậu ngạc nhiên với ý nghĩ đó. Cho tới nay cậu vẫn coi điềm là cái gì đó thuộc về thế giới tự nhiên, giống như ăn và ngủ, hay giống như việc theo đuổi tình yêu hay tìm kiếm việc làm. Cậu chưa bao giờ nghĩ chúng thuộc về ngôn ngữ được Thiên Chúa dùng để biểu lộ điều ngài muốn thực hiện.

“Đừng nóng nảy!” cậu nhắc nhở lòng mình. “Giống như người phu lạc đà đã nói: ‘Ăn khi đến lúc ăn. Và đi khi đến lúc phải đi.'”

Ngày đầu tiên mọi người ngủ ngon vì mệt mỏi, ngay cả chàng người Anh. Chàng thanh niên được chỉ định một chỗ xa bạn cậu, trong một căn lều với năm thanh niên khác bằng tuổi cậu. Họ là những người của sa mạc và thích nghe những câu chuyện về các thành phố lớn.

Chàng trai kể cho họ về đời sống chăn cừu của cậu và vừa khi cậu kể về những kinh nghiệm của cậu ở trong tiệm bán pha lê thì chàng người Anh bước vào trong lều.

“Tôi đã tìm anh cả buổi sáng,” anh ta nói khi dẫn chàng trai ra ngoài. “Tôi cần anh giúp đỡ để tìm ra nơi người giả kim đang sống.”

Trước hết hai người muốn tự đi tìm lấy. Một nhà giả kim có lẽ phải sống khác với những người dân ở ốc đảo, và lò lửa trong lều của ông sẽ chẳng ngừng cháy. Họ đi tìm khắp nơi và nhận ra rằng ốc đảo lớn hơn họ tưởng tượng: có hàng trăm cái lều.

“Chúng ta đã mất gần hết một ngày rồi,” chàng người Anh nói, ngồi xuống cùng chàng trai bên cạnh một cái giếng.

“Có lẽ tốt hơn chúng ta nên hỏi người khác,” chàng trai đề nghị.

Chàng người Anh do dự vì anh ta không muốn kể cho người khác về lý do anh ta đến ốc đảo này. Nhưng sau cùng, anh ta cũng đồng ý cho chàng trai, người nói tiếng Ả rập giỏi hơn, hỏi chuyện đó. Cậu đến gần một bà bên giếng nước đang lấy nước cho vào chiếc túi da dê.

“Chào bà. Tôi muốn tìm nhà giả kim đang sống trong ốc đảo này.”

Người đàn bà nói, bà chẳng bao giờ nghe về một người như thế và vội vã bỏ đi ngay. Nhưng trước khi bà đi, bà khuyên chàng trai đừng nên nói chuyện với phụ nữ mặc quần áo đen, bởi vì đó là những người đã có chồng. Cậu nên tôn trọng truyền thống đó.

Chàng người Anh thất vọng. Dường như chuyến du hành dài của anh thành vô ích. Chàng trai cũng buồn; dù sao bạn anh cũng đang theo đuổi ‘huyền thoại riêng’. Và, khi một người theo đuổi ‘huyền thoại riêng’, toàn thể vũ trụ sẽ hợp nhau lại giúp họ thành công – ông vua già đã nói như thế. Ông ta không thể sai lầm.

“Trước đây tôi đã chẳng bao giờ nghe nói về nhà giả kim,” chàng trai nói. “Có lẽ những người ở đây cũng chưa nghe nói về ông ta.”

Mắt chàng người Anh sáng lên. “Phải rồi! Có thể ở đây không ai biết nhà giả kim là gì! Hãy tìm ra ai là người ở đây có thể chữa lành bệnh tật.”

Nhiều phụ nữ có trang phục màu đen ra giếng lấy nước, nhưng chàng trai không nói chuyện với người nào trong nhóm họ, mặc dù chàng người Anh hối thúc. Rồi một người đàn ông xuất hiện.

“Ông có biết ở đây ai chữa được các bệnh tật không?” chàng trai hỏi.

“Allah chữa mọi bệnh tật,” người đàn ông nói, rõ ràng ông hoảng sợ trước người lạ. “Các anh đang muốn tìm thầy thuốc phù thủy.” Ông ta đọc vài câu kinh Koran và bỏ đi.

Một người đàn ông nữa xuất hiện. Ông ta già hơn và chỉ xách một chiếc xô nhỏ. Chàng trai lập lại câu hỏi.

“Tại sao các anh lại tìm người như thế?” ông Ả rập hỏi.

“Bởi vì bạn tôi đã du hành nhiều tháng trời hầu mong gặp ông ấy,” chàng trai nói.

“Nếu có một người như thế sống ở ốc đảo này, người đó phải là người rất thế lực,” ông già nói sau một lúc suy nghĩ. “Ngay cả trưởng bộ lạc cũng không có thể cho gọi người ấy đến. Ông ta chỉ đến khi nào ông ta tự ý muốn đến thôi. Hãy đợi chiến tranh chấm dứt, rồi cùng đi với đoàn lữ hành. Đừng nên xen vào đời sống của ốc đảo,” ông ta kết luận trước khi đi.

Nhưng chàng người Anh lại vui mừng. Họ tìm ra dấu vết rồi.

Sau cùng một phụ nữ trẻ không mặc trang phục màu đen xuất hiện. Cô vác một bình đựng nước trên vai, cô đội khăn trên đầu nhưng không che mặt. Chàng trai đến gần và hỏi về nhà giả kim.

Lúc đó, thời gian đối với cậu dường như ngừng lại và tâm linh vũ trụ nổi sóng trong cậu. Khi cậu nhìn vào đôi mắt đen của người con gái, và nhìn đôi môi của cô ngần ngại giữa mỉm cười và nín lặng, cậu hiểu được phần quan trọng nhất của ngôn ngữ mà tất cả thế giới nói – ngôn ngữ mà mỗi người trên mặt đất có thể hiểu trong tim họ. Đó là tình yêu. Một động lực có trước nhân loại, xưa hơn sa mạc, nhưng luôn luôn chỗi dậy với cùng một sức mạnh ở bất cứ nơi đâu hai đôi mắt gặp nhau, như hai đôi mắt đang gặp nhau ở đây bên bờ giếng. Cô ta mỉm cười, và chắc chắn đó là một điềm – một điềm mà, mặc dù trước đó không biết gì về nó, cậu đã chờ đợi từ lâu trong đời sống. Cái điềm cậu đã tìm kiếm bên đàn cừu, trong sách vở, trong tiệm pha lê và trong yên lặng của sa mạc.

Đó là ngôn ngữ tinh ròng nhất của thế giới. Nó không cần lời giải thích, cũng như vũ trụ không cần gì mà vẫn tiếp tục chuyển động xuyên qua thời gian vô tận. Tất cả những gì chàng trai cảm thấy lúc đó là cậu đang đứng trước người phụ nữ duy nhất trong đời cậu, và sự cảm nhận đó không cần đến ngôn ngữ; cô ta cũng cùng cảm thấy như vậy. Cậu chắc chắn về điều đó hơn bất cứ điều gì khác trong thế giới. Ngay cả cha mẹ và ông bà cậu nói rằng cậu phải yêu một người, và thật sự biết rõ về người đó trước khi lấy họ. Nhưng có lẽ ai nghĩ như vậy, người đó đã chẳng biết về ngôn ngữ của vũ trụ. Bởi vì khi bạn hiểu ngôn ngữ đó, bạn dễ hiểu rằng trong thế giới có một người chờ đợi bạn, có thể giữa sa mạc hay trong một thành phố lớn. Và khi hai người này gặp nhau và mắt họ nhìn nhau thì quá khứ và tương lai không còn quan trọng. Chỉ còn có khoảnh khắc này và niềm tin không thể tưởng tượng được là mọi sự dưới bầu trời đã được viết bởi một bàn tay. Chính bàn tay này đã gợi lên tình yêu và đã tạo nên một linh hồn sinh đôi cho mỗi người trong thế giới. Không có tình yêu này, giấc mơ của con người sẽ không có ý nghĩa.

“Maktub,” chàng trai nghĩ.

Chàng trai người Anh lay chàng trai: “Tiếp tục đi chứ, hãy hỏi cô ấy ngay đi!”

Chàng trai bước đến gần cô gái và khi cô mỉm cười, chàng cũng mỉm cười theo.

“Cô tên gì?” chàng trai hỏi.

“Fatima,” cô nói, quay mắt đi chỗ khác.

“Một vài phụ nữ trong nước tôi cũng có tên như vậy.”

“Đó là tên người con gái của vị Tiên Tri,” Fatima nói. “người xâm lược đã mang tên đó đi khắp nơi.” Cô gái xinh đẹp nói về người xâm lược với niềm hãnh diện.

Chàng người Anh thúc dục chàng thanh niên. Cậu hỏi cô gái về người đàn ông chữa các bệnh tật.

“Đó là người đàn ông biết mọi bí mật của thế giới,” cô nói. “Ông ta giao thiệp với các thần linh của sa mạc.”

Thần linh là thần của tốt và xấu. Cô gái chỉ về hướng nam, cho biết người đàn ông lạ đang sống ở đó. Rồi cô lấy đầy bình nước và ra về.

Chàng người Anh cũng biến mất, anh đi tìm người giả kim. Chàng trai ngồi bên giếng nước một hồi lâu, nhớ lại một ngày ở Tarifa, ngọn gió Levanter đã đem đến cho cậu mùi hương của người con gái đó, và nhận ra rằng cậu đã yêu cô trước khi cậu biết cô hiện diện trên trần gian. Cậu biết rằng tình yêu cậu dành cho cô sẽ cho cậu nghị lực để cậu khám phá mọi kho tàng trên thế giới.

18

Ngày hôm sau, chàng trai trở lại giếng nước với hy vọng gặp lại cô gái. Chàng ngạc nhiên, vì chàng người Anh đang ngồi ở đó, nhìn vào sa mạc.

“Tôi đã chờ cả buổi chiều rồi suốt buổi tối,” chàng người Anh kể. “Ông ta xuất hiện vào lúc những vì sao đêm đầu tiên ló dạng. Tôi nói với ông điều tôi đang tìm và ông ta hỏi tôi đã có bao giờ biến chì thành vàng chưa. Tôi nói rằng đó chính là cái mà tôi muốn đến đây học.

“Hãy thử làm như vậy đi.” Đó là tất cả những gì ông ta nói: ‘Hãy về và thử đi.'”

Chàng trai không nói gì. Chàng người Anh tội nghiệp này đã du hành cả một đoạn đường dài để được một lời khuyên là hãy lập lại cái mà anh đã nhiều lần làm.

“Vậy, thử đi xem sao,” cậu nói với chàng người Anh.

“Tôi đang định làm điều đó,” chàng người Anh trả lời. “Tôi sẽ bắt đầu ngay bây giờ.”

Khi chàng người Anh đi khỏi thì Fatima đến lấy nước.

“Anh đến đây để muốn nói với em một điều,” cậu nói. “Anh muốn cưới em làm vợ. Anh yêu em.”

Cô gái đánh rơi chiếc bình, nước đổ tràn ra.

“Anh định chờ em mỗi ngày ở đây. Anh đã vượt qua sa mạc để tìm kiếm một kho tàng nằm giấu ẩn đâu đó gần Kim tự tháp, và đối với anh, chiến tranh đáng nguyền rủa. Nhưng bây giờ nó lại là một phúc lành, vì nó đem em đến với anh.”

”Một ngày nào đó chiến tranh sẽ chấm dứt,” cô nói.

Chàng trai nhìn hàng cây chà là xung quanh mình. Cậu nhắc lại trong lòng là cậu đã là một chàng chăn cừu và cậu có thể trở lại nghề chăn cừu. Fatima đối với cậu còn quan trọng hơn là kho tàng.

“Các đàn ông trong bộ lạc luôn đi tìm kho tàng,” cô nói, như đoán được những gì chàng trai nghĩ. “Và phụ nữ của sa mạc hãnh diện về đàn ông của họ.”

Cô ta lại đổ đầy nước vào bình rồi ra về.

Mỗi ngày chàng trai đến giếng để gặp Fatima. Cậu kể cho cô nghe về đời sống chăn cừu của cậu, về ông vua và về tiệm bán pha lê. Họ trở thành thân thiết, và ngoại trừ mười năm phút cậu được ở bên cô, thời gian còn lại trong ngày dường như ngừng trôi. Khi cậu đã ở ốc đảo được gần một tháng, trưởng đoàn lữ hành triệu tập tất cả thành viên trong đoàn lại.

“Chúng ta không biết bao giờ chiến tranh mới chấm dứt, vì thế chúng ta không thể tiếp tục đi được,” ông ta thông báo. “Cuộc chiến còn kéo dài, có thể cả năm nữa. Lực lượng hai bên mạnh mẽ, chiến tranh đối với quân đội hai bên đều quan trọng. Đây không phải là cuộc chiến của cái tốt chống lại cái xấu. Nó là một cuộc chiến giữa các lực lượng để tranh dành quyền lực, và khi cuộc chiến này bắt đầu, nó thường kéo dài hơn – vì Allah đứng về cả hai phía.”

Mọi người trở về nơi họ sống và chàng trai đi gặp Fatima chiều hôm đó. Cậu kể cho cô về buổi họp ban sáng.

“Một ngày sau khi chúng ta gặp nhau,” Fatima nói, “Anh đã nói với em là anh yêu em. Rồi anh dậy cho em một chút về ngôn ngữ của vũ trụ và linh hồn của thế giới. Vì thế, em đã trở thành một phần của anh.”

Chàng trai nghe giọng cô nói, và nghĩ giọng nói đó còn đẹp hơn âm thanh của gió thổi giữa hàng cây chà là.

“Em đã chờ anh từ lâu trong ốc đảo này. Em đã quên quá khứ, quên truyền thống và quên cách cư xử mà người đàn ông sa mạc chờ đợi nơi phụ nữ của họ. Ngay cả khi em còn nhỏ, em mơ rằng sa mạc sẽ đêm đến cho em một món quà tuyệt vời. Bây giờ món quà đó đã đến, và món quà đó chính là anh.”

Chàng trai muốn cầm lấy tay cô, nhưng tay cô đang giữ quai bình.

“Anh đã kể cho em về những giấc mơ của anh, về ông vua già và về kho tàng. Và anh cũng đã kể về điềm. Vì thế, bây giờ em không sợ gì nữa, bởi vì chính những điềm này đã đem anh đến với em. Và em là một phần giấc mơ của anh, một phần ‘huyền thoại riêng’ của anh – như anh gọi nó.

“Chính vì thế em muốn anh tiếp tục tiến về mục đích của anh. Nếu anh phải đợi cho đến khi chiến tranh chấm dứt thì anh cứ đợi. Nhưng nếu anh phải đi trước đó, thì anh cứ đi theo đuổi giấc mơ của anh. Các dải cát thay đổi theo từng cơn gió, nhưng sa mạc chẳng bao giờ thay đổi. Tình yêu của chúng ta dành cho nhau cũng giống như vậy.

“Maktub,” cô nói. “Nếu em thực sự là một phần giấc mơ của anh, một ngày nào đó anh sẽ trở về.”

Hôm đó, sau khi từ giã, chàng trai buồn bã. Cậu nghĩ về những người chăn cừu đã lập gia đình mà cậu quen biết. Họ phải khó khăn lắm mới thuyết phục được vợ của họ là họ phải đi đến các đồng cỏ xa. Tình yêu đòi hỏi họ phải ở lại với người họ yêu. Lần gặp sau, cậu sẽ nói với Fatima điều này.

“Sa mạc đã lấy đi nhiều đàn ông của chúng em và nhiều người đã không trở về,” cô nói. “Chúng em biết điều đó và chúng em đã quen. Những người không trở về đã trở thành một phần của mây, một phần của thú vật giấu ẩn trong các khe suối, một phần của nước đến từ mặt đất. Họ trở thành một phần của mọi sự… Họ trở thành tâm linh của vũ trụ.

“Một vài người trở về. Và qua đó những người đàn bà khác cũng vui theo vì họ tin rằng một ngày nào đó chồng họ cũng sẽ trở về như thế. Em thường nhìn họ và ghen tị với niềm vui của họ. Bây giờ em cũng thuộc nhóm đàn bà đó, em sẽ chờ.

“Em là một phụ nữ của sa mạc và em hãnh diện về điều đó. Em muốn chồng em tung hoành tự do như gió làm biến đổi đồi cát. Và nếu em phải, em sẽ chấp nhận sự việc xẩy ra là chồng em trở thành một phần của mây, của thú vật và của nước trong sa mạc.”

Chàng trai đi tìm chàng người Anh. Cậu muốn kể cho anh ta về Fatima. Cậu ngạc nhiên nhìn thấy chàng người Anh đã xây cho mình một cái lò bên cạnh lều. Chiếc lò quái dị, đốt bằng lửa, phía trên có một chiếc bình trong suốt. Khi chàng trai người Anh nhìn chằm chằm vào sa mạc, đôi mắt của anh ta dường như sáng hơn là khi anh ta chăm chú đọc sách.

“Đây là bước đầu của công việc,” anh ta nói. “Tôi phải tách riêng lưu huỳnh ra. Để được thành công, tôi không được sợ thất bại. Sự sợ hãi bị thất bại này đã cản trở tôi thử nghiệm ‘công trình chủ’. Bây giờ tôi có thể bắt đầu với cái mà chính ra tôi đã có thể bắt đầu mười năm về trước. Nhưng tôi vui vì bắt đầu bây giờ còn tốt hơn là phải đợi thêm hai mươi năm nữa.”

Anh ta cho thêm than vào lửa. Chàng trai ở lại với anh ta cho đến khi sa mạc rực đỏ vì ánh chiều tà. Rồi cậu cảm thấy phải cấp bách vào sa mạc, xem sự yên tĩnh của sa mạc có thể trả lời câu hỏi của cậu không.

Cậu lang thang một lúc, nhưng luôn luôn giữ hàng cây chà là của ốc đảo trong tầm mắt. Cậu lắng nghe tiếng gió thổi, cảm nhận những viên đá dưới chân mình. Đây đó cậu thấy những vỏ sò và cậu nhận ra rằng sa mạc, trước đây một thời gian xa, đã là biển. Rồi cậu ngồi xuống trên một tảng đá, thả lòng theo chân trời trải dài trước mặt. Cậu cố gắng hiểu khái niệm về tình yêu, một tình yêu không sở hữu người mình yêu nhưng cũng không xa rời người mình yêu. Nhưng Fatima là người con của sa mạc, và, nếu không gì có thể giúp cậu hiểu, chỉ sa mạc mới giúp cậu hiểu.

Khi chàng trai ngồi trầm ngâm, cậu cảm thấy có gì chuyển động trên đầu. Nhìn lên, cậu thấy cặp chim ưng đang bay lượn trên bầu trời xa. Cậu nhìn đôi chim trôi dạt trong gió. Mặc dù đường bay của chúng không theo mô hình nào, nó vẫn tạo nên một xúc cảm nơi cậu. Nó là một cái gì đó mà cậu không lí giải được. Cậu theo dõi đường bay của chúng, cố gắng đọc ra một điều gì đó chứa ẩn trong đó. Có lẽ những cánh chim sa mạc này có thể cắt nghĩa cho cậu ý nghĩa của một thứ tình yêu: yêu mà không sở hữu người mình yêu.

Cậu buồn ngủ. Trái tim nói cậu phải thức tỉnh, nhưng cậu lại muốn ngủ. “Tôi đã học ngôn ngữ của thế giới, và mọi sự trong thế giới đều tạo cho tôi cảm giác… ngay cả đường bay của những chú chim ưng,” cậu nói với lòng mình. Và, trong tâm trạng đó, cậu vui vì được yêu. “Khi yêu, thậm chí mọi sự đều ý nghĩa hơn,” cậu nghĩ.

Bất ngờ một con chim ưng bổ xuống tấn công con kia. Nhìn cảnh đó, một ảo ảnh thoáng qua đến với chàng trai: một đoàn quân, gươm giáo sẵn sàng, phóng ngựa vào ốc đảo. Thị kiến đó tan nhanh, nhưng nó lay động cậu. Cậu đã nghe kể về ảo ảnh và tự mình cũng đã nhìn thấy: chúng là những điều người ta ước mơ, và bởi vì cường độ của ước mơ này quá mạnh mẽ, chúng trở thành thực trên mặt cát sa mạc. Nhưng cậu chắc chắn rằng cậu không ước mơ một đội quân tấn công vào ốc đảo.

Chàng trai muốn quên đi thị kiến này và trở về với suy tư của cậu. Cậu tập trung vào màu đỏ hồng nhuộm thắm sa mạc và những tảng đá. Nhưng một cái gì đó trong tâm hồn không cho phép cậu làm như vậy.

“Luôn luôn phải quan tâm đến điềm,” ông vua già đã nói. Chàng trai nhớ lại những gì cậu đã thấy trong thị kiến, và linh cảm rằng nó sắp xẩy ra.

Cậu đứng lên, đi về hướng cây chà là. Một lần nữa, cậu nhận thức có nhiều ngôn ngữ trong những sự việc xung quanh cậu: thời gian này, sa mạc an toàn, nhưng ốc đảo lại bất ổn.

Người phu lạc đà ngồi dưới gốc cây chà là, ngắm nhìn hoàng hôn. Ông ta nhận ra chàng trai xuất hiện từ phía bên kia dải cát.

“Một đội quân đang đến,” chàng trai nói. “Tôi có một thị kiến.”

“Sa mạc đổ đầy tâm hồn con người bằng những thị kiến,” người phu lạc đà trả lời.

Nhưng chàng trai kể cho ông ta về đôi chim ưng, rằng cậu đã theo dõi đường bay của chúng và bất thình lình cậu cảm thấy mình như được nhúng vào trong ‘linh hồn của thế giới’.

Người phu lạc đà hiểu những gì chàng trai nói. Ông ta biết rằng mỗi vật trên mặt đất này có thể mặc khải lịch sử của tất cả mọi việc. Một người có thể tình cờ mở đến một trang nào đó trong cuốn sách, hay đọc bàn tay của người khác; một người có thể lật một con bài hay nhìn đường bay của một con chim… bất cứ vật gì được quan sát, người ta có thể tìm ra sự liên hệ với trải nghiệm của họ vào thời điểm đó. Thực ra không phải chính sự vật tiết lộ điều gì cả, nhưng chính là con người, những người, khi quan  sát những sự việc xẩy ra xung quanh họ, đã có thể tìm ra phương tiện thâm nhập vào trong linh hồn thế giới. Trong sa mạc có nhiều người sống bằng khả năng thâm nhập vào linh hồn thế giới. Họ được biết đến như những thầy bói, được các phụ nữ và ông bà già ủng hộ. Các chiến binh của bộ lạc rất thận trọng khi đến xem bói, bởi vì nếu một người biết mình sẽ bỏ mình trong trận chiến, họ sẽ không dám ra trận. Người chiến binh thích hương vị của chiến tranh, và thích sự hồi hộp không biết kết quả cuộc chiến sẽ ra sao; tương lai thì đã được viết bởi Allah và những gì Allah đã viết thì luôn luôn tốt cho con người. Vì thế người chiến binh chỉ sống cho hiện tại, bởi vì hiện tại đầy bất ngờ và họ phải quan tâm đến bao điều: Đâu là lưỡi gươm của quân thù? Đâu là ngựa của chúng? Phải đánh ra đòn nào để thoát chết? Người phu lạc đà không phải là chiến binh, và ông đã đi coi bói. Nhiều người trong số họ nói đúng, nhiều người nói sai. Rồi một ngày kia, ông thầy bói già nhất và cũng được kính nể nhất đã hỏi tại sao người phu lạc đà lại quan tâm đến tương lai.

“Vâng,… để tôi có thể thực hiện một số việc,” ông ta trả lời. “Và để tôi có thể thay đổi những việc mà tôi không muốn chúng xẩy ra.”

“Nhưng như thế thì chúng không còn là một phần tương lai của anh nữa,” ông thầy bói nói.

“Có thể tôi muốn biết về tương lai, vì qua đó tôi có thể chuẩn bị cho những gì sẽ xẩy ra.”

“Nếu những việc tốt sẽ xẩy ra, chúng sẽ là một ngạc nhiên thú vị,” ông thầy bói nói. “Nếu những việc xấu xẩy ra và anh biết trước, anh sẽ đau khổ nhiều ngay cả trước khi chúng xẩy ra.”

“Tôi muốn biết về tương lai bởi vì tôi là một con người,” người phu lạc đà nói với thầy bói. “Và con người luôn luôn sống vì tương lai.”

Thầy bói là một chuyên gia trong việc bói que; ông ném que xuống mặt đất và cắt nghĩa dựa vào cách nó rơi. Ngày hôm đó, ông không bói que. Ông bọc nó trong khăn và đặt chúng lại trong bị.

“Tôi kiếm sống qua việc đoán tương lai cho con người,” ông ta nói. “Tôi biết khoa bói que và tôi biết dùng chúng để thâm nhập vào nơi tất cả đã được viết. Nơi đó tôi có thể đọc được quá khứ, khám phá những gì đã bị quên lãng và hiểu những điềm ở đây trên mặt đất.

“Khi mọi người xin tôi cố vấn, tôi không đọc được tương lai mà chỉ đoán về tương lai. Tương lai thuộc về Thiên Chúa và chỉ mình Thiên Chúa mới mới mặc khải nó trong những hoàn cảnh khác thường. Tôi đoán tương lai ra sao? Dựa trên điềm của hiện tại. Bí mật nằm ở đây trong hiện tại. Nếu anh chú tâm đến hiện tại, anh có thể cải thiện nó. Và nếu anh cải thiện hiện tại, những gì đến sau sẽ tốt hơn. Hãy quên tương lai và hãy sống mỗi ngày theo lời dạy, tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu con của Ngài. Mỗi ngày, trong chính nó, chứa đựng sự vĩnh cửu.”

Người phu lạc đà muốn biết trong hoàn cảnh đặc biệt nào Thiên Chúa mới cho phép ông nhìn thấy tương lai.

“Chỉ khi chính Ngài mặc khải điều đó. Và chỉ có Thiên Chúa mới thực sự có thể mặc khải tương lai. Nếu Ngài làm điều đó, chỉ vì bởi một nguyên do này: Nó là một tương lai đã được viết như là nó còn thay đổi được.

“Thiên Chúa đã chỉ cho chàng trai một phần của tương lai,” người phu lạc đà nghĩ. “Tại sao Ngài lại muốn dùng chàng trai như khí cụ của Ngài?”

“Hãy đi nói với trưởng tộc,” người phu lạc đà nói. “Nói với họ về đội quân đang đến.”

“Họ sẽ cười tôi.”

“Họ là những người của sa mạc, và những người của sa mạc quen với việc giải đoán điềm.”

“Như thế thì có lẽ họ đã biết rồi.”

“Họ không bận tâm đến điều đó đâu. Họ tin rằng nếu Allah muốn cho họ biết điều gì, một người nào đó sẽ nói cho họ về điều đó. Trước đó đã nhiều làn xẩy ra. Nhưng lần này, người đó chính là anh.”

Chàng trai nghĩ về Fatima. Và chàng quyết định sẽ đi gặp trưởng tộc.

19

Chàng trai gặp người lính gác ở cửa chiếc lều trắng to nằm giữa trung tâm ốc đảo.

“Tôi muốn gặp trưởng tộc. Tôi mang đến một điềm từ sa mạc.”

Không trả lời, người lính bước vào lều. Một lúc lâu sau, người lính trở ra với một chàng Ả rập trẻ mặc áo trắng và vàng. Chàng trai nói với chàng Ả rập trẻ kia về những điều chàng đã nhìn thấy, và chàng kia nói cậu đợi rồi lại biến mất vào trong lều.

Đêm xuống, nhiều binh lính và nhiều thương gia ra vào chiếc lều ấy. Dần dần lửa trại tắt dần và ốc đảo lại trở về với yên lặng của sa mạc. Chỉ trong căn lều lớn này là còn ánh lửa. Trong suốt thời gian đó, chàng trai nghĩ về Fatima, và cậu vẫn chưa hiểu được cuộc đối thoại sau cùng với cô.

Sau nhiều giờ chờ đợi, người lính gác bảo cậu vào lều. Cậu kinh ngạc về những điều nhìn thấy bên trong. Chẳng bao giờ cậu có thể tưởng tượng được rằng giữa sa mạc lại có một chiếc lều như thế. Nền nhà được phủ bằng thảm tuyệt đẹp mà chân chàng chưa bao giờ được đặt lên, và từ trên trần treo một chiếc đèn trạm trổ bằng vàng được thắp nến. Các tộc trưởng ngồi vòng cung phía trong lều, trên những chiếc gối lụa thêu. Người hầu ra vào với những khay bằng bạc, đựng đầy đồ ăn và trà. Các người hầu khác tiếp lửa cho những ống điếu hookah. Một mùi thơm ngọt của thuốc lan khắp lều.

Có tám tộc trưởng, nhưng chàng trai có thể nhận ra ngay ai trong số họ là quan trọng: một người Ả rập mặc áo trắng nạm vàng, ngồi ở giữa vòng cung. Bên cạnh ông là chàng trai trẻ mà cậu đã nói chuyện.

“Ai là người lạ muốn kể về điềm?” một người trong các tộc trưởng hỏi, mắt hướng về chàng trai.

“Chính tôi đây!” chàng trai trả lời. Và cậu kể về những gì cậu nhìn thấy.

“Tại sao sa mạc lại tiết lộ những điều như thế cho một người lạ mà không cho chúng tôi là những người đã sống ở đây nhiếu thế hệ?” một trưởng tộc khác nói.

“Bởi vì mắt tôi còn sa lạ với sa mạc,” chàng trai đáp. “Tôi có thể nhìn thấy những điều mà những người đã quá quen với sa mạc không còn thấy nữa.”

“Và bởi vì tôi cũng biết về ‘linh hồn thế giới’,” cậu thầm nghĩ.

“Sa mạc là mảnh đất trung lập. Không ai tấn công vào ốc đảo cả,” một trưởng tộc nữa nói.

“Tôi chỉ kể những gì tôi thấy. Nếu các ông không muốn tin tôi, thì các ông cũng chẳng cần phải làm gì cả.”

Các trưởng tộc tranh luận với nhau sôi nổi. Họ nói bằng thổ ngữ Ả rập mà chàng trai không hiểu. Cậu định đi ra thì người lính gác cửa nói chàng ở lại. Chàng trai sợ hãi; điềm báo cho cậu rằng một điều gì đó không ổn. Cậu hối hận vì đã nói cho người phu lạc đà về những gì cậu thấy trong sa mạc.

Chợt ông già ngồi giữa mỉm miệng cười, khiến cậu cảm thấy an tâm hơn. Ông không tham dự vào cuộc tranh luận, và cho đến thời điểm này, ông chưa nói lời nào. Nhưng chàng trai đã quen với ngôn ngữ của vũ trụ và cậu cảm nhận sự an bình từ ông lan tỏa khắp căn lều. Bây giờ bằng trực giác, cậu biết việc cậu đến đây là đúng.

Cuộc tranh luận kết thúc. Các trưởng tộc im lặng lắng nghe những gì ông già sắp nói. Rồi ông quay sang chàng trai, thái độ của ông lạnh lùng và xa lạ.

“Hai ngàn năm trước trong một đất nước xa xôi, có một người tin vào giấc mơ. Ông bị ném xuống giếng, rồi bị bán làm nô lệ,” ông già nói bằng thổ ngữ mà chàng trai có thể hiểu được. “Các thương gia của chúng tôi đã mua người đàn ông đó và bán ông sang Ai Cập. Chúng tôi đều biết những người tin vào giấc mơ thì cũng biết cách giải đoán giấc mơ.”

Ông già nói tiếp, “khi vua Pharaô mơ thấy những con bò mộng và những con bò gầy, chính ông này đã giải mộng và cứu dân Ai cập khỏi nạn đói. Tên ông này là Giuse. Ông ta cũng là một người lạ trên mảnh đất xa lạ, và có lẽ ông ta cũng bằng tuổi cậu.”

Ông ngừng nói, và đôi mắt ông vẫn lạnh lùng.

“Chúng tôi luôn theo truyền thống. Truyền thống cứu dân Ai cập khỏi nạn đói trong thời gian đó và làm cho họ thành một dân giầu có. Truyền thống dạy con người cách băng qua sa mạc và cách tổ chức hôn lễ cho con cái họ. Truyền thống cũng nói rằng ốc đảo luôn là mảnh đất trung lập, và hai phía đều có ốc đả, nên ốc đảo của cả hai phía cần được bảo vệ.

Không ai xen vào khi ông già nói.

“Nhưng truyền thống cũng dạy là chúng tôi nên tin vào sứ điệp của sa mạc. Mọi điều chúng tôi biết là do sa mạc dạy chúng tôi.”

Ông già ra hiệu và mọi người đứng lên. Cuộc họp chấm dứt. Các ống điếu bị dập tắt và người lính gác đứng vào vị trí. Chàng trai chuẩn bị ra về, nhưng ông già tiếp tục:

“Ngày mai chúng ta sẽ xé bỏ lời thỏa thuận rằng không ai trong ốc đảo được phép mang vũ khí. Suốt ngày mai chúng ta sẽ đề phòng quân địch. Khi mặt trời lặn, mọi người lại nộp vũ khí lại cho ta.

“Cứ mười tên địch bị giết, cậu sẽ được thưởng một đồng tiền vàng. Nhưng vũ khí không được phép lấy ra, trừ khi dùng cho chiến tranh. Vũ khí có tánh bất thường như sa mạc, và nếu lấy ra mà không dùng tới, lần sau nó không còn hữu nghiệm. Cho tới tối mai, nếu không có vũ khí nào được sử dụng, thì ít nhất một vũ khí sẽ được dùng cho cậu.”

20

Khi chàng trai rời lều, ốc đảo chỉ còn được chiếu sáng bởi ánh sáng của trăng rằm. Lều của cậu cách đó khoảng hai mươi phút và cậu lên đường về.

Những gì đang xẩy ra làm cậu lo sợ. Cậu đã có thể thâm nhập vào linh hồn của vũ trụ và bây giờ có thể sẽ phải trả giá cho việc đó bằng chính mạng sống mình. Đó là một cuộc cá cược khủng khiếp. Nhưng cậu đã làm một cuộc đánh cược may rủi khi cậu bán đàn cừu của cậu để theo đuổi ‘huyền thoại riêng’ của mình. Và, như người phu lạc đà nói, chết vào ngày mai thì cũng không xấu hơn là chết vào một ngày khác. Mỗi ngày là để sống hay để từ giã trần gian. Tất cả tùy thuộc vào một chữ: “Maktub”.

Bước đi trong thinh lặng, lòng cậu không ân hận gì. Nếu ngày mai cậu chết, thì đó là vì Thiên Chúa không muốn thay đổi tương lai. Dù cậu có chết thì cũng là chết sau khi đã vượt qua eo biển, sau khi đã làm việc trong tiệm pha lê và đã biết sự yên lặng của sa mạc và đôi mắt của Fatima. Cậu đã sống mỗi ngày trong đời một cách trọn vẹn từ khi cậu rời khỏi gia đình. Nếu ngày mai cậu có phải chết, cậu cũng đã nhìn thấy nhiều hơn những người chăn cừu khác. Và cậu hãnh diện về điều đó.

Bất thình lình cậu nghe một âm thanh như sấm, và cậu bị hất ngã xuống đất bởi một làn gió mạnh mà cậu chưa bao giờ gặp. Cả vùng phủ đầy bụi mù dầy đến nỗi che cả mặt trăng. Trước mặt là một con ngựa trắng khổng lồ, hai vó trước cất cao và hí vang khủng khiếp.

Khi bụi mù đã bớt, cậu hoảng hốt vì những gì cậu thấy. Ngồi trên lưng ngựa là một kị sĩ mặc toàn đồ đen, với một con chim ưng đậu trên vai trái. Ông ta đội khăn và chỉ trừ hai con mắt, ông che kín mặt bằng khăn trùm đầu màu đen. Ông ta xuất hiện như một sứ giả của sa mạc, nhưng sự hiện diện của ông uy quyền hơn các sứ giả nhiều.

Ông hiệp sĩ lạ rút ra từ yên ngựa một thanh kiếm cong. Ánh thép của thanh gươm lấp lánh dưới ánh trăng.

“Ai là người dám giải đoán đường bay của con chim ưng?” ông lớn tiếng hỏi, lời ông như tiếng vang xuyên qua năm ngàn cây chà là của ốc đảo Al-Fayoum.

“Tôi là người đã làm chuyện đó,” chàng trai đáp. Cậu nhớ lại bức hình của Thánh Santiago Matamoros ngồi trên lưng ngựa trắng, dưới chân ngựa là những người không tin. Người đàn ông này trông giống hệt như vậy, ngoại trừ bây giờ vai trò đảo ngược lại.

“Tôi chính là người đã dám làm chuyện đó,” cậu lập lại, cúi đầu nhận nhát kiếm. “Nhiều người sẽ được cứu, bởi vì tôi có thể nhìn xuyên qua linh hồn của thế giới.”

Lưỡi kiếm không buông xuống. Thay vào đó, người kị binh lạ chầm chậm hạ lưỡi kiếm xuống thấp cho đến khi đụng vào trán cậu. Lưỡi kiếm  làm cậu rỉ máu.

Người kị sĩ bất động, và chàng trai cũng vậy. Chàng trai không nghĩ đến chạy trốn. Trong trái tim, cậu thấy một cảm giác lạ của niềm vui: cậu có thể chết vì theo đuổi ‘huyền thoại riêng’ của mình. Và vì Fatima. Sau cùng những điềm đã thành sự thật. Cậu đang ở đây, mặt đối mặt với kẻ thù, nhưng chẳng phải lo lắng về cái chết – linh hồn của thế giới đang chờ đợi cậu, và chẳng bao lâu nữa cậu sẽ là một phần của nó. Và ngày mai, kẻ thù của cậu cũng vậy, cũng trở thành một phần của linh hồn đó.

Người lạ tiếp tục dí đầu gươm vào trán chàng trai. “Tại sao anh đọc đường bay của chim?”

“Tôi chỉ đọc cái mà con chim muốn nói với tôi. Chúng muốn cứu ốc đảo. Ngày mai tất cả các ông sẽ chết, bởi vì ở đó có nhiều lính hơn các ông.”

Ngọn gươm vẫn dí trên đầu chàng trai. “Anh là ai mà dám thay đổi điều Allah đã muốn?”

“Allah đã dựng nên đội quân và cũng dựng nên chim ưng. Allah dạy tôi ngôn ngữ của chim. Mọi sự đã được viết bởi một bàn tay,” chàng trai nói, nhớ lại lời của người phu lạc đà.

Người lạ rút kiếm về và chàng trai thấy như được giải thoát. Nhưng cậu vẫn không có thể trốn chạy.

“Hãy cẩn thận với những gì anh đoán trước,” người lạ nói. “Khi một việc đã được viết, không có cách nào thay đổi nó.”

“Những gì tôi thấy là một đoàn quân,” chàng trai nói. “Tôi không nhìn thấy trận đánh kết thúc ra sao.”

Người lạ có vẻ hài lòng với câu trả lời. Nhưng ông vẫn giữ kiếm trong tay. “Một người lạ đến xứ lạ này làm gì?”

“Tôi đang theo ‘huyền thoại riêng’ của tôi. Nó là cái mà ông không hiểu được.”

Người lạ đút kiếm vào bao. Chàng trai cảm thấy nhẹ người.

“Tôi đã thử sự can đảm của anh,” người lạ nói. “Sự can đảm là phẩm cách  thiết yếu để hiểu ngôn ngữ của thế giới.”

Chàng trai ngạc nhiên. Người lạ đang nói về những điều mà ít người biết.

“Anh không được phép sao nhãng, ngay cả anh đã tiến rất xa,” ông nói. “Anh phải yêu sa mạc, nhưng không nên tin tưởng nó hoàn toàn. Bởi vì sa mạc thử thách con người: nó thách thức mỗi bước chân và giết những người nào vô ý.”

Những gì ông nói khiến cậu nhớ về ông vua già.

“Nếu đoàn quân đến đây và đầu anh chưa rơi vào lúc mặt trời lặn, hãy đến tìm tôi,” người lạ nói.

Bàn tay đã cầm kiếm, bây giờ lại cầm cây roi da. Con ngựa dựng lên, gây nên một đám bụi mù.

“Ông sống ở đâu?” chàng trai la to, khi người kị sĩ phi ngựa đi.

Bàn tay với cây roi da chỉ về hướng nam.

Chàng trai đã gặp người giả kim.

21

Buổi sáng hôm sau, hai ngàn người được trang bị vũ khí đóng rải rác dưới rặng cây chà là ở Al-Fayoum. Trước khi mặt trời đứng bóng, năm trăm chiến binh xuất hiện phía chân trời. Đoàn cưỡi ngựa đi vào ốc đảo từ phía bắc; họ xuất hiện như một cuộc thám hiểm hòa bình, nhưng họ mang theo vũ khí dấu trong áo choàng. Khi họ đến căn lều trắng nằm giữa trung tâm ốc đảo Al-Fayorum, họ rút mã tấu và súng trường. Họ tấn công vào một chiếc lều trống.

Đàn ông của sa mạc bao vây các kị binh và trong một tiếng rưỡi tất cả kẻ xâm nhập bị giết, ngoại trừ một người. Trẻ em được giữ ở phía khác của khu rừng chà là, và không biết những gì xẩy ra. Các phụ nữ ở lại trong lều của họ, cầu nguyện cho chồng họ được bình an và cũng không nhìn thấy gì về trận chiến. Nếu mặt đất không có xác chết, ngày đó có thể như là một ngày bình thường trong ốc đảo.

Một kị binh duy nhất được tha là người chỉ huy của tiểu đoàn. Buổi chiều hôm đó ông được đem đến trước mặt các tù trưởng, ông bị hỏi tại sao ông lại vi phạm truyền thống. Người chỉ huy nói rằng thuộc hạ của ông bị đói khát và mệt mỏi sau nhiều cuộc chiến nên đã quyết định chiếm ốc đảo để có khả năng tiếp tục chiến đấu.

Ông tù trưởng nói ông lấy làm tiếc cho người kị binh, nhưng truyền thống bất khả xâm phạm. Ông truyền lệnh tử hình vị chỉ huy. Không bị giết bởi gươm hay đạn, ông sẽ bị treo ở một cây chà là khô. Thân xác ông ta lung lay trong gió sa mạc.

Ông trưởng tộc gọi chàng trai đến và tặng cậu năm mươi miếng vàng. Ông ta nhắc lại câu chuyện về Giuse ở Ai cập, và đặt cậu làm cố vấn cho ốc đảo.

22

Khi mặt trời đã lặn và những ngôi sao đầu tiên xuất hiện, chàng trai bắt đầu đi về hướng nam. Sau cùng cậu nhìn thấy một căn lều duy nhất và một nhóm người Ả rập đi ngang qua nói rằng nơi đây chỉ có thần linh thôi. Nhưng chàng trai ngồi xuống và đợi.

Đến khi mặt trăng đã lên cao, bóng nhà giả kim trên lưng ngựa mới xuất hiện. Ông đeo hai con chim ưng đã chết trên vai.

“Cháu đang ở đây,” chàng trai nói.

“Cháu không nên đến đây,” nhà giả kim trả lời. “Hay ‘huyền thoại riêng’ đã đem cháu đến đây?”

“Chiến tranh xẩy ra giữa các bộ lạc, nên người ta không thể băng qua sa mạc được. Vì thế cháu đã đến đây.”

Nhà giả kim xuống ngựa và ra hiệu cho chàng trai theo ông vào lều. Nó chỉ là một chiếc lều bình thường giống như nhiều lều khác trong ốc đảo. Mắt cậu lướt quanh lều, tìm kiếm lò nấu và những trang bị dùng cho thuật giả kim nhưng không thấy. Chỉ có đống sách, một bếp nấu nhỏ và một tấm thảm đầy những hình vẽ bí ẩn.

“Hãy ngồi xuống. Chúng ta uống một chút và ăn thịt chim ưng này,” nhà giả kim nói.

Chàng trai đoán chừng những con chim này chính là những chim ưng mà cậu thấy hôm trước, nhưng cậu không nói gì. Nhà giả kim bật lửa, và chẳng bao lâu sau một mùi thơm lan tỏa khắp căn lều. Mùi thơm này dễ chịu hơn nhiều so với mùi của thuốc điếu.

“Tại sao ông lại muốn gặp cháu?” chàng trai hỏi.

“Vì điềm,” nhà giả kim trả lời. “Gió đã nói với ông là cháu sẽ đến, và cháu cần sự giúp đỡ.”

“Gió không nói về cháu đâu. Gió nói về chàng ngoại quốc khác, chàng người Anh. Anh ta mới là người đi tìm ông.”

“Trước hết cậu ấy phải làm một số việc đã. Nhưng cậu ấy đang đi đúng đường. Cậu ấy đã cố gắng hiểu sa mạc.”

“Còn cháu thì sao?”

“Khi một người thật sự muốn điều gì thì cả vũ trụ hợp nhau giúp người đó thực hiện giấc mơ của họ,” nhà giả kim nói, lập lại những lời của ông vua già. Chàng trai hiểu. Người khác lại có mặt ở đây để giúp cậu tiến đến gần ‘huyền thoại riêng’ của cậu.

“Vì thế ông sẽ dạy cháu chứ?”

“Không, cháu đã biết tất cả những gì cháu cần phải biết. Ông chỉ muốn chỉ cho cháu hướng đến kho tàng của cháu.”

“Nhưng ở đó có chiến tranh,” cậu phản đối.

“Ông biết những gì đang xẩy ra trong sa mạc.”

“Cháu đã tìm thấy kho tàng của cháu. Cháu có con lạc đà, có tiền dành dụm từ khi làm ở tiệm bán pha lê và năm mươi đồng tiền vàng vừa được thưởng. Trên quê hương cháu, cháu sẽ là người giầu có.”

“Nhưng trong số ấy không có gì là của Kim tự tháp,” người giả kim nói.

“Cháu còn có Fatima. Cô ta là một kho tàng quý giá hơn bất cứ nhứng gì cháu đã có.”

“Cô ta cũng không phải là của Kim tự tháp.”

Cả hai cùng yên lặng. Nhà giả kim mở một chai rượu và rót một loại rượu đỏ vào ly của chàng trai. Nó là một thứ rượu ngon nhất mà cậu đã được thử từ trước tới nay.

“Nhưng ở đây cấm uống rượu mà?” chàng trai hỏi.

“Những gì từ ngoài vào miệng không xấu,” nhà giả kim nói. “Những gì từ miệng ra mới xấu.”

Nhà giả kim có một chút băn khoăn, nhưng khi chàng trai uống rượu, ông thoải mái hơn. Sau khi họ ăn xong, họ ngồi bên ngoài lều dưới ánh trăng, ánh trăng sáng quá đến nỗi làm nhạt nhòa những vì sao.

“Hãy uống và thưởng thức đi,” nhà giả kim nói khi nhận ra chàng trai đang cảm thấy hạnh phúc. “Hãy ngủ yên tối nay như một chiến binh chuẩn bị cho cuộc ra trận. Hãy nhớ rằng trái tim cháu ở đâu, nơi đó cháu sẽ tìm ra kho tàng của cháu. Nhưng cháu phải tìm ra kho tàng để tất cả những gì cháu học được trên đường đời có một ý nghĩa.

“Ngày mai cháu hãy bán con lạc đà đi và mua một con ngựa. Lạc đà dễ phản nghịch: chúng đi cả nghìn bước, chẳng tỏ dấu hiệu gì là mệt mỏi. Bất ngờ chúng quỵ xuống rồi chết. Con ngựa mệt từ từ. Cháu luôn luôn biết được cháu còn dùng chúng được bao lâu và khi nào chúng sẽ chết.”

Trở Về

Tìm Kiếm