NHÀ GIẢ KIM (IIttt)

Phần Hai (ttt)

23  – Đêm hôm sau chàng trai xuất hiện với một con ngựa bên cạnh lều của nhà giả kim. Nhà giả kim đã sẵn sàng, ông leo lên con ngựa chiến của ông và đặt con chim ưng lên vai trái.

 

“Hãy chỉ cho ông sự sống trong sa mạc. Chỉ những ai có thể nhìn ra dấu hiệu của sự sống như thế mới có khả năng tìm ra kho tàng,” nhà giả kim nói với chàng trai.

Họ bắt đầu cưỡi ngựa trên những cồn cát, ánh trăng vằng vặc soi đường họ đi. “Tôi không biết tôi có thể tìm ra sự sống trong sa mạc không,” chàng trai nghĩ. “Thực sự tôi chưa biết rõ sa mạc.”

Cậu muốn nói điều đó với nhà giả kim, nhưng cậu lại sợ nhà giả kim. Họ đến nơi đầy đá, nơi cậu đã nhìn thấy chim ưng trên bầu trời, nhưng bây giờ chỉ còn thinh lặng và gió.

“Cháu không biết cách tìm ra sự sống trong sa mạc,” chàng trai nói. “Cháu biết nơi đây có sự sống, nhưng cháu không tìm ra được.”

“Sự sống thu hút sự sống,” nhà luyện kim trả lời.

Và chàng trai chợt hiểu. Cậu buông cương ngựa và con ngựa tự do đi trên đá và cát. Cả nửa tiếng, nhà giả kim đi theo con ngựa của chàng trai. Họ không còn nhìn thấy hàng cây chà là của ốc đảo nữa, chỉ còn ánh trăng trên đầu và bóng trăng bạc phản chiếu từ những phiến đá trong sa mạc. Rồi bất ngờ, không biết vì lý do gì, con ngựa đi chậm lại.

“Nơi đây có sự sống,” chàng trai nói với nhà giả kim. “Cháu không biết ngôn ngữ của sa mạc, nhưng con ngựa của cháu biết ngôn ngữ của sự sống.”

Họ xuống ngựa. Nhà giả kim không nói gì. Tiến bước chậm rãi, họ tìm kiếm giữa những tảng đá. Thình lình ông ngừng lại, thận trọng cúi xuống đất. Giữa những tảng đá là một cái hang. Nhà giả kim thò tay vào hang, rồi cả cánh tay vào hang. Một cái gì động đậy trong đó, và đôi mắt của nhà giả kim – Chàng trai chỉ nhìn thấy mắt ông – nheo lại vì cố gắng. Dường như nhà giả kim đang chiến đấu với cái gì đó trong hang. Rồi ông kéo mạnh tay ra làm chàng trai giật mình và ông đứng thẳng lên. Trong tay ông cầm chặt đuôi con rắn.

Chàng trai lùi lại, tránh xa nhà giả kim. Con rắn chống lại một cách điên cuồng, tạo nên một âm thanh xèo xèo phá vỡ sự yên lặng của sa mạc. Nó là một con rắn hổ mà nọc của nó có thể giết người trong vài phút.

“Hãy coi chừng nọc độc của nó,” chàng trai nói. Nhưng nhà giả kim đã đút tay vào trong hang nên chắc chắn đã bị cắn, nhưng khuôn mặt ông vẫn bình thản.

“Nhà luyện kim đã hai trăm tuổi,” chàng người Anh đã nói như vậy. Ông ta chắc chắn biết cách đối sử với con rắn của sa mạc.

Chàng trai quan sát nhà giả kim đi đến bên con ngựa và rút ra một lưỡi kiếm hình bán nguyệt. Ông dùng đầu kiếm vẽ một vòng tròn trên cát và ông đặt con rắn trong đó. Con rắn thình lình nằm yên.

“Đừng sợ,” nhà giả kim nói. “Nó không thể đi ra khỏi vòng tròn đó. Cháu đã tìm ra được sự sống trong sa mạc. Đó là điềm mà ông cần.”

“Tại sao nó lại quan trọng như thế?”

“Vì Kim tự tháp bị bao vây bởi sa mạc.”

Chàng trai không muốn nói về Kim tự tháp. Trái tim cậu nặng trĩu và từ tối hôm trước cậu đã thấy buồn. Tiếp tục đi tìm kho tàng nghĩa là phải rời xa Fatima.

“Ông sẽ cùng đi với cháu qua sa mạc,” nhà giả kim nói.

“Cháu muốn ở lại ốc đảo,” chàng trai trả lời. “Cháu đã tìm được Fatima và như cháu biết, cô ta còn quý hơn cả kho tàng.”

“Fatima là một phụ nữ của sa mạc,” nhà giả kim nói. “Cô ta biết đàn ông phải ra đi thì mới có ngày trở về. Và cô ta cũng đã có kho tàng của cô: đó chính là cháu. Bây giờ cô ta mong chờ cháu tìm thấy điều mà cháu tìm kiếm.”

“Điều gì sẽ xẩy ra nếu cháu quyết định ở lại ốc đảo?”

“Hãy để ông kể cho cháu nghe những gì có thể xẩy ra. Cháu sẽ là cố vấn của ốc đảo. Cháu sẽ có tiền mua nhiều cừu và lạc đà. Cháu sẽ cưới Fatima và cả hai sẽ hạnh phúc trong một năm. Cháu sẽ học yêu sa mạc và cháu sẽ biết từng cây chà là trong số năm mươi ngàn cây chà là trong ốc đảo. Cháu sẽ nhìn chúng phát triển và hiểu rằng thế giới không ngừng thay đổi. Và mỗi ngày cháu sẽ hiểu điềm hơn, vì sa mạc là thầy dạy giỏi nhất.

“Có thể vào năm thứ hai cháu sẽ nhớ về kho tàng.  Điềm sẽ luôn nhắc nhở cháu, nhưng cháu cố lờ đi. Cháu sẽ đem hết khả năng phục vụ ốc đảo và cư dân ở đó. Các tộc trưởng đánh giá cao sự đóng góp của cháu. Đàn lạc đà của cháu sẽ đem lại cho cháu sự thịnh vượng và quyền lực.

“Sang năm thứ ba, điềm sẽ lại tiếp tục nhắc cháu về kho tàng và ‘huyền thoại riêng’. Hàng đêm cháu sẽ lang thang trong ốc đảo, và Fatima sẽ không hạnh phúc vì cô cho rằng chính cô là người đã cản bước chân cháu. Nhưng cháu yêu cô và cô đáp lại tình yêu đó. Cháu sẽ nhớ lại rằng cô ta chẳng bao giờ đòi hỏi cháu ở lại, bởi vì phụ nữ của sa mạc biết rằng cô phải đợi chồng mình trở về. Vì thế cháu sẽ không trách cứ cô ấy. Nhưng nhiều lần cháu sẽ lang thang trên các cồn cát sa mạc, nghĩ rằng có lẽ tốt hơn nếu như cháu đã lên đường… nếu như cháu đã tin tưởng hơn vào tình yêu của cháu dành cho Fatima. Bởi vì những gì giữ chân cháu lại ở ốc đảo chính là nỗi sợ ra đi mà không có ngày trở về. Vào thời điểm này, điềm sẽ báo cho cháu rằng kho tàng của cháu sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi.

“Và vào năm thứ tư, một đôi khi điềm sẽ xa lánh cháu, bởi vì cháu không còn lắng nghe chúng. Các tộc trưởng nhận biết điều đó và không còn nhận cháu là cố vấn của ốc đảo nữa. Tới ngày đó, cháu sẽ là một thương gia giầu có vơi nhiều lạc đà và hàng hóa. Cháu sẽ sống những ngày còn lại, ân hận vì đã không đạt được ‘huyền thoại riêng’ của  mình. Khi đó mọi sự đã quá trễ.

“Cháu phải hiểu rằng tình yêu chẳng bao giờ ngăn chặn con người đạt được ‘huyền thoại riêng’ của họ. Nếu tình yêu không giúp họ đạt được mục đích thì đó không phải là tình yêu thực sự, không phải tình yêu nói ngôn ngữ của thế giới.”

Nhà giả kim xóa vòng tròn trên mặt cát và con rắn vội vàng lẩn trốn vào giữa các phiến đá. Chàng trai nhớ lại người chủ tiệm pha lê, người đã luôn luôn muốn hành hương Mecca, và anh chàng người Anh, người tìm kiếm nhà giả kim. Cậu nghĩ về những phụ nữ, những người đã tin tưởng vào sa mạc. Và cậu nhìn vào sa mạc, mảnh đất đã mang cậu đến với người phụ nữ mà cậu yêu.

Họ lên ngựa và lần này chàng trai theo nhà giả kim về lại ốc đảo. Gió mang đến âm thanh của ốc đảo và chàng trai cố gắng nghe giọng nói của Fatima.

Nhưng tối nay, trong khi cậu ngắm nhìn con rắn trong vòng tròn, người kỵ binh xa lạ với con chim ưng trên vai đã nói về tình yêu và kho tàng, về những phụ nữ của sa mạc và về ‘huyền thoại riêng’ của cậu.

“Cháu sẽ đi với ông,” chàng trai nói. Và ngay lập tức, cậu cảm thấy lòng mình bình an.

“Ngày mai trước khi mặt trời lên, chúng ta sẽ lên đường,” ông bình thản nói.

24

Chàng trai trải qua một đêm mất ngủ. Hai giờ trước khi mặt trời lên, cậu đánh thức cậu con trai ngủ chung trong lều và hỏi thăm về nơi ở của Fatima. Cả hai cùng đi tới lều của Fatima và chàng trai cho cậu kia đủ tiền để mua một con cừu.

Rồi chàng trai nhờ anh ta vào lều nơi Fatima đang ngủ, đánh thức cô dậy và báo cho cô biết cậu đang chờ ngoài lều. Chàng trai Ả rập làm như vậy và lại nhận được đủ tiền mua một con cừu khác nữa.

“Bây giờ hãy để chúng tôi yên,” chàng trai nói với chàng Ả rập. Anh ta trở về lều ngủ, hãnh diện vì đã giúp được cho cố vấn của ốc đảo và vui vì có đủ tiền mua vài con cừu.

Fatima xuất hiện trước cửa lều. Hai người đi giữa những hàng cây chà là. Cậu biết như vậy là không đúng với phong tục của ốc đảo, nhưng lúc này cậu không muốn quan tâm tới điều đó.

“Anh sẽ đi,” cậu nói. “Và anh muốn cho em biết anh sẽ trở về. Anh yêu em bởi vì…”

“Anh đừng nói gì nữa,” Fatima cắt ngang. “Một người được yêu là bởi vì họ được yêu. Tình yêu không cần lí do.”

Nhưng chàng trai tiếp tục, “anh có một giấc mơ và anh đã gặp một ông vua già. Anh đã bán pha lê, đã vượt qua sa mạc. Và bởi vì các bộ lạc tuyên chiến với nhau nên anh đã đến giếng nước tìm nhà giả kim. Vì thế, anh yêu em bởi vì toàn thể vũ trụ hợp lại giúp anh tìm ra em.”

Cả hai sa vào lòng nhau. Lần đầu tiên thân thể của họ gần nhau.

“Anh sẽ trở lại,” chàng trai nói.

“Trước đây em đã luôn luôn nhìn vào sa mạc với niềm chờ mong,” Fatima nói. “Bây giờ em sẽ nhìn vào sa mạc với niềm hy vọng. Một lần cha em đã đi và cha em đã trở về với mẹ em, từ đó cha em luôn trở về.”

Cả hai không nói gì nữa. Họ đi xa hơn giữa những hàng cây chà là, và rồi chàng trai đưa Fatima về đến cửa lều.

“Anh sẽ trở về, giống như cha em đã trở về với mẹ em,” chàng trai nói.

Cậu thấy đôi mắt của Fatima đẫm lệ.

“Tại sao em khóc?”

“Em là một phụ nữ của sa mạc,” Fatima nói, quay mặt đi. “Nhưng trên hết em vẫn là một phụ nữ.”

Fatima đi vào lều. Và khi mặt trời xuất hiện, cô lại tiếp tục làm công việc mà cô đã làm từ nhiều năm qua. Nhưng mọi sự đã đổi thay. Chàng trai không còn ở trong ốc đảo và ốc đảo chẳng còn giống như ngày hôm qua. Ốc đảo không còn là một mảnh đất với năm mươi nghìn cây chà là và ba trăm giếng nước, không còn là nơi khách hành hương đến nghỉ ngơi sau cuộc hành trình dài. Kể từ ngày đó, ốc đảo đối với cô là một nơi hoang vắng.

Kể từ ngày đó, sa mạc trở thành quan trọng. Mỗi ngày cô sẽ nhìn vào sa mạc và đoán xem chàng trai sẽ theo bóng ngôi sao nào để đi tìm kho tàng. Cô sẽ gửi những nụ hôn theo gió và hy vọng gió sẽ mơn man khuôn mặt cậu và nói với cậu là cô vẫn sống, vẫn chờ đợi cậu như một người phụ nữ chờ đợi chàng trai can đảm đi tìm kho tàng của mình. Kể từ ngày đó sa mạc đối với cô chỉ mang một ý nghĩa: niềm hy vọng cậu trở về.

 

25

“Đừng nghĩ về những gì cháu đã từ giã,” nhà giả kim nói với chàng trai khi họ bắt đầu băng qua dãi cát sa mạc. “Mọi sự đã được viết trong linh hồn của thế giới và nó sẽ ở đó mãi mãi”

“Con người mơ được về nhà hơn là mơ được ra đi,” chàng trai nói. Cậu đã dần quen với sự yên lặng của sa mạc.

“Nếu những gì người ta tìm thấy là thật, thì chúng sẽ chẳng bị hư hỏng. Và người ta luôn luôn có thể quay về. Nếu những gì cháu đã tìm thấy chỉ là khoảnh khắc của ánh sáng, như ánh sao rơi, khi cháu trở về cháu sẽ không tìm thấy chúng nữa.

Ông dùng ngôn ngữ của thuật giả kim. Nhưng chàng trai hiểu ông muốn nói về Fatima.

Thật khó để không còn nghĩ về những gì cậu bỏ lại đàng sau lưng. Sa mạc với những khung cảnh quen thuộc ru cậu vào giấc mơ. Chàng trai vẫn còn thấy hàng cây chà là, giếng nước và khuôn mặt của người phụ nữ mà cậu yêu. Cậu nhìn thấy chàng trai người Anh bên lò thí nghiệm và người phu lạc đà, một thầy dạy nhưng chẳng bao giờ thực hành nó. “Có lẽ nhà giả kim đã chẳng bao giờ yêu,” chàng trai tự nghĩ.

Nhà giả kim cưỡi ngựa đi phía trước, với con chim ưng trên vai. Con chim biết rõ ngôn ngữ của sa mạc, và bất cứ khi nào họ dừng chân, nó đều bay đi tìm mồi. Ngày đầu tiên nó đem về con thỏ, ngày hôm sau hai con chim.

Ban đêm họ chỉ đắp chăn và dấu kín lửa. Đêm sa mạc lạnh và khi mặt trăng càng đi qua, trời càng tối. Một tuần trôi qua, họ chỉ nói chuyện về biện pháp phòng ngừa cần thiết phải theo để tránh cuộc chiến giữa các bộ lạc. Cuộc chiến tiếp diễn, đôi khi gió mang về mùi máu tanh. Cuộc chiến xẩy ra gần đó và gió nhắc nhở cậu rằng có một ngôn ngữ của điềm luôn sẵn sàng chỉ cho cậu những cái mà mắt cậu không thấy.

Vào ngày thứ bẩy, nhà giả kim quyết định cắm lều sớm hơn mọi ngày. Con chim ưng bay đi tìm mồi và nhà giả kim đưa cho chàng trai bình nước.

“Cháu gần như sắp đến đích của cuộc hành trình rồi,” nhà giả kim nói. “Ông chúc mừng cháu đã đạt đến ‘huyền thoại riêng’ của cháu.”

“Nhưng ông không nói với cháu điều gì trên cả cuộc hành trình,” chàng trai nói. “Cháu cứ nghĩ ông sẽ dạy cháu vài điều mà ông biết. Thời gian trước, khi vượt qua sa mạc, cháu có đi chung với một người có nhiều sách về thuật giả kim. Nhưng cháu không học được gì từ chúng.”

“Chỉ có một cách học,” nhà giả kim trả lời, “đó là học qua thực hành. Mọi sự cháu cần phải biết, cháu đã học qua cuộc du hành. Cháu chỉ cần học thêm một điều nữa thôi.”

Chàng trai muốn biết điều ấy là gì, nhưng nhà giả kim nhìn lên bầu trời, tìm kiếm con chim ưng.

“Tại sao người ta lại gọi ông là nhà giả kim?”

“Bởi vì ông là một nhà giả kim.”

“Và tại sao các nhà giả kim khác cũng muốn làm vàng nhưng không thành công?”

“Họ chỉ muốn tìm vàng,” nhà giả kim trả lời. “Họ tìm kiếm kho tàng ‘huyền thoại riêng’ của họ. nhưng không thực sự muốn sống trải nghiệm ‘huyền thoại riêng’ đó.”

“Điều gì cháu cần phải biết thêm?” chàng trai hỏi.

Nhưng nhà giả kim lại nhìn lên bầu trời. Và con chim ưng trở về với bữa ăn. Họ đào một cái hố và đốt lửa trong đó để khỏi bị trông thấy.

“Ông là một nhà giả kim, đơn giản bởi vì ông là một nhà giả kim,” ông ta nói khi ông chuẩn bị bữa ăn. “Ông học khoa học này từ ông nội của ông và ông nội của ông học từ bố của ông ấy, và cứ thế tiếp tục cho đến ngày thế giới được tạo dựng. Trong thời gian đó, ‘công trình chủ’ chỉ được viết đơn giản trên một tấm ngọc thạch. Nhưng con người coi thường những điều đơn giản, họ viết hồi ký, chú giải và nghiên cứu một cách triết lý. Họ cho rằng cách của họ tốt hơn cách của người khác. Nhưng tấm bảng ngọc bích vẫn tồn tại cho đến ngày nay.”

“Trên tấm bảng ngọc bích đó viết điều gì?” chàng trai muốn biết.

Nhà giả kim vẽ trên mặt cát và chưa đầy năm phút sau đã hoàn thành nó. Khi ông ta vẽ, chàng trai nghĩ về về ông vua già, về quảng trường nơi cậu đã gặp ông; cậu thấy khoảng thời gian từ đó đến nay đã như hàng nhiều năm trôi qua.

“Đây là điều đã được viết trên tấm ngọc bích,” nhà giả kim nói khi ông vẽ xong.

Chàng trai cố gắng đọc những gì vẽ trên cát.

“Chúng là những ký hiệu,” chàng trai nói pha lẫn chút thất vọng. “Chúng giống như cái cháu nhìn thấy trong sách của chàng người Anh.”

“Không,” nhà giả kim trả lời. “Nó như đường bay của hai con chim ưng, người ta không thể hiểu nó chỉ bằng lý trí. Tấm ngọc bích là con đường thẳng dẫn vào linh hồn của thế giới.

Người khôn ngoan biết rằng thế giới thiên nhiên này chỉ là một hình ảnh và là một phiên bản của thiên đường. Sự hiện hữu của thế giới này nói lên một điều đơn giản là chắc chắn có một thế giới khác hoàn hảo. Thiên Chúa dựng nên thế giới này để xuyên qua vật có thể nhìn thấy bằng mắt này, con người có thể hiểu những lời dạy tâm linh và những kỳ công khôn ngoan của ngài. Đó là điều mà ông nói ‘bằng thực hành’.

“Cháu có phải hiểu phiến ngọc bích đó không?” chàng trai hỏi.

“Có lẽ, nếu cháu làm việc trong một phòng thí nghiệm của khoa thuật giả kim, thì bây giờ là lúc tốt nhất cháu phải học cách hiểu phiến ngọc bích đó. Nhưng bây giờ cháu đang ở trong sa mạc. Hãy đắm mình trong đó. Sa mạc sẽ dạy cháu cách hiểu về thế giới; thật ra, mọi vật trên mặt đất này đều dạy cháu điều đó. Ngay cả cháu chẳng phải hiểu về sa mạc. Tất cả những gì cháu phải làm là chiêm ngưỡng từng hạt cát đơn sơ và trong đó cháu sẽ nhìn thấy công trình của tạo vật.”

“Làm sao cháu có thể ngâm mình trong sa mạc được?”

“Hãy lắng nghe trái tim cháu. Trái tim cháu biết mọi điều, bởi vì nó đến từ linh hồn của thế giới và một ngày nào đó nó sẽ lại trở về đó.”

 

26

Hai ngày sau đó họ đi lặng lẽ bên nhau. Nhà giả kim thận trọng hơn vì họ đang tiến gần đến vùng có giao tranh ác liệt. Trên đường đi, chàng trai cố gắng nghe tiếng nói trong tim mình. Đó không phải là công việc dễ dàng. Trước đây tim cậu luôn sẵn sàng kể về mình, nhưng sau này nó không còn kể đúng nữa. Có những lúc trái tim cậu kể hàng giờ về nỗi buồn của nó, lúc khác nó lại xúc động trước cảnh bình minh trên sa mạc đến nỗi chàng trai phải dấu những dòng lệ. Trái tim cậu đập nhanh hơn khi nó kể cho chàng trai về kho tàng, và lại chậm dần khi cậu nhìn vào chân trời vô định trong sa mạc. Nhưng trái tim cậu chẳng bao giờ im lặng ngay cả khi chàng trai và nhà giả kim lặng lẽ bên nhau.

“Tại sao chúng ta phải lắng nghe trái tim mình?” chàng trai hỏi trong một buổi tối khi họ dựng lều xong.

“Bởi vì trái tim cháu ở đâu, ở đó cháu sẽ tìm thấy kho tàng.”

“Nhưng trái tim cháu luôn hồi hộp,” chàng trai nói. “Nó có những giấc mơ, nó xúc động và nó say mê một phụ nữ sa mạc. Nó đòi hỏi nhiều nơi cháu, nó làm cháu nhiều đêm mất ngủ khi cháu nghĩ về người phụ nữ đó.”

“Rất tốt. Như vậy là trái tim cháu vẫn sống động. Hãy tiếp tục lắng nghe những gì nó nói.”

Trong ba ngày sau đó, hai người gặp nhiều chiến binh có trang bị vũ khí và một số khác phía chân trời. Trái tim chàng trai bắt đầu nói về sự lo sợ. Nó kể cho cậu những câu chuyện mà nó đã nghe được từ linh hồn của thế giới, những câu truyện về những người đi tìm kho tàng mà chẳng bao giờ đến đích. Một đôi khi nó làm cậu sợ hãi với ý tưởng rằng cậu sẽ chẳng tìm thấy kho tàng hoặc cậu sẽ chết trong sa mạc. Một lúc khác nó nói với cậu là nó hài lòng vì nó đã tìm thấy tình yêu và sự giầu có.

“Trái tim cháu muốn phản bội cháu rồi,” Chàng trai nói với nhà giả kim khi họ cho ngựa nghỉ. “Nó không muốn cháu đi tiếp nữa.”

“Như vậy mới có ý nghĩa,” nhà giả kim trả lời. “Cháu sợ là điều tự nhiên vì cháu muốn theo đuổi một ước mơ mà có thể phải đánh đổi tất cả những gì mình có.”

“Vậy tại sao cháu phải nghe trái tim cháu?”

“Bởi vì cháu không còn có thể làm cho nó im lặng được nữa. Ngay cả khi cháu làm ngơ như không muốn nghe nó, nó vẫn luôn ở trong cháu, vẫn lập lại những gì cháu nghĩ về cuộc sống và về thế giới.”

“Ông muốn nói là cháu phải nghe nó, ngay cả khi nó phản bội cháu?”

“Sự phản bội như một ngọn gió bất ngờ đến. Nếu cháu hiểu rõ trái tim cháu thì trái tim đó chẳng có thể phản bội cháu. Vì cháu sẽ biết ước mơ và ước muốn của nó, và cũng biết cách đối sử với nó.

“Cháu sẽ chẳng bao giờ có thể trốn chạy trái tim cháu. Vì thế tốt hơn nên lắng nghe những gì nó nói. Qua cách đó, cháu sẽ chẳng bao giờ phải sợ những ngọn gió bất ngờ đến.”

Khi băng qua sa mạc, chàng trai tiếp tục lắng nghe tim mình. Dần dần cậu hiểu những mánh khóe và mưu kế của nó, và chấp nhận nó như nó là. Cậu không còn lo sợ và quên đi nhu cầu muốn trở về ốc đảo, bởi vì một chiều nọ, trái tim cậu nói rằng nó hạnh phúc.

“Ngay cả một đôi khi tôi phàn nàn,” trái tim cậu nói, “vì tôi là trái tim của một con người, và trái tim của con người thì luôn luôn như vậy. Con người luôn sợ theo đuổi ước mơ quan trọng nhất của họ, vì họ cảm thấy họ không xứng đáng với nó hay họ không có thể đạt được nó. Chúng tôi, những trái tim của họ, kinh hoàng khi chợt nghĩ rằng những người thân yêu ra đi mà chẳng bao giờ trở về, hay một khoảnh khắc lẽ ra thật đẹp nhưng sự thật lại chẳng như vậy, hay một kho tàng lẽ ra đã được tìm thấy nhưng cuối cùng lại bị chôn vùi mãi mãi trong cát bụi. Bởi vì khi những điều ấy xẩy ra, chúng tôi đau khổ kinh khủng.”

“Trái tim cháu sợ phải đau khổ,” chàng trai nói như thế với nhà giả kim vào một đêm khi hai người ngắm nhìn bầu trời không trăng sao.

“Hãy nói với trái tim cháu rằng sợ hãi đau khổ thì nguy hại hơn là sự đau khổ. Và không một trái tim nào đã phải đau khổ khi nó đi tìm giấc mơ của nó, bởi vì mỗi một giây phút tìm kiếm là một giây phút gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ vĩnh cửu.”

“Mỗi một giây phút tìm kiếm là một giây phút gặp gỡ Thiên Chúa,” chàng trai nói với trái tim mình. “Khi tôi thực sự tìm kiếm kho tàng của tôi, mỗi ngày đều chan hòa ánh sáng, bởi vì tôi biết rằng mỗi một giờ qua đi tôi đến gần kho tàng hơn. Khi tôi thực sự tìm kiếm kho tàng, tôi sẽ khám phá ra nhiều điều trên đường đời. Nếu tôi đã không đủ can đảm thử những điều dường như người chăn cừu không thể đạt được, thì tôi chẳng được thấy những điều tôi chưa từng thấy”

Cả buổi chiều hôm đó trái tim cậu an bình. Đêm đó chàng trai ngủ ngon, và, khi cậu tỉnh giấc trái tim cậu nói với cậu những điều đến từ linh hồn của thế giới. Nó nói rằng những người hạnh phúc là những người có Thiên Chúa trong họ. Và niềm hạnh phúc đó có thể tìm thấy trong từng hạt cát của sa mạc, như nhà giả kim đã nói. Bởi vì mỗi hạt cát là một khoảnh khắc của tạo dựng, và vũ trụ đã cần hàng triệu năm để tạo nên nó.

“Mỗi người trên trái đất đều có một kho tàng chờ đợi họ,” trái tim cậu nói với cậu. “Chúng tôi, những trái tim của con người, ít khi nói về những kho tàng này, vì người ta không còn muốn đi tìm chúng nữa. Chúng tôi chỉ nói về kho tàng này với trẻ em. Sau đó chúng tôi để cho cuộc đời diễn tiến trong hướng đi của riêng nó, theo định mệnh của nó. Nhưng, thật không may, chỉ có ít người đi theo con đường dành sẵn cho họ – con đường dẫn đến ‘huyền thoại riêng’ của họ và đến hạnh phúc. Phần lớn con người nhìn thế giới như một nơi đầy đe dọa, và, bởi vì con người nhìn như thế, thế giới quả nhiên trở thành nơi đe dọa.

“Vì thế chúng tôi, những trái tim con người, càng ngày càng nói nhẹ hơn. Chúng tôi chẳng bao giờ ngừng nói, nhưng chúng tôi mong rằng lời nói của chúng tôi không được nghe thấy: Chúng tôi không muốn con người phải đau khổ vì họ đã không theo trái tim họ.”

“Tại sao trái tim con người không thôi thúc họ tiếp tục theo đuổi ước mơ của họ?” chàng trai hỏi nhà giả kim.

“Bởi vì điều đó làm cho trái tim đau khổ nhất, và trái tim không muốn đau khổ.”

Từ đó chàng trai hiểu trái tim của cậu. Cậu van nài nó đừng bao giờ ngưng nói với cậu. Cậu yêu cầu trái tim cậu rằng khi nào cậu xa rời giấc mơ, nó phải co thắt lại và cảnh báo cậu. Chàng trai thề rẵng mỗi khi cậu nghe thấy lời cảnh báo, cậu sẽ chú ý đến thông điệp của nó.

Buổi tối đó chàng trai kể hết những điều này cho nhà giả kim. Và ông ta hiểu rằng trái tim chàng trai đã hướng về với linh hồn của thế giới.

“Bây giờ cháu phải làm gì?” chàng trai hỏi.

“Hãy tiếp tục hướng về Kim tự tháp,” nhà giả kim nói. “Và tiếp tục lưu ý đến điềm. Trái tim cháu có khả năng chỉ cho cháu biết kho tàng ở đâu.”

“Có phải đó là điều duy nhất mà cháu cần phải biết?”

“Không,” nhà giả kim trả lời. “Điều mà cháu còn cần phải biết là điều này: trước khi một giấc mơ thành hiện thực, linh hồn của thế giới sẽ thử thách mọi điều cháu học trên đường đời. Linh hồn của thế giới làm như vậy không phải vì ác ý, nhưng muốn qua đó, khi chúng ta đạt được giấc mơ, chúng ta cũng làm chủ những bài học chúng ta đã lĩnh hội trên con đường thực hiện giấc mơ. Đó là một thời điểm mà nhiều người bỏ cuộc. Đó là thời điểm mà, nói theo ngôn ngữ sa mạc, ‘người ta chết khát vừa lúc hàng cây chà là xuất hiện phía chân trời.’

“Mỗi cuộc tìm kiếm bắt đầu với cái may mắn của người mới bắt đầu. Và mỗi cuộc tìm kiếm chấm dứt với người chiến thắng sau khi đã vượt qua bao nhiêu thử thách.”

Chàng trai nhớ lại câu châm ngôn cổ của quê hương cậu. Câu ấy nói rằng giờ khắc tối nhất trong đêm lại chính là lúc mặt trời bắt đầu lên.

27

Ngày sau đó, dấu hiệu nguy hiểm đầu tiên xuất hiện. Ba chiến binh với súng đạn đến gần hỏi chàng trai và nhà giả kim làm gì ở đấy.

“Tôi đi săn với con chim ưng,” nhà giả kim trả lời.

“Chúng tôi có nhiệm vụ khám xét xem các ông có vũ khí không,” một người trong nhóm chiến binh nói.

Nhà giả kim chậm rãi xuống ngựa và chàng trai cũng xuống theo.

“Tại sao các ông mang tiền theo?” người chiến binh hỏi khi ông ta khám túi xách của chàng trai.

“Tôi cần nó để đến Kim tự tháp,” cậu nói.

Người chiến binh lục soát túi của nhà giả kim, tìm thấy một chai pha lê đựng đầy chất lỏng và một quả bằng thủy tinh màu vàng, to hơn quả trứng gà một chút.

“Những vật này là cái gì?” người chiến binh hỏi.

“Đó là viên’ đá triết học’ và ‘thuốc trường sinh’. Nó là ‘công trình chủ’ của khoa giả kim. Ai uống thuốc này sẽ chẳng bao giờ bị bệnh, và một mảnh vụn của viên đá này có thể biến mọi thứ kim loại thành vàng.”

Những người Ả rập cười lớn và nhà giả kim cười theo. Họ nghĩ nhà già kim nói đùa và họ cho phép chàng trai và nhà giả kim tiếp tục đi, mang theo mọi đồ đạc của mình.

“Nói như thế có quá dại không?” Chàng trai hỏi nhà giả kim khi họ đã tiếp tục lên đường. “Ông làm như thế nghĩa là làm sao?”

“Để chỉ cho cháu một bài học đơn giản trong đời sống,” nhà giả kim trả lời. “Khi cháu sở hữu một kho tàng lớn và kể cho người khác về nó, có rất ít người tin lời cháu.”

Họ tiếp tục băng qua sa mạc. Mỗi ngày trôi qua, trái tim chàng trai càng im lặng hơn. Trái tim cậu không còn muốn biết về quá khứ hay tương lai. Nó hài lòng khi chiêm ngắm sa mạc và cùng với cậu uống từ linh hồn của thế giới. Bây giờ chàng trai và trái tim cậu trở thành bạn, và không bên nào còn có thể lừa dối bên kia.

Khi trái tim của cậu nói với cậu, nó muốn khích lệ chàng trai, cho chàng thêm sức mạnh, vì những ngày yên lặng trong sa mạc thật buồn chán. Trái tim cậu nói với cậu về phẩm chất mạnh nhất cậu có, đó là sự can đảm dám bỏ đàn cừu để sống ‘huyền thoại riêng’ của mình, và lòng nhiệt thành trong thời gian cậu làm việc tại cửa hàng bán pha lê.

Và trái tim cậu nói với cậu nhiều điều khác mà cậu chẳng bao giờ để ý đến: nó nói với cậu về những nguy hiểm đe dọa cậu mà cậu chẳng nhận thức. Trái tim cậu nói rằng một lần nó đã giấu khẩu súng mà cậu lấy của cha cậu vì nó sợ cậu tự làm mình bị thương. Và nó nhắc lại ngày cậu bị bệnh và ói mửa trong cánh đồng, rồi sau đó cậu rơi vào trong giấc ngủ. Cách đó không xa, hai tên cướp đã dự định chờ cậu đến, ăn cướp đàn cừu của cậu rồi giết cậu. Nhưng bởi vì chàng trai không đi qua đó, nên chúng bỏ đi vì nghĩ rằng cậu đã đi con đường khác.

“Có phải trái tim con người luôn luôn giúp họ?” chàng trai hỏi nhà giả kim.

“Trái tim chỉ giúp những người muốn thực hiện ‘huyền thoại riêng” của mình. Ngoài ra nó cũng giúp trẻ em, người say sưa và già cả.”

“Điều đó có nghĩa là cháu sẽ chẳng bao giờ phải gặp nguy hiểm sao?”

“Nó chỉ có nghĩa là trái tim làm những gì nó có thể làm,” nhà giả kim nói.

Một buổi chiều nọ họ đi ngang qua một khu trại lính. Họ nhìn thấy những người Ả rập cầm súng trong tay, mặc trang phục màu trắng lộng lẫy. Họ hút thuốc điếu và trao đổi chuyện chiến tranh. Không ai để ý đến hai người lữ hành.

“Chẳng có gì nguy hiểm cả,” chàng trai nói khi họ đã đi qua trại lính.

Nhà gỉa kim nói trong giận dữ: “Hãy tin vào trái tim cháu, nhưng đừng quên rằng cháu đang ở trong sa mạc. Khi con người đánh nhau, linh hồn của thế giới có thể nghe được tiếng la hét của chiến trường. Không ai có thể tránh được hết hậu quả của những gì xẩy ra dưới ánh mặt trời.”

“Tất cả mọi sự chỉ là một,” chàng trai nghĩ. Và sau đó, như sa mạc muốn chứng minh điều nhà giả kim nói là đúng, hai kỵ binh xuất hiện đàng sau họ.

“Các ông không thể đi tiếp được,” một người trong bọn nói. “Các ông đang ở trong vùng có giao tranh.”

“Tôi không đi xa,” nhà giả kim trả lời, nhìn thẳng vào mắt người kỵ binh. Họ yên lặng một lúc, rồi đồng ý cho nhà giả kim và chàng trai đi tiếp.

Chàng trai hào hứng quan sát cuộc trao đổi giữa hai người. “Ông đã chế ngự những kỵ binh này bằng cách nhìn vào họ,” cậu nói.

“Mắt cháu cho thấy sức mạnh của tâm hồn cháu,” nhà giả kim trả lời.

“Điều đó đúng,” chàng trai nghĩ. Cậu nhận thấy giữa đám binh lính trong khu trại phía sau có một người nhìn họ chằm chằm. Hắn ở quá xa nên chàng trai không nhìn được mặt hắn, nhưng cậu chắc chắn rằng hắn đang nhìn họ.

Sau khi họ vượt qua rặng núi trải dài cả chân trời, nhà giả kim nói rằng chỉ còn hai ngày nữa là đến Kim tự tháp.

“Nếu mỗi người sắp phải đi con đường riêng của mình,” chàng trai nói, “vậy xin ông hãy dạy cháu thuật giả kim đi.”

“Cháu đã biết về thuật giả kim rồi. Đó là thâm nhập vào linh hồn của thế giới và khám phá ra kho tàng dành sẵn cho cháu.”

“Không, cháu không nói về chuyện ấy. Cháu nói về chuyện biến chì thành vàng.”

Nhà giả kim yên lặng như sa mạc và chỉ trả lời chàng trai sau khi họ ngừng lại ăn.

“Mọi sự trong vũ trụ đều tiến hóa,” nhà giả kim nói. “Và đối với người hiểu biết thì vàng tiến hóa xa nhất. Đừng hỏi ông tại sao; ông không biết tại sao. Ông chỉ biết rằng truyền thống luôn đúng.

“Con người chẳng bao giờ hiểu lời của bậc thông thái. Vì thế vàng, thay vì được coi như biểu tượng của sự tiến hóa, lại trở thành nguyên nhân gây ra xung khắc.”

“Sự vật nói bằng nhiều ngôn ngữ,” chàng trai nói. “Có lúc đối với cháu tiếng lạc đà kêu không có gì khác hơn là tiếng lạc đà kêu. Rồi nó trở thành dấu hiệu của nguy hiểm. Và rồi nó lại chỉ là tiếng lạc đà kêu.”

Chàng trai ngừng nói. Có lẽ nhà giả kim đã biết tất cả điều đó.

“Ông đã gặp các nhà giả kim thực sự,” nhà giả kim tiếp tục. “Họ tự giam mình trong phòng thí nghiệm, cố gắng tiến hóa, giống như vàng đã tiến hóa. Và họ đã tìm thấy ‘đá triết học’, bởi vì họ hiểu rằng khi một vật nào đó tiến hóa thì mọi vật chung quanh nó cũng tiến hóa theo.

“Những người khác vấp phải đá vì tình cờ. Họ được ban cho những tài năng và tâm hồn họ nhạy cảm với những điều đó hơn tâm hồn những người khác. Số người này ít ỏi, chỉ đếm trên đầu ngón tay.

“Và có những người khác, những người chỉ quan tâm đến vàng. Họ chẳng bao giờ tìm ra bí mật. Họ quên rằng ngay cả chì, đồng hay sắt cũng phải thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của chúng. Và bất cứ ai cản trở ‘huyền thoại riêng’ của sự vật khác sẽ chẳng bao giờ khám phá ra ‘huyền thoại riêng’ của chính họ.”

Lời của nhà giả kim vang lên như một lời nguyền. Ông cúi xuống, nhặt lên từ mặt cát một vỏ sò.

“Một lần sa mạc này đã là biển,” ông nói.

“Cháu cũng nhận thấy điều đó,” chàng trai trả lời.

Nhà giả kim bảo chàng trai úp vỏ sò vào tai. Từ nhỏ cậu đã nhiều lần làm như thế và đã nghe được âm thanh của biển.

“Biển sống trong vỏ sò này, vì đó là ‘huyền thoại riêng’ của nó. Và nó sẽ chẳng bao giờ lìa xa vỏ này cho đến khi sa mạc lại đầy nước.”

Họ lên ngựa và tiến về Kim tự tháp Ai cập.

Khi mặt trời lặn, trái tim chàng trai lên tiếng báo nguy. Họ đang đứng giữa những cồn cát khổng lồ, và chàng trai nhìn nhà giả kim xem ông có cảm thấy gì không. Nhưng ông tỏ ra như không có gì nguy hiểm. Năm phút sau chàng trai thấy hai kị sĩ đón đầu họ. Trước khi cậu có thể nói điều gì với nhà giả kim thì từ hai kị sĩ đã trở thành mười, rồi thành trăm. Và rồi họ xuất hiện khắp nơi trên cồn cát.

Họ là những kị sĩ mặc áo xanh,một vành khăn đen quanh đầu. Khuôn mặt họ ẩn đàng sau khăn màu xanh, chỉ để lộ hai con mắt.

Mặc dù họ ở xa, nhưng đôi mắt họ toát ra sức mạnh của linh hồn họ. Và đôi mắt họ nói về sự chết.

28

Hai người bị đem đến một trại lính gần đó. Một người lính dẫn chàng trai và  nhà giả kim vào một căn lều, nơi vị chỉ huy đang họp với ban tham mưu.

“Hai người này là gián điệp,” một người trong họ nói.

“Chúng tôi chỉ là người lữ hành,” nhà giả kim trả lời.

“Chúng tôi nhận ra các ông đã ở trong trại địch ba ngay trước đây. Và các ông đã nói chuyện với một binh sĩ ở đó.”

“Tôi chỉ là người băng qua sa mạc và biết những vì sao,” nhà giả kim trả lời. “Tôi không có thông tin gì về các đoàn quân hay sự chuyển quân của các bộ tộc. Tôi chỉ là một người dẫn đường bình thường cho bạn tôi đây.”

“Người bạn của ông là ai?” vị chỉ huy hỏi.

“Một nhà giả kim,” nhà giả kim nói. “Anh ấy biết sức mạnh của thiên nhiên.Và anh ta muốn chứng tỏ cho các ông năng lực phi thường của anh ấy.”

Chàng trai yên lặng lắng nghe. Và lo sợ.

“Chàng ngoại quốc này làm gì ở đây?” một người khác hỏi.

“Anh ta mang tiền cho bộ tộc của các anh,” nhà giả kim nói, trước khi chàng trai có thể mở miệng. Ông ta giằng lấy cái bị của chàng trai và đưa số tiền vàng cho vị chỉ huy.

Ông Ả rập nhận lấy, không nói một lời. Sơ tiền này đủ để mua nhiều súng đạn.

“Nhà giả kim là gì?” sau đó vị chỉ huy hỏi.

“Đó là một người am hiểu thiên nhiên và thế giới. Nếu anh ta muốn, anh ta có thể dùng sức gió phá hủy doanh trại này.”

Nhóm người phá lên cười. Họ đã quen với sự tàn phá của chiến tranh và biết rằng gió không thể đem đến một cơn gió chết người. Tuy vậy họ cảm thấy tim họ đập nhanh hơn. Họ là người của sa mạc, và họ sợ các thầy phù thủy.

“Tôi muốn thấy anh ta làm điều đó,” viên chỉ huy nói.

“Anh ta cần ba ngày,” nhà giả kim trả lời. “Anh ta sẽ biến mình thành gió để chứng tỏ khả năng của mình. Nếu anh ta không thể làm được, chúng tôi khiêm nhường dâng mạng sống của chúng tôi để làm vinh danh cho bộ tộc của các ông.”

“Các ông không thể dâng hiến cái gì đã thuộc về tôi,”  vị chỉ huy nói một cách ngạo mạn. Nhưng ông cho người lữ hành ba ngày.

Chàng trai run lên vì sợ, nhưng nhà giả kim dìu cậu ra khỏi lều.

“Đừng cho họ biết cậu sợ,” nhà giả kim nói. “Họ là những người dũng cảm nên họ khinh khi người nhát đảm.”

Nhưng chàng trai không nói lên lời. Cậu chỉ mở miệng được sau khi đã đi qua trung tâm doanh trại. Người Ả rập thấy không cần giam giữ hai người lữ hành mà chỉ cần tịch thu ngựa của họ. Vì thế, một lần nữa thế giới lại chứng tỏ sự phong phú của ngôn ngữ: chỉ vài khoảnh khắc trước đây sa mạc còn tự do, mênh mông vô tận, và bây giờ nó là một bức tường không vượt qua được.

“Ông đã đưa cho họ mọi thứ cháu có,” chàng trai nói. “Mọi thứ cháu đã dành dụm suốt cả cuộc đời.”

“Nhưng chúng có nghĩa gì nữa, nếu cháu phải chết?” nhà giả kim trả lời. “Tiền của cháu cứu chúng ta được sống thêm ba ngày. Tiền không luôn luôn cứu được mạng sống con người.”

Nhưng chàng trai quá sợ đến nỗi không còn có thể lắng nghe những lời khôn ngoan. Cậu không biết làm sao để biến mình thành gió. Vì cậu không phải là nhà giả kim.

Nhà giả kim xin một người lính chút trà và đổ lên cổ tay chàng trai. Một làn gió bình yên thổi trên cậu và nhà giả kim lẩm bẩm những chữ mà chàng trai không hiểu gì.

“Đừng để nỗi sợ hãi làm chủ cháu,” nhà giả kim nói bằng một giọng nhẹ nhàng xa lạ. “Nếu cháu để cho sự sợ hãi làm chủ mình, cháu sẽ không có thể nói chuyện với trái tim mình.”

“Nhưng cháu không biết cách biến mình thành gió.”

“Nếu người nào đạt được ‘huyền thoại riêng’ của họ, họ biết mọi chuyện họ cần phải biết. Chỉ có một điều làm người ta không đạt được giấc mơ của mình, đó là nỗi sợ bị thất bại.”

“Cháu không sợ bị thất bại. Cháu chỉ không biết phải biến mình thành gió như thế nào.”

“Vì thế cháu phải học; mạng sống chúng ta tùy thuộc vào đó.”

“Nhưng nếu cháu không làm được?”

“Thì cháu sẽ chết giữa lúc đang cố gắng thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của mình. Chết như thế còn tốt hơn là chết giống như hàng triệu người khác, những người chẳng biết ‘huyền thoại riêng’ của mình là gì.

“Nhưng đừng lo,” nhà giả kim tiếp tục. “Thông thường, mối đe dọa của sự chết làm con người tỉnh thức hơn về đời sống của họ.”

29

Ngày đầu tiên qua đi. Một trận đánh lớn xẩy ra gần đó và nhiều người bị thương được đem về trại. Người lính này chết sẽ được người lính khác thay thế, và đời sống tiếp tục trôi.

“Sự chết không thay đổi gì cả,” chàng trai nghĩ.

“Bạn có thể chết trễ hơn,” một người lính nói với người bạn đã chết. “Hãy chờ đến khi hòa bình vãn hồi rồi hãy chết. Nhưng trong mọi trường hợp, bạn cũng sẽ chết.”

Vào cuối ngày, chàng trai đi tìm nhà giả kim. Ông vừa mang con chim ưng vào sa mạc.

“Cháu vẫn chưa biết phải biến thành gió như thế nào,” chàng trai lập lại.

“Hãy nhớ lại những gì ông đã nói với cháu: thế giớ chỉ là một khía cạnh hữu hình của Thiên chúa. Và nhiệm vụ của nhà giả kim là đem sự hoàn hảo của tinh thần vào sự liên hệ với vật chất.”

“Ông đang làm gì?”

“Cho chim ưng ăn.”

“Nếu cháu không thể biến mình thành gió, chúng ta sẽ phải chết,” chàng trai nói. “Vậy ông cho chim ưng ăn làm gì?”

“Chỉ có cháu mới phải chết,” nhà giả kim nói. “Còn ông, ông biết cách biến mình thành gió.”

 

30

Vào ngày thứ hai, chàng trai trèo lên đỉnh ngọn núi cheo leo gần doanh trại. Những người lính gác cho phép cậu đi, vì họ đã nghe nói về những phù thủy, những người có thể biến mình thành gió, và họ không muốn gần cậu. Ngoài ra sa mạc cũng không vượt qua được.

Cả buổi chiều của ngày thứ hai, chàng trai nhìn vào sa mạc và lắng nghe tim mình. Cậu biết sa mạc cảm nhận nỗi sợ hãi của cậu.

Cả hai, sa mạc và cậu, đều nói cùng một ngôn ngữ.

31

Vào ngày thứ ba, vị chỉ huy họp với ban lãnh đạo. Ông ta cho gọi nhà giả kim đến và nói: “chúng ta đi xem chàng trai biến mình thành gió như thế nào.”

“Chúng ta cùng đi,” nhà giả kim nói.

Chàng trai đem họ lên ngọn núi cao, nơi cậu đã ngồi hôm trước. Cậu nói mọi người ngồi xuống.

“Phải đợi tôi một lúc,” chàng trai nói.

“Chúng tôi không vội vã gì,” viên chỉ huy đáp. “Chúng tôi là người của sa mạc.”

Chàng trai nhìn về cuối chân trời. Xa kia là rặng núi. Và đó là cồn cát, núi đá và cây cỏ. Ở một nơi dường như không thể tồn tại được mà chúng vẫn đang cố bám vào để sống. Đó là sa mạc, nơi cậu đã băng qua trong nhiều tháng trời, dù thế cậu mới chỉ biết một phần nhỏ về nó. Trong khoảng thời gian ngắn này cậu đã gặp chàng trai người Anh, đoàn lữ hành, cuộc chiến giữa các bộ lạc và một ốc đảo với năm mươi ngàn cây chà là và ba trăm giếng nước.

“Hôm nay bạn muốn gì?” sa mạc hỏi chàng trai. “Hôm qua cậu ngắm nhìn tôi như vậy chưa đủ sao?”

“Ở một nơi nào đó bạn đang giữ người tôi yêu,” chàng trai nói với sa mạc. “Vì thế khi tôi nhìn vào dải cát xa tít của bạn, tôi cũng nhìn thấy người tôi yêu. Tôi muốn trở về với cô ấy, và tôi cần sự trợ giúp của bạn để tôi có thể biến mình thành gió.”

“Tình yêu là gì?” sa mạc hỏi.

“Tình yêu là đường chim ưng bay trên dải cát của bạn. Bởi vì đối với nó, bạn là một cánh đồng xanh mướt mà nó luôn luôn săn được mồi. Nó biết những phiến đá, những dải cát và những rặng núi của bạn, và bạn rộng lượng với nó.”

“Không phải vậy, chính chim ưng đã cướp đoạt của tôi,” sa mạc chống lại. “Tôi đã nuôi con mồi của nó nhiều năm trời, cho nó uống từ số nước ít ỏi tôi có và chỉ cho nó chỗ có đồ ăn. Rồi một ngày, khi tôi đang vui sướng nhìn con mồi của nó lớn lên, con chim ưng bổ xuống từ trời cao và lấy đi cái mà tôi đã nuôi nấng nên.”

“Nhưng đó chính là mục đích mà bạn nuôi nấng con mồi,” chàng trai trả lời. “Để nuôi chim ưng. Và chim ưng nuôi sống con người. Và cuối cùng, con người nuôi sống dải cát của bạn, nơi đó con mồi lại được nuôi sống. Đó là cách thế giới chuyển động.”

“Và đó là tình yêu sao?”

“Vâng, đó chính là tình yêu. Nó biến con mồi thành chim ưng, chim ưng thành người, và con người, đến phiên của họ, thành sa mạc. Đó là cách biến chì thành vàng và làm cho vàng trở về với đất.”

“Tôi không hiểu những gì bạn nói,” sa mạc nói.

“Nhưng ít nhất bạn có thể hiểu rằng một nơi nào đó trong dải cát của bạn, một phụ nữ đang đợi tôi. Và đó là lý do tại sao tôi phải biến mình thành gió.”

Sa mạc yên lặng một lúc. Rồi nó nói với cậu, “Tôi sẽ cho cậu cát để giúp gió thổi, nhưng một mình tôi không thể giúp bạn được. Tôi không thể làm được gì. Bạn phải nhờ gió giúp đỡ.”

Một làn gió nhẹ nổi lên. Những chiến binh quay sang nhìn cậu, họ nói với nhau bằng một ngôn ngữ mà cậu không hiểu.

Nhà giả kim mỉm cười.

Làn gió thổi đến, mơn man khuôn mặt cậu. Gió biết câu chuyện chàng trai nói với sa mạc, bởi vì gió biết tất cả. Gió thổi xuyên qua thế giới, nó không có nơi sinh và cũng không có nơi để chết.

“Hãy giúp đỡ tôi,” chàng trai nói. “Một lần bạn đã đem giọng nói của người tôi yêu đến với tôi.”

“Ai đã dạy cậu nói ngôn ngữ của sa mạc và của gió?”

“Trái tim tôi,” chàng trai trả lời.

Gió có nhiều tên gọi. Ở vùng đó của thế giới, gió được gọi là Sirocco, vì nó mang hơi ẩm từ đại dương đến phía đông. Ở vùng đất xa nơi chàng trai đến, gió được gọi là Levanter, bởi vì người ta tin rằng nó mang theo cát của sa mạc và tiếng la hét của quân Moorish. Có lẽ nơi đồng cỏ mà đàn cừu của cậu đang sống, người ta nghĩ rằng gió đến từ Andalusia. Nhưng thật ra, gió không đến từ một chỗ nào và gió cũng không đi đến đâu; và chính vì thế mà gió mạnh hơn sa mạc. Một ngày nào đó có thể con người trồng được cây trong sa mạc và ngay cả nuôi cừu ở đó, nhưng sẽ chẳng bao giờ có thể bắt gió ngừng bay.

“Cậu không thể thành gió được,” gió nói. “Chúng ta khác xa nhau.”

“Điều đó không đúng,” chàng trai nói. “Trên dường lữ hành tôi đã học được bí mật của nhà giả kim. Trong tôi có gió, sa mạc, đại dương, các vì sao và mọi thứ đã được tạo dựng trong vũ trụ. Tất cả chúng ta được dựng nên bởi một bàn tay, và chúng ta có cùng một linh hồn. Tôi muốn được như bạn, muốn có thể đến mọi chân trời của thế giới, xuyên qua biển, thổi bay những hạt cát che phủ kho tàng của tôi và mang đến giọng nói của người con gái tôi yêu.”

“Tôi đã nghe cuộc nói chuyện của cậu với nhà giả kim mấy hôm trước,” gió nói. “Ông ta nói rằng mọi vật đều có ‘huyền thoại riêng’. Nhưng con người không thể tự biến mình thành gió.”

“Hãy chỉ cho tôi thành gió trong một khoảnh khắc thôi,” chàng trai nói. “Vì thế bạn và tôi có thể cùng nhau nói chuyện về khả năng vô hạn của con người và gió.”

Sự hiếu kỳ của gió bị khêu gợi, một điều mà trước đây chưa bao giờ xẩy ra. Gió muốn nói về những chuyện này, nhưng nó không biết cách làm cho người thành gió. Và hãy nhìn xem bao nhiêu chuyện mà gió đã làm. Nó tạo nên sa mạc, làm chìm đắm những con tàu, đốn ngã bao nhiêu khu rừng và thổi qua thành phố với những âm thanh du dương và xa lạ. Gió cảm thấy mình đã làm mọi chuyện, nhưng bây giờ một chàng trai nói còn nhiều chuyện khác mà gió có thể làm.

“Đó là cái mà chúng ta gọi là tình yêu,” chàng trai nói, cảm thấy rằng gió đã gần chấp nhận những gì cậu yêu cầu. “Khi yêu, bạn có thể làm tất cả. Khi yêu, bạn không cần phải hiểu những gì đang xẩy ra, bởi vì mọi chuyện xẩy ra trong bạn và ngay cả con người có thể biến mình thành gió. Dĩ nhiên với sự giúp đỡ của gió.”

Tự bản thân, gió luôn tự hào và nó bị kích thích bởi những gì chàng trai nói. Nó bắt đầu thổi mạnh hơn, làm bay lên những hạt cát sa mạc. Sau cùng nó nhận ra rằng mặc dù đã đi khắp nơi trên thế giới, nó vẫn không biết cách biến một người thành gió. Và nó không biết gì về tình yêu.

“Trong cuộc lữ hành xuyên qua thế giới, tôi đã thường thấy con người nói về tình yêu và nhìn về phía bầu trời,” gió nói trong tức giận vì nhận ra giới hạn của mình. “Có lẽ tốt hơn nên hỏi bầu trời.”

“Tốt lắm, hãy giúp tôi làm chuyện đó,” chàng trai nói. “Hãy biến nơi này thành bão cát khốc liệt đến nỗi có thể che khuất cả mặt trời. Qua đó tôi có thể nhìn trời mà không bị lòe mắt.”

Vì thế gió thổi bằng tất cả sức lực của nó, và bầu trời đầy cát. Mặt trời trở thành một cái đĩa vàng.

Ở doanh trại khó mà quan sát mọi chuyện. Người dân sa mạc đã quen với ngọn gió đó. Họ gọi nó là simum, và nó còn nguy hiểm hơn bão biển. Ngựa của họ hí vang và vũ khí của họ đầy cát.

Trên đồi đá, một sĩ quan quay qua vị chỉ huy và nói, “có lẽ tốt hơn nên chấm dứt ở đây.”

Gần như họ không còn nhìn thấy chàng trai. Mặt họ bị quần áo màu xanh che phủ và mắt họ lộ vẻ sợ hãi.

“Hãy cho ngưng lại,” một sĩ quan khác nói.

“Tôi muốn nhìn thấy sự vĩ đại của Allah,” vị chỉ huy nói với lòng tôn trọng. “Tôi muốn thấy một người biến thành gió như thế nào.”

Nhưng ông đã để ý đến tên của hai người vừa tỏ ra sợ hãi kia. Khi ngọn gió ngừng thổi, ông sẽ cách chức họ, vì người của sa mạc thật sự không được sợ hãi.

“Gió nói với tôi là bạn biết về tình yêu,” chàng trai nói với mặt trời. “Nếu bạn biết về tình yêu, bạn cũng phải biết về linh hồn của thế giới, vì nó được dựng nên từ tình yêu.”

“Từ nơi tôi ở,” mặt trời nói, “tôi có thể nhìn thấy linh hồn của thế giới. Nó giao tiếp với linh hồn của tôi, và chúng tôi cùng nhau làm cho cây lớn lên và cho đàn cừu những bóng mát. Từ nơi tôi ở – và tôi ở xa địa cầu – tôi học yêu. Tôi biết rằng, ngay cả khi tôi chỉ xích lại trái đất gần hơn một chút thôi, mọi vật ở đó có thể chết, và linh hồn của thế giới sẽ không còn tồn tại. Vì thế chúng tôi ngắm nhìn nhau, và chúng tôi cần nhau; tôi cho trái đất sự sống và hơi ấm, còn trái đất cho tôi lý do để sống.”

“Thế thì bạn đã biết về tình yêu,” chàng trai nói.

“Và tôi biết linh hồn của thế giới, vì chúng tôi nói chuyện với nhau rất lâu trong những chuyến hành trình dài vô tận xuyên qua vũ trụ. Linh hồn của thế giới nói với tôi rằng vấn đề lớn nhất là, cho đến bây giờ, chỉ có đất đá và rau cỏ mới hiểu tất cả mọi sự là một. Vì thế sắt không cần phải trở thành đồng, hay đồng cũng giống như vàng. Mỗi vật chu toàn nhiệm vụ của nó trong một tổng thể duy nhất, và tất cả sẽ là một bản giao hưởng hòa bình, nếu như bàn tay đã viết tất cả ngưng lại vào ngày thứ năm của công trình tạo dựng.

“Nhưng còn có ngày thứ sáu,” mặt trời tiếp tục.

“Bạn thật thông thái, vì bạn quan sát mọi sự từ trên cao,” chàng trai nói. “Nhưng bạn không biết về tình yêu. Vì nếu không có ngày thứ sáu trong công trình tạo dựng, con người đã không hiện diện; đồng vẫn là đồng và sắt vẫn là sắt. Đúng là mỗi vật có ‘huyền thoại riêng’ của mình, nhưng một ngày nào đó ‘huyền thoại riêng’ này phải được thành hiện thực. Vì thế mà mỗi vật phải tự biến đổi thành tốt hơn để đạt đến một ‘huyền thoại riêng’ mới, cho đến khi, một ngày nào đó, linh hồn của thế giới trở thành một tổng thể duy nhất.”

Mặt trời nghĩ về những điều đó và quyết định chiếu sáng hơn. Gió thú vị theo dõi cuộc đối thoại và bắt đầu thổi mạnh hơn để mặt trời không làm mù đôi mắt của chàng trai.

“Chính vì thế mà nhà giả kim có mặt,” chàng trai nói. “Vì thế mà mỗi người sẽ tìm kiếm kho tàng của mình, tìm được nó, và rồi muốn trở thành tốt hơn như họ đã sống ở kiếp trước. Chì chu toàn trách nhiệm vủa nó cho đến khi thế giới không còn cần chì nữa; và rồi chì sẽ tự biến đổi thành vàng.

“Đó chính là việc của nhà giả kim. Họ chỉ cho chúng ta biết khi chúng ta ra sức để trở thành tốt hơn như chúng ta đang là, mọi vật chung quanh chúng ta cũng trở thành tốt hơn.”

“Vậy tại sao bạn nói rằng tôi không hiểu về tình yêu?” mặt trời hỏi chàng trai.

“Bởi vì nó không phải là tình yêu tĩnh mịch như sa mạc, hoặc phiêu lãng khắp thế giới như gió. Nó cũng không phải là tình yêu để nhìn mọi sự từ khoảng cách xa, giống như bạn đang làm. Tình yêu là sức mạnh làm biến đổi và hoàn thiện linh hồn của thế giới. Lần đầu tiên khi tôi thâm nhập vào linh hồn thế giới, tôi nghĩ nó hoàn thiện. Nhưng sau đó tôi thấy rằng nó cũng giống như những khía cạnh khác của tạo vật, vẫn mang trong mình đam mê và xung đột. Chính chúng ta là người nuôi dưỡng linh hồn của thế giới, và thế giới mà chúng ta đang sống sẽ tốt hơn hay xấu hơn tùy thuộc vào việc chúng ta tốt hơn hay xấu hơn. Và đây là sức mạnh của tình yêu. Bởi vì khi chúng ta yêu, chúng ta luôn cố gắng trở thành tốt hơn như chúng ta là.

“Bạn muốn gì nơi tôi?” mặt trời hỏi.

“Tôi muốn nhờ bạn giúp để tôi có thể biến mình thành gió,” chàng trai trả lời.

“Thiên nhiên biết tôi thuộc hàng thông thái nhất giữa các tạo vật,” mặt trời nói. “Nhưng tôi không biết cách nào biến bạn thành gió.”

“Nhưng tôi có thể hỏi ai?”

Mặt trời trầm ngâm suy nghĩ. Gió lắng nghe và muốn kể cho mọi ngõ ngách của thế giới biết rằng sự thông thái của mặt trời cũng có giới hạn, rằng ngay cả mặt trời cũng không đủ khả năng để đối đầu với anh chàng nói ngôn ngữ của thế giới này.

“Hãy nói với bàn tay đã viết lên tất cả,” mặt trời nói.

Gió hét lên mừng rỡ và thổi mạnh hơn nó như chưa bao giờ thổi. Những lều trại bị hất bay khỏi mặt đất, giây cột thú vật bị đứt tung. Các đàn ông trên đỉnh đá ôm ghì lấy nhau để không bị gió cuốn bay đi.

Chàng trai hướng về bàn tay đã viết lên tất cả. Khi cậu làm như thế, cậu cảm nhận tất cả vũ trụ như chìm trong yên lặng và cậu quyết định không nói gì.

Một dòng tình yêu tuôn ra từ trái tim cậu, và cậu bắt đầu cầu nguyện. Đó là một lời nguyện mà cậu đã chẳng bao giờ cầu xin, bởi vì đó là một lời nguyện không lời và không có lời cầu xin. Lời cầu nguyện của cậu không chứa đựng lời cám ơn vì đàn cừu của cậu đã tìm ra đồng cỏ mới, không cầu xin cho bán được nhiều hàng pha lê, không van nài cho người con gái mà cậu yêu tiếp tục chờ đợi cậu trở về. Trong yên lặng, chàng trai hiểu rằng sa mạc, gió và mặt trời luôn luôn cố gắng hiểu những dấu hiệu đã được viết lên bởi một bàn tay, tìm kiếm để bước theo con đường của họ và để hiểu những gì đã được khắc ghi giản dị trên phiến đá ngọc bích. Cậu thấy những điềm rải rác khắp trên mặt đất cũng như trong không gian, và sự hiện diện của chúng như không có nguyên do và ý nghĩa; cậu có thể thấy ngay cả sa mạc, gió, mặt trời hay con người cũng không có thể hiểu tại sao chúng lại được tạo dựng. Nhưng bàn tay có một lý giải cho tất cả mọi điều này, và chỉ bàn tay mới có thể làm phép lạ, hay biến biển thành sa mạc… hay biến người thành gió. Bởi vì chỉ có bàn tay mới hiểu rằng một kế hoạch lớn lao đã thúc đẩy vũ trụ chuyển động đến một điểm, nơi sáu ngày tạo dựng được tiến hóa thành một ‘công trình vĩ đại’.

Chàng trai thâm nhập vào linh hồn của thế giới và thấy nó là một phần linh hồn của Thiên Chúa. Và cậu nhận thấy linh hồn của Thiên Chúa là linh hồn của chính cậu. Và vì thế cậu, một chàng trai, có thể làm phép lạ.

32

Ngọn gió Simum hôm đó thổi mạnh như chưa bao giờ thổi. Nhiều thế hệ sau người Ả rập còn kể về huyền thoại của một chàng trai, người đã tự biến mình thành gió, phá hủy hầu hết doanh trại và thách đố với vị chỉ huy đầy quyền lực nhất của sa mạc.

Khi ngọn gió Simum ngừng thổi, mọi người nhìn về chỗ chàng trai. Nhưng cậu không còn ở đó, cậu đang đứng gần một người lính gác bị cát bao phủ ở một phía xa doanh trại.

Mọi người hoảng sợ vì trò ảo thuật này. Nhưng có hai người mỉm cười: Nhà giả kim, vì ông đã tìm thấy người đệ tử hoàn hảo, và vị chỉ huy, vì người đệ tử đó đã hiểu sự vinh quang của Thiên Chúa.

Ngày hôm sau vị chỉ huy chia tay chàng trai và nhà giả kim. Ông cho họ một đoàn tháp tùng để cùng đi với họ nơi nào họ muốn.

33

Họ cưỡi ngựa suốt ngày. Vào cuối ngày họ đến một tu viện Coptic. Nhà giả kim xuống ngựa và ra lệnh cho đoàn tháp tùng ra về.

“Từ bây giờ trở đi, cháu sẽ đi một mình,” nhà giả kim nói. “Chỉ còn ba giờ nữa, cháu sẽ đến Kim tự tháp.”

“Cháu cám ơn ông,” chàng trai nói. “Ông đã dạy cháu ngôn ngữ của thế giới.”

“Ông chỉ khơi lại những gì cháu đã biết.”

Nhà giả kim gõ cửa tu viện. Một đan sĩ mặc y phục đen đi ra cổng. Họ nói với nhau vài phút bằng tiếng Coptic, rồi nhà giả kim ra lệnh cho chàng trai bước vào.

“Ông đã xin cho ông được sử dụng nhà bếp một lúc.” Nhà giả kim mỉm cười.

Họ đi vào nhà bếp nằm sau khuôn viên tu viện. Nhà giả kim mồi lửa và vị đan sĩ đem đến cho ông vài miếng chì. Nhà giả kim cho miếng chì vào trong chiếc chảo bằng sắt. Khi chì đã hóa lỏng, nhà giả kim lấy từ trong túi quả trứng vàng lạ lùng. Ông cạo lấy một chút mỏng như sợi tóc, quấn nó trong sáp và cho vào trong chảo chì đã hóa lỏng.

Chất hỗn hợp có màu đỏ giống như máu. Nhà giả kim lấy chảo ra khỏi bếp, để cho nguội. Vừa làm việc, nhà giả kim vừa nói chuyện với vị đan sĩ về chiến tranh giữa các bộ lạc.

“Tôi nghĩ chiến tranh còn kéo dài lâu nữa,” nhà giả kim nói với vị đan sĩ.

Vị đan sĩ sốt ruột. Đoàn lữ hành đã ngừng lại lâu ở Giza, đang chờ chiến tranh kết thúc.

“Nhưng theo ý Chúa,” vị đan sĩ nói.

“Đúng vậy,” nhà giả kim trả lời.

Khi chiếc chảo đã nguội, vị đan sĩ và chàng trai lóe mắt nhìn vào. Chì đã khô trong chảo, nhưng nó không còn là chì. Nó là vàng.

“Cháu có thể học cách làm như vậy không?” chàng trai hỏi.

“Đây là ‘huyền thoại riêng’ của ông, chứ không phải của cháu,” nhà giả kim trả lời. “Nhưng ông muốn tỏ cho cháu biết rằng điều đó có thể làm được.”

Họ trở lại cổng tu viện. Ở đó nhà giả kim chia dĩa vàng thành bốn phần.

“Phần này cho thầy,” ông nói khi đưa một phần cho vị đan sĩ. “Đó là cho lòng rộng lượng của thầy đối với khách hành hương.”

“Nhưng nó quá nhiều so với những gì tôi đã làm,” vị đan sĩ trả lời.

“Đừng nên nói như vậy nữa. Đời nghe được thì lần sau thầy được ít hơn đấy.”

Nhà giả kim quay sang phía chàng trai. “Đây là cho cháu để đền vào chỗ cháu đã nộp cho vị chỉ huy.”

Chàng trai định nói số vàng này quá lớn so với những gì cậu đã đưa cho vị chỉ huy. Nhưng cậu giữ im lặng, vì cậu đã nghe những gì nhà giả kim nói với vị đan sĩ.

“Và phần này cho tôi,” nhà giả kim nói, giữ lại một phần. “Bởi vì tôi phải quay lại sa mạc, nơi chiến tranh giữa các bộ lạc vẫn còn tiếp diễn.”

Ông cầm lấy phần còn lại và đưa cho vị đan sĩ.

“Phần này cho chàng trai này, khi cậu ấy cần đến.”

“Nhưng cháu sắp tìm thấy kho tàng của cháu rồi,” chàng trai nói. “Cháu sắp đến nơi rồi.”

“Ông chắc chắn cháu sẽ tìm thấy nó,” nhà giả kim nói.

“Vậy tại sao cháu cần thêm số vàng này?”

“Vì cháu đã bị mất hai lần: một lần vì bị lừa gạt và một lần đưa cho vị chỉ huy. Ông là một ông già Ả rập mê tín, và  ông tin vào câu châm ngôn nước mình. Câu đó nói rằng ‘Những gì đã xẩy ra một lần có thể sẽ không xẩy ra nữa. Nhưng những gì đã xẩy ra hai lần thì chắc chắn sẽ xẩy ra lần thứ ba.’”

Rồi họ lên ngựa.

34

“Ông muốn kể cho cháu một câu truyện về một giấc mơ,” nhà giả kim nói.

Chàng trai cho ngựa chạy sát bên. Nhà giả kim thong thả kể:

Ở Roma cổ, thời hoàng đế Tiberius, một ông già nhân hậu có hai người con. Một người trong quân đội và phải chuyển đến một vùng xa xôi nhất của đế quốc. Người con kia là một nhà thơ và đã làm cho tất cả dân Roma say mê vì những vần thơ của cậu.

Một đêm kia, người cha có một giấc mơ. Một thiên thần hiện ra, báo cho ông rằng những lời của một trong hai người con của ông sẽ được nhiều người biết đến và truyền tụng trong thế giới qua mọi thời đại mai sau. Người cha tỉnh thức, lòng đầy biết ơn và chẩy nước mắt vì đời sống quá rộng lượng với ông và đã mặc khải cho ông những điều mà bất cứ người cha nào cũng hãnh diện muốn biết.

Chẳng bao lâu sau, người cha đó chết khi muốn cứu một cậu bé sắp bị bánh xe ngựa đè bẹp. Vì cả đời ông đã sống đàng hoàng và tốt, nên ông được lên thẳng thiên đàng, nơi đó ông gặp lại thiên thần đã báo mộng cho ông.

“Ông luôn luôn là một người tốt,” thiên thần nói với ông. “Cả đời ông đã sống yêu thương và chết một cách phẩm cách. Bây giờ tôi có thể cho ông bất cứ điều gì ông mơ ước.”

“Đời sống quá ưu đãi tôi,” người cha nói. “Khi ngài hiện ra với tôi trong giấc mơ, tôi cảm thấy mọi công lao của mình đã được đền bù, vì thơ của con tôi được mọi người đọc trong nhiều thế hệ mai sau. Tôi không muốn bất cứ điều gì cho chính tôi. Nhưng người cha nào mà chẳng hãnh diện về sự nổi tiếng của gười con mà mình đã nuôi nấng khi còn nhỏ, đã giáo dục khi lớn khôn. Một lúc nào đó trong tương lai, tôi muốn được nghe những vần thơ của con tôi.”

Thiên thần sờ vào vai ông và cả hai được đưa vào một tương lai xa. Họ ở trong một quảng trường rộng lớn, chung quanh cả hàng ngàn người đang nói với nhau bằng một ngôn ngữ xa lạ. Người cha khóc vì hạnh phúc.

“Tôi biết thơ của con tôi bất tử,” ông nói với thiên thần qua dòng nước mắt. “Ngài có thể cho tôi biết bài thơ nào của con tôi đang được người ta đọc ở đây?”

Thiên thần đến gần người cha, âu yếm dìu ông đến một băng ghế gần đó rồi ngồi xuống.

“Những vần thơ của con ông rất phổ biến ở Roma,” thiên thần nói. Mọi người đều yêu và thích thưởng thức nó. Nhưng khi triều đại hoàng đế Tiberius chấm dứt, thơ của con ông cũng bị quên lãng. Những lời ông vừa nghe là của người con của ông nơi trận địa.”

Người cha ngạc nhiên nhìn thiên thần.

“Người con của ông đi phục vụ ở một nơi xa và trở thành một sĩ quan. Ông là một người công chính và tử tế. Một buổi chiều kia một người đầy tớ của ông bị bệnh, nằm chờ chết. Con ông nghe nói về một thầy Rabbi, người có thể chữa lành nhiều bệnh tật, và con ông đã đi ngựa nhiều ngày trời đi tìm người đó. Trên đường đi ông biết rằng người mà ông đang tìm kiếm chính là Con Thiên Chúa. Con ông gặp những người đã được người đó chữa lành và học giáo lý của họ. Và mặc dù con ông là một sĩ quan Roma, ông đã theo đạo mới đó. Sau đó con ông đến nơi mà người con ông tìm kiếm đang sống.

Con ông nói với người ấy là một người đầy tớ của con ông bị bệnh nặng, và ông Rabbi sẵn sàng để đi với con ông về nhà. Nhưng vị sĩ quan là một người có niềm tin mạnh mẽ và khi nhìn vào mắt của nhà Rabbi, ông nhận ra rằng người này thực là Con Thiên Chúa.

Và đây là câu mà con ông đã nói, thiên thần nói với người cha. Đây là những lời mà con ông đã nói với nhà Rabbi vào lúc đó, và lời này chẳng bao giờ bị quên lãng: “Lạy Chúa, con không đáng Chúa đến nhà con. Nhưng nếu Chúa nói một lời, đầy tớ của con sẽ được lành bệnh.”

Nhà giả kim nói, “bất cứ người ta làm gì, mỗi một người trên mặt đất đều có một vai trò quan trọng trong lịch sử của thế giới. Và thông thường họ không nhận biết điều đó.”

Chàng trai mỉm cười. Cậu chẳng bao giờ tưởng tượng rằng những vấn đề về đời sống lại liên quan trọng yếu như thế đối với một chàng chăn cừu.

“Tạm biệt cháu,” nhà giả kim nói,

“Tạm biệt ông,” cậu trai trả lời.

35

Chàng trai cưỡi ngựa nhiều tiếng trong sa mạc, lắng nghe những gì trái tim cậu nói. Chính trái tim cậu sẽ nói cho cậu biết kho tàng của cậu chôn giấu ở đâu.

“Kho tàng ở đâu, trái tim cháu cũng ở đó,” nhà giả kim đã nói.

Nhưng trái tim cậu lại nói về những chuyện khác. Nó hãnh diện kể câu chuyện về chàng chăn cừu đã bỏ đàn cừu để theo đuổi một giấc mơ. Nó kể về ‘huyền thoại riêng’, về nhiều người đã lang thang tìm kiếm, về những mảnh đất xa xôi và về những phụ nữ xinh đẹp, đương đầu với người cùng thời về những quan điểm riêng. Nó kể về những cuộc hành trình, những khám phá, sách vở và những đổi thay.

Vừa khi cậu định leo lên một cồn cát khác, trái tim cậu mới thổn thức: “Hãy ghi nhớ nơi chốn mà cậu sẽ phải khóc. Tôi ở đó và kho tàng của cậu cũng ở đó.”

Chàng trai chậm rãi trèo lên dải cát. Ánh trăng vằng vặc hiện lên trên bầu trời đầy sao: đã một tháng rồi cậu xa rời khỏi ốc đảo. Vầng trăng tạo nên trên dải cát chỗ sáng chỗ tối nhấp nhô như sóng biển, và chàng trai nhớ lại lần vó ngựa dựng đứng trong sa mạc và chàng trai đã quen biết nhà giả kim. Và trăng chiếu sáng trên sự yên lặng của sa mạc và trên cuộc hành trình tìm kiếm kho tàng của con người.

Khi chàng trai đến đỉnh cồn cát, trái tim cậu nhẩy múa. Đó, được chiếu sáng bởi ánh trăng và sự quang đãng của sa mạc, Kim tự tháp Ai cập đứng trang nghiêm và hùng vĩ.

Chàng trai quỳ xuống khóc. Cậu cảm tạ Thiên Chua đã cho cậu tin vào ‘huyền thoại riêng’ của cậu, và đã hướng dẫn cậu gặp gỡ ông vua già, ông chủ tiệm pha lê, chàng trai người Anh và nhà giả kim. Và trên hết đã cho cậu gặp một phụ nữ sa mạc, người đã nói với cậu rằng tình yêu sẽ không ngăn chặn con người tìm kiếm ‘huyền thoại riêng’ của họ.

Nếu cậu muốn, ngay bây giò cậu có thể trở về ốc đảo, trở lại với Fatima và sống cuộc sống giản dị của một chàng chăn cừu. Bởi vì ngay cả nhà giả kim cũng tiếp tục sống trong sa mạc, mặc dù ông hiểu ngôn ngữ của thế giới và biết cách biến chì thành vàng. Ông không phải chứng tỏ kiến thức và nghệ thuật của mình cho bất cứ ai. Chàng trai nhắc nhở lòng mình rằng trên con đường thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của mình, cậu đã học tất cả những gì cậu cần phải biết và đã sống qua mọi thứ mà cậu mơ ước.

Nhưng cậu đang ở thời điểm tìm ra kho tàng, và cậu nhớ lại rằng không  một dự định nào hoàn thành trừ khi đạt được mục tiêu. Chàng trai nhìn dải cát chung quanh cậu và nhìn thấy con bọ hung đang bới cát nơi giọt nước mắt của cậu đã rơi xuống. Trong thời gian ở sa mạc, cậu đã học được rằng ở Ai cập bọ hung là dấu hiệu của Thiên Chúa.

Một điềm khác! Chàng trai bắt đầu bới trong dải cát. Vừa làm, cậu vừa nghĩ về câu nói của chủ tiệm pha lê: mỗi người có thể tự xây cho mình một Kim tự tháp trong vườn nhà. Bây giờ cậu biết, nếu mỗi ngày cậu xếp hòn đá này trên hòn đá khác trong suốt quãng đời còn lại, cậu cũng không thể thực hiện được.

Suốt đêm chàng trai đào ở một chỗ mà chàng đã chọn, nhưng không tìm thấy gì. Cậu cảm thấy như sức nặng của Kim tự tháp qua hàng thế kỷ đè nặng trên cậu. Nhưng cậu không ngừng lại. Cậu tiếp tục đào và ngăn cơn gió luôn luôn thổi cát vào lại lỗ trũng mới đào lên. Tay cậu trầy da và mỏi nhừ, nhưng cậu lắng nghe tim mình. Trái tim đã nói với chàng là phải đào nơi nước mắt cậu rơi xuống.

Vừa khi cậu thử đẩy mấy hòn đá sang bên cạnh, cậu nghe thấy tiếng bước chân. Nhiều bóng người đến gần. Lưng họ quay lại phía ánh trăng, và chàng trai không thể nhìn thấy mắt họ, cũng không thể nhìn thấy mặt họ.

“Anh làm gì ở đây?” một trong số bóng người hỏi.

Vì chàng trai quá sợ, nên cậu không trả lời. Cậu đã tìm thấy nơi chôn giấu kho tàng của cậu, và sợ những gì có thể xẩy ra.

“Chúng tôi là những người tị nạn, trốn chạy khỏi cuộc xung đột giữa các bộ lạc và chúng tôi cần tiền,” một bóng người khác nói. “Anh đang chôn giấu gì ở đây?”

“Tôi không giấu gì cả,” chàng trai trả lời.

Nhưng một người trong nhóm túm lấy cậu và kéo cậu ra khỏi hố. Một người khác lục trong túi cậu và tìm thấy miếng vàng.

“Vàng đây rồi!” ông ấy nói.

Ánh trăng chiếu trên khuôn mặt người Ả rập đã túm lấy cậu, và trong đôi mắt của ông ấy, chàng trai nhìn thấy sự chết.

“Có lẽ nó còn giấu nhiều vàng nữa trong đất.”

Chúng bắt cậu đào tiếp, nhưng cậu không tìm thấy gì. Khi mặt trời ló dạng, bọn người đó đánh cậu. Cậu bị thương và chảy máu, quần áo của cậu rách bươm và cậu cảm thấy sự chết gần kề.

“Tiền bạc còn ý nghĩa gì nếu bạn phải chết? Không phải tiền luôn luôn có thể cứu được mạng sống,” nhà giả kim đã nói. Cậu cất tiếng cười lớn, “tôi đang đào kho tàng.” Và, mặc dù miệng cậu chẩy máu và môi cậu sưng vù, cậu kể cho bọn tấn công rằng đã hai lần cậu mơ thấy một kho tàng giấu ẩn gần Kim tự tháp Ai cập.

Một người có vẻ là trưởng toán nói với một người trong nhóm: “Tha cho nó. Nó không còn gì khác đâu. Miếng vàng này có lẽ nó đã ăn cắp.”

Chàng trai gục xuống cát, gần như bất tỉnh. Vị trưởng toán lay cậu và nói, “chúng tôi đi đây.”

Nhưng trước khi họ đi, họ quay lại chàng trai và nói, “anh không chết được. Anh phải sống và phải học rằng một người đàn ông không nên quá ngu ngốc. Hai năm trước đây, chính ngay ở chỗ này, hai lần tôi đã mơ. Tôi mơ thấy tôi phải lữ hành đến cánh đồng Tây Ban Nha và tìm một ngôi nhà thờ đổ nát, nơi chàng chăn cừu và đoàn cừu ngủ qua đêm. Trong giấc mơ, có một cây sung mọc lên từ sự đổ nát của phòng thay áo lễ, và tôi được báo rằng nếu tôi đào ở rễ gốc cây sung, tôi sẽ tìm thấy một kho tàng bị giấu ẩn. Nhưng tôi không quá ngu, tôi không băng qua cả sa mạc chỉ vì muốn theo đuổi một giấc mơ.”

Rồi chúng biến mất.

Chàng trai lảo đảo đứng lên, nhìn vào Kim tự tháp một lần nữa. Dường như chúng cười cậu và cậu cười lại. Tim cậu nở tràn niềm vui.

Bởi vì bây giờ cậu biết kho tàng của cậu ở đâu.

Trở Về

Tìm Kiếm