NHÀ GIẢ KIM (Itt)
Phần Một (tt)
11 – Một lần nữa chàng trai lại cố gắng đọc tiếp cuốn sách, nhưng cậu không tập trung được. Cậu khó chịu và căng thẳng, bởi vì cậu biết ông già có lý. Cậu đi ngang đến tiệm bánh mì và mua một ổ bánh, phân vân có nên nói cho ông thợ bánh mì những gì ông già đã nói về anh ta. Một đôi khi tốt hơn nên để nguyên như vậy, cậu tự nghĩ, và quyết định không nói gì. Nếu cậu nói điều gì đó, có thể người thợ bánh mì sẽ mất cả ba ngày trời suy nghĩ xem có nên từ bỏ tất cả hay không, ngay cả khi ông đã quen với cách sống đó. Chàng trai không muốn gây nên sự lo lắng cho người thợ bánh mì. Vì thế cậu đi ngang qua thành phố, đến cổng thành. Ở đó có một ngôi nhà nhỏ có quầy bán vé mà người ta có thể mua vé đến Châu Phi. Và cậu biết Ai Cập nằm ở Châu Phi.
“Tôi có thể giúp gì cho anh?” người đàn ông ngồi sau khung cửa sổ hỏi.
“Có lẽ ngày mai;” chàng trai nói và bước ra. Nếu bây giờ cậu bán một con cừu, cậu có đủ tiền để đến vùng eo biển bên kia. Ý tưởng đó làm cậu sợ.
“Một người mơ nữa,” người bán vé dõi mắt theo chàng trai đi khỏi và nói với bạn đồng nghiệp. “Cậu ta không có đủ tiền để du hành.”
Lúc đứng bên cánh cửa sổ phòng vé, chàng trai nhớ đàn cừu và quyết định trở lại làm người chăn cừu. Trong hai năm cậu đã học mọi chuyện về việc chăn cừu: cậu biết cách cắt lông cừu, biết cách chăm sóc con cừu đang mang thai, và biết cách bảo vệ đàn cừu trước sói rừng. Cậu biết tất cả cánh đồng và đồng cỏ của vùng Andalusia. Và cậu biết giá của từng con vật của cậu.
Cậu quyết định về lại chuồng thú vật của người bạn bằng con đường xa nhất. Khi qua ngang qua tòa lâu đài của thành phố cổ, cậu không muốn về vội, mà leo lên những bậc thang đá dẫn lên đến đỉnh của bức tường thành. Từ đó, cậu có thể nhìn thấy Châu Phi. Một ai đó đã bảo cậu rằng từ Châu Phi người Moor đã đến và chiếm cứ toàn bộ Tây Ban Nha.
Từ nơi cậu ngồi, cậu có nhìn thấy toàn thành phố, cả quảng trường nơi cậu đã nói chuyện với ông già. Gặp ông già là một điều bất hạnh, cậu nghĩ. Cậu vào thành phố chỉ vì muốn tìm người đàn bà giải đoán giấc mơ cho cậu. Cả bà lão đến ông già đều không nhận ra rằng cậu là chàng chăn cừu. Họ là những người cô đơn, những người không còn tin vào điều gì và không hiểu sự gắn bó của người chăn cừu với đàn cừu như thế nào. Cậu biết mọi chuyện về từng con cừu trong đàn: cậu biết con nào què, con nào sẽ sinh trong hai tháng nữa, con nào lười nhất. Cậu biết cách cắt lông chúng, biết cách làm thịt chúng. Nếu cậu quyết định rời chúng, chúng sẽ đau khổ.
Gió nổi lên. Cậu biết ngọn gió đó: người ta gọi nó là Levanter, bởi vì theo ngọn gió này, người Moor đã từ Levanter nằm ở phía cực đông Địa Trung Hải đến đây.
Ngọn gió Levanter thổi mạnh hơn. “Tôi đang đứng giữa đàn cừu và kho tàng,” chàng trai nghĩ. Cậu phải chọn lựa giữa cái cậu đã gắn bó và cái cậu muốn có. Còn người con gái ông thương gia kia, cô không quan trọng như đàn cừu của cậu, vì cô không tùy thuộc vào cậu. Có thể cô chẳng còn nhớ đến cậu. Cậu chắc chắn rằng ngày cậu xuất hiện đối với cô cũng chẳng có gì khác: đối với cô mọi ngày đều giống nhau, và khi ngày hôm nay cũng giống như ngày mai thì con người không nhận biết được những gì tốt xẩy ra trong đời sống của họ. Họ không nhận ra được rằng mỗi ngày mặt trời lại mọc lên cho họ.
“Tôi đã từ giã cha mẹ và thành phố với tòa lâu đài. Cha mẹ tôi và thành phố đó đã quen với sự vắng mặt của tôi và tôi cũng vậy. Đàn cừu cũng sẽ quen với sự vắng mặt của tôi thôi,” chàng trai nghĩ.
Từ nơi cậu đang ngồi, cậu có thể quan sát quảng trường. Người ta đến tiệm bánh mì rồi lại đi. Một cặp tình nhân trẻ ngồi hôn nhau trên ghế băng, nơi cậu đã nói chuyện với ông già.
“Người bán kem đó…” cậu nói với chính mình, không nghĩ hết dòng tư tưởng. Ngọn gió Levanter thổi mạnh hơn và cậu cảm nhận sức mạnh của nó trên mặt. Thật sự, ngọn gió này đã đem người Moor đến, nhưng chúng cũng đem đến hương thơm của sa mạc và của các thiếu nữ đội khăn che mặt. Nó mang theo mồ hôi và giấc mơ của những người để lại tất cả đàng sau lưng, đi tìm kiếm những điều chưa biết, tìm kiếm vàng và mạo hiểm – và cũng tìm kiếm Kim tự tháp. Cậu cảm thấy gang tị với sự tự do của ngọn gió và thấy rằng mình cũng có thể được tự do như gió. Không gì có thể ngăn cản cậu, ngoại trừ chính cậu. Những con cừu, người con gái con ông thương gia cũng như những cánh đồng vùng Andalusia chỉ là những bước trên con đường đến ‘huyền thoại riêng’ của cậu.
12
Ngày hôm sau, chàng trai gặp ông già vào giữa trưa. Cậu mang theo sáu con cừu.
“Cháu rất ngạc nhiên,” cậu nói. “Bạn cháu đã mua ngay lập tức tất cả những con cừu còn lại. Anh ta bảo là đã từ lâu anh muốn thành người chăn cừu và đây là một điềm báo tốt cho anh ấy.”
“Điều đó luôn luôn xảy ra,” ông già nói. “Đó là cái được gọi là nguyên lí thuận lợi. Khi bạn chơi bạc lần đầu, hầu như chắc chắn là bạn thắng. Đó là sự may mắn của người mới bắt đầu.
“Tại sao lại như vậy?”
“Bởi vì đó là một sức mạnh muốn cháu thực hiện ‘huyền thoại riêng’ của cháu; nó làm cho cháu quen với vị giác của thành công.”
Rồi ông quan sát những con cừu, và khám phá ra một con bị què. Chàng trai cắt nghĩa rằng điều đó không quan trọng, bởi vì trong đàn cừu con này thông minh nhất và cho nhiều lông nhất.
“Kho tàng ở đâu hả ông?” Chàng trai hỏi.
“Nó ở bên Ai Cập, gần những Kim tự tháp.”
Chàng trai giật mình. Bà già cũng đã nói như vậy. Nhưng bà đã không đòi cậu thù lao gì.
“Để tìm ra kho tàng, cháu phải theo những điềm (8). Thiên Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người con đường đi. Cháu phải đọc những điềm mà Ngài để lại cho cháu.”
Trước khi chàng trai nói, một co bướm bay lượn giữa chàng và ông già. Cậu nhớ lại một lần cha cậu đã nói với cậu: con bươm bướm là một điềm tốt, cũng giống như con dế và con châu chấu, giống như con thằn lằn và lá cây xa trục thảo bốn cánh.
“Đúng thế,” ông già nói như đọc được tư tưởng của chàng trai. “Giống như ông nội cháu đã truyền đạt. Những cái này là những điềm tốt.”
Người đàn ông mở áo khoác và chàng trai choáng ngợp về những gì cậu trông thấy. Ông già đeo áo ngực bằng vàng, gắn những viên đá quý. Cậu nhớ lại sự rực rỡ mà cậu đã thấy hôm trước.
Ông phải là vua thật! Ông phải che đậy để tránh chạm trán với bọn cướp.
“Hãy cầm lấy cái này,” ông già nói, cầm lên một viên đá trắng và một viên đá đen; hai viên này đã được gắn giữa áo ngực. “Chúng được gọi là Urim và Thummim. Viên trắng biểu tượng cho ‘có’ và viên đen cho ‘không’. Khi cháu không có khả năng đọc những điềm, chúng sẽ giúp cháu. Hãy luôn luôn đặt những câu hỏi khách quan.
“Nhưng nếu có thể, hãy cố gắng tự quyết định lấy. Như cháu đã biết, kho tàng ở Kim tự tháp. Ông nài nỉ cháu sáu con cừu bởi vì ông đã giúp cháu dám quyết định.”
Chàng trai nhét hai viên đá vào bị. Từ bây giờ cậu sẽ tự mình quyết định.
“Đừng bao giờ quên rằng mọi việc cháu làm chỉ là một và ngoài ra không có gì khác. Và đừng quên ngôn ngữ của điềm. Và nhất là đừng quên đi theo ‘huyền thoại riêng’ của cháu cho đến tận cùng.”
“Nhưng trước khi ông đi, ông muốn kể cho cháu nghe một câu truyện nhỏ:
Một ông chủ tiệm gửi con mình đến một người khôn ngoan nhất thế giới để học về bí mật của hạnh phúc. Chàng thanh niên đi ròng rã qua sa mạc bốn mươi ngày và sau cùng đến một lâu đài xinh đẹp trên ngọn núi. Nơi đó người khôn ngoan đang sống.
Chàng thanh niên bước vào trong phòng chính của tòa lâu đài, thay vì gặp một vị thánh, cậu thấy vô số sinh hoạt: thương gia đến rồi đi, một nhóm người nói chuyện trong góc phòng, một dàn nhạc nhỏ chơi nhạc nhẹ và đó là một chiếc bàn với các dĩa đồ ăn cao lương mỹ vị từ khắp nơi trên thế giới. Nhà khôn ngoan nói chuyện với mọi người, và chàng trai phải chờ hai tiếng mới đến luợt được tiếp kiến ông.
Nhà khôn ngoan lắng nghe người thanh niên trình bầy tại sao cậu đến đây, nhưng ông bảo cậu ông không có giờ để cắt nghĩa cho cậu về bí mật của hạnh phúc. Ông đề nghị chàng trai đi tham quan chung quanh lâu đài và hai tiếng sau trở lại.
“Trong khi đó, ông muốn cháu làm một việc này,” nhà khôn ngoan nói, đưa cho cậu một muỗng nhỏ trên đó có hai giọt dầu. “Trong khi cháu đi chung quanh, hãy đem theo chiếc muỗng này và đừng để hạt dầu vương vãi.”
Chàng trai trèo lên, bước xuống bao nhiêu cầu thang của lâu đài, mắt không rời khỏi chiếc muỗng. Sau hai giờ, chàng trở về căn phòng gặp lại nhà khôn ngoan.
“Tốt,” nhà khôn ngoan hỏi, “cháu có nhìn thấy tấm thảm Ba Tư treo ở trong phòng ăn không? Cháu có nhìn khu vườn mà những người làm vườn phải mất mười năm xây dựng không? Cháu có để ý đến cuốn giấy da đẹp trong thư viện không?”
Chàng thanh niên ngượng ngùng và thú nhận rằng cậu đã không quan sát gì cả. Cậu chỉ chú tâm để không làm đổ hai giọt dầu mà nhà khôn ngoan đã giao cho cậu.
“Thế thì cháu đi một lần nữa và quan sát những kỳ công trong thế giới của ông. Cháu không thể tin tưởng một người khi cháu chưa biết nhà họ.”
Yên tâm hơn, chàng trai cầm chiếc muỗng và đi lại một vòng khám phá trong lâu đài. Lần này cậu quan sát tất cả công trình nghệ thuật trên trần nhà cũng như trên tường. Cậu ngắm khu vườn, ngọn núi chung quanh, vẻ đẹp của các loài hoa và nét thẩm mỹ đã chọn lựa mọi vật. Khi về gặp nhà khôn ngoan, cậu kể chi tiết những gì cậu đã thấy.
“Nhưng hai giọt dầu mà ông giao cho cháu đâu rồi?” nhà khôn ngoan hỏi.
Nhìn xuống chiếc muỗng trên tay, chàng trai thấy hai giọt dầu đã vương vãi mất.
“Đây là lời khuyên duy nhất mà ông có thể trao cho cháu,” nhà khôn ngoan nhất của những người khôn ngoan nói. “Bí mật của hạnh phúc là nhìn ngắm tất cả những kỳ công của thế giới, và chẳng bao giơ quên những giọt dầu trên chiếc muỗng.”
Chàng chăn cừu không nói gì. Cậu hiểu câu chuyện mà ông già đã kể cho cậu. Một người chăn cừu có thể thích phiêu du, nhưng anh ấy chẳng bao giờ quên đàn cừu của anh.
Ông già nhìn chàng trai, với hai bàn tay nắm vào nhau, ông làm một vài cử chỉ lạ lùng trên đầu chàng trai. Rồi ông lấy cừu của ông và ra đi.
13
Ở một điểm cao nhất của Tarifa có một cổng thành cổ do người Moor xây dựng. Từ đỉnh tường thành có thể nhìn về Châu Phi. Buổi chiều hôm ấy Melchizedek, vị vua của Salem, ngồi trên bức tường pháo đài và cảm nhận gió Laventer thổi trên mặt. Bầy cừu ngọ nguậy gần đó, chưa quen với ông chủ mới và bối rối vì có quá nhiều đổi thay. Tất cả những gì chúng cần là đồ ăn và nước uống.
Melchizedek nhìn con tàu nhỏ vừa rời bến. Ông sẽ chẳng bao giờ gặp lại chàng trai, cũng như ông đã chẳng bao giờ gặp lại Abraham sau khi đã lấy của cậu một phần mười tiền công. Đó là công việc của ông.
Các thần thánh chẳng bao giờ ước mơ, bởi vì các ngài không có ‘huyền thoại riêng’. Nhưng vua Salem hy vọng chàng chăn cừu sẽ thành công.
“Tiếc rằng chắc cậu ấy sẽ sớm quên tên tôi,” ông nghĩ. “Chính ra tôi phải lập lại tên tôi cho cậu. Sau này khi cậu kể về tôi, cậu sẽ nói rằng tôi là Melchizedek, vua xứ Salem.”
Ông ngước nhìn bầu trời, cảm thấy một chút bối rối, rồi nói, “Con biết đó chỉ là hư không của những hư không, như Chúa nói, lạy Chúa. Nhưng một ông vua già đôi khi cũng phải tự hào về chính mình.”
14
“Châu Phi thật lạ,” chàng trai nghĩ.
Cậu ngồi trong một quán bar giống như những quán bar khác mà cậu đã nhìn thấy dọc theo con đường hẹp của Tangier (9). Một vài người đàn ông hút thuốc từ những ống điếu to lớn, rồi chuyền từ người này qua người khác. Trong một vài giờ cậu đã nhìn thấy những người đàn ông đi tay trong tay, những phụ nữ che mặt và các tư tế trèo lên các đỉnh tháp cao và hát – trong khi đó những người xung quanh quỳ xuống, gập đầu trên đất.
“Một tập tục của người không tôn giáo,” cậu nói với chính mình. Trong nhà thờ, khi cậu còn nhỏ, cậu luôn luôn ngước lên ảnh thánh Santiago Matamoros trên con ngựa trắng, gươm rút ra khỏi vỏ và những nhân vật đang quỳ dưới chân ngài giống như những người này. Cậu cảm thấy bất an và cô đơn khủng khiếp. Những người không tôn giáo trông dễ sợ.
Ngoài ra trong lúc vội vã lên đường cậu đã quên một chi tiết, chỉ một chi tiết thôi, nhưng chi tiết ấy có thể cầm hãm chàng còn lâu mới tìm ra kho tàng: ở nước này người ta chỉ nói tiếng Ả Rập.
Chủ quán bar lại gần, chàng trai chỉ vào một thứ nước uống đã được phục vụ trên bàn bên cạnh. Họ mang ra cho cậu trà đắng. Chính ra cậu thích rượu hơn.
Nhưng bây giờ cậu không cần phải lo lắng về chuyện đó. Những gì cậu quan tâm là về kho tàng của cậu và làm sao có thể đến được đó. Tiền bán cừu đầy trong túi cậu, và chàng trai biết trong tiền bạc có ma thuật: ai có tiền sẽ chẳng bao giờ cô đơn. Chẳng bao lâu nữa, có thể chỉ trong vài ngày nữa, cậu sẽ đến Kim tự tháp. Một ông già với áo ngực dát vàng chẳng lẽ lại lừa dối cậu để lấy sáu con cừu?
Ông già đã nói về dấu hiệu và điềm, và khi đi ngang qua eo biển, cậu đã nghĩ về điềm. Vâng, ông già biết những gì ông đang nói: trong thời gian chàng trai du hành trên đồng cỏ ở Andalusia, cậu đã quen chọn đường bằng cách quan sát mặt đất và bầu trời. Cậu khám phá ra rằng nơi đâu một loại chim nhất định xuất hiện, gần đó có rắn, và vùng nào có một loại cây nhỏ nhất định sống, nơi đó có nước. Những con cừu đã truyền đạt cho cậu điều đó.
Nếu Thiên Chúa dẫn dắt đàn cừu, ngài cũng hướng dẫn con người, cậu nghĩ. Ly trà dường như bớt đắng hơn.
“Bạn là ai?” cậu nghe một giọng nói hỏi cậu bằng tiếng Tây Ban Nha.
Chàng trai nhẹ cả người. Cậu vừa nghĩ về điềm và một người đã xuất hiện.
“Làm sao bạn lại nói tiếng Tây Ban Nha?” cậu hỏi. Người mới đến là một thanh niên trẻ, mặc âu phục, nhưng màu da của anh tiết lộ anh là người bản xứ. Anh ta trẻ và cao như chàng trai.
“Hầu như mọi người ở đây đều có thể nói được tiếng Tây Ban Nha. Chúng tôi chỉ cách Tây Ban Nha hai tiếng.”
“Hãy ngồi xuống, hãy để tôi chiêu đãi bạn một cái gì đó,” chàng trai nói. “Và hãy đặt cho tôi một ly rượu vang. Tôi không thích thứ trà này.”
“Trên đất nước này không có rượu,” chàng trai trẻ nói. “Tôn giáo ở đây cấm uống rượu.”
Chàng trai nói với anh ta là cậu cần đến Kim tự tháp. Cậu muốn kể về kho tàng của cậu, nhưng rồi quyết định không kể nữa. Nếu cậu nói ra, có thể người Ả Rập sẽ đòi một phần kho tàng như là tiền công của họ giúp cậu đến đó. Cậu nhớ lại lời ông già đã nói với cậu là không nên hứa tặng những gì mình chưa có.
“Nếu bạn có thể, tôi muốn bạn dẫn tôi đến đó. Tôi sẽ trả tiền công hướng dẫn cho bạn.”
“Bạn đã mường tượng sẽ đi đến đó như thế nào chưa?” chàng trai mới đến hỏi.
Chàng trai để ý thấy ông chủ quán đứng gần và lắng nghe cuộc nói chuyện của họ. Cậu khó chịu về sự có mặt của ông. Nhưng cậu đã tìm thấy một hướng dẫn viên, cậu không thể bỏ lỡ cơ hội.
“Bạn phải băng qua sa mạc Sahara,” người thanh niên trẻ nói. “Và muốn thực hiện điều đó, bạn cần tiền. Tôi muốn biết bạn có đủ tiền không.”
Chàng trai nghĩ đó là một câu hỏi không bình thường. Nhưng cậu tin ông già, người đã nói rằng khi cháu thật sự muốn một điều gì đó, cả vũ trụ sẽ luôn luôn hợp lại giúp cháu.
Cậu lấy tiền từ trong túi ra và chỉ cho người thanh niên trẻ xem. Chủ quán cũng đến gần nhìn. Hai người nói với nhau bằng tiêng Ả rập, và ông chủ quán tỏ vẻ lo âu.
“Chúng ta hãy ra khỏi đây,” chàng thanh niên mới đến nói. “Ông ta muốn chúng ta ra khỏi đây.”
Chàng trai nhẹ người. Cậu đứng lên trả tiền, nhưng chủ quán chụp lấy tay cậu, nói một tràng dài đầy giận dữ. Chàng trai tuy khỏe và muốn cãi lại, nhưng cậu đang ở trên một xứ lạ. Người bạn mới đẩy ông chủ bán qua một bên, và kéo chàng trai theo ra ngoài. “Ông ta muốn lấy tiền của bạn,” anh ấy nói. “Tangier không giống như những nơi khác ở Châu Phi. Đây là một hải cảng, và mỗi hải cảng đều có cướp.”
Chàng trai tin tưởng vào người bạn mới. Anh ta vừa cứu cậu qua khỏi cảnh nguy hiểm. Cậu lấy tiền ra đếm.
“Chúng ta có thể đi đến Kim tự tháp ngày mai.” Chàng trai kia nói, cầm lấy tiền. “Nhưng chúng ta phải mua hai con lạc đà.”
Họ cùng đi với nhau xuyên qua những con đường hẹp của Tangier. Mỗi nơi đều có tiệm bán đồ. Họ đến một quảng trường rộng, nơi chợ họp. Hàng ngàn người đang ở đó, đang mặc cả, bán và mua; rau cỏ bán bên cạnh gươm đao, và các loại thảm trưng bày bên cạnh thuốc lá. Nhưng chàng trai chẳng bao giờ rời mắt khỏi người bạn mới quen. Anh ta đang cầm trọn số tiền. Chàng trai đã nghĩ đến chuyện đòi lại, nhưng nghĩ rằng như vậy là không thân thiện. Cậu không biết gì về phong tục của đất nước xa lạ cậu đang ở.
“Tôi phải coi chừng anh ta'” cậu nói với chính mình. Cậu biết cậu khỏe hơn người bạn mới quen.
Bất ngờ giữa đám hỗn độn, cậu thấy một thanh kiếm thật đẹp mà cậu chưa bao giờ nhìn thấy. Bao kiếm bằng bạc, chuôi kiếm màu đen và cẩn đá quý. Chàng trai tự hứa sẽ mua thanh kiếm này khi từ Ai cập về.
“Bạn hỏi chủ tiệm dùm xem thanh kiếm này giá bao nhiêu,” cậu nói với người bạn. Rồi cậu nhận ra rằng khi cậu nhìn thanh kiếm, cậu đã lơ đãng không để ý đến người bạn mới đó. Tim cậu co lại như ngực cậu bất ngờ đè nén nó. Cậu sợ phải nhìn chung quanh, bởi vì cậu biết cậu sẽ thấy gì. Cậu tiếp tục nhìn vào thanh kiếm đẹp đẽ một lúc lâu, sau đó cậu thu hết can đảm quay nhìn chung quanh mình.
Chung quanh cậu là chợ, với những người đến và đi, la hét và mua bán, cùng với hương vị của đồ ăn lạ… nhưng cậu không thấy người bạn mới đâu.
Chàng trai muốn tin rằng bạn cậu đơn giản vì một tai nạn đã phải rời xa cậu. Cậu quyết định đứng nguyên đó và chờ anh ta trở lại. Khi cậu chờ, một tư tế trèo lên chóp của ngọn tháp gần đó và bắt đầu cầu nguyện; mọi người trong chợ quỳ gối xuống, gục mặt trên đất và lập lại lời cầu nguyện. Rồi, giống như một đàn kiến thợ, họ tháo dỡ quầy hàng và rời khỏi chợ.
Mặt trời dần lặn. Chàng trai ngắm nhìn theo cho đến khi nó khuất dần sau khu nhà trắng chung quanh quảng trường. Cậu hồi tưởng lại khi mặt trời mọc vào buổi sáng hôm đó, cậu vẫn ở một châu lục khác, vẫn là một chàng chăn sáu mươi con cừu, và mong chờ được gặp người con gái. Buổi sáng đó cậu biết những gì sẽ xẩy ra cho cậu khi cậu đi xuyên qua cánh đồng quen thuộc. Và bây giờ, vào buổi hoàng hôn, cậu đang ở một đất nước xa lạ; cậu là một người lạ trên một mảnh đất lạ và ngay cả không nói được ngôn ngữ lạ ở đó. Cậu không còn là chàng chăn cừu, không còn gì cả, ngay cả không còn có tiền để trở về và bắt đầu lại.
“Tất cả mọi sự diễn ra trong khoảng mặt trời mọc và mặt trời lặn,” chàng trai nghĩ. Cậu cảm thấy tiếc cho chính mình và buồn về đời cậu đã thay đổi nhanh chóng một cách quá bất ngờ và quá nhanh chóng.
Chàng trai xấu hổ vì cậu muốn khóc. Cậu đã chẳng bao giờ khóc, ngay cả trước mặt những con cừu của cậu. Nhưng bây giờ chợ vắng người và cậu ở xa nhà, vì thế cậu khóc. Cậu khóc vì Thiên Chúa bất công, và đây là đường lối Thiên Chúa sửa dạy những người tin vào giấc mơ của mình.
“Khi tôi còn có đàn cừu, tôi hạnh phúc và tôi làm cho những người chung quanh tôi hạnh phúc. Mọi người thấy tôi đến và chào đón tôi,” cậu nghĩ. “Nhưng bây giờ tôi buồn và cô đơn. Tôi trở thành chán đời và không còn tin tưởng vào người khác nữa, vì một người đã lừa đảo tôi. Tôi bắt đầu ghét những người đã tìm thấy kho tàng của họ, bởi vì tôi chẳng bao giờ tìm thấy kho tàng của tôi. Và tôi muốn giữ chặt cái ít ỏi tôi có, bởi vì tôi không còn là gì để còn có thể chinh phục thế giới.”
Chàng trai mở bị xem có còn gì không; có thể sau khi ăn trên tàu một vài miếng bánh mì còn dư lại. Nhưng tất cả những gì cậu tìm thấy là một cuốn sách dầy, chiếc áo khoác và hai viên đá mà ông già đã cho cậu.
Khi nhìn viên đá, cậu thấy an lòng vì vài lí do. Cậu đã đổi sáu con cừu để lấy hai hòn đá quý giá đã được lấy ra từ áo ngực bằng vàng của ông già. Cậu có thể bán chúng và mua một vé tàu trở về. “Nhưng lần này tôi phải khôn ngoan hơn,” chàng trai nghĩ. Cậu lấy hai viên đa ra khỏi bị và cho vào túi áo. Đây là thành phố cảng, và chỉ có một sự đáng tin tưởng mà bạn cậu đã nói với cậu là thành phố cảng luôn đầy trộm cướp.
Bây giờ cậu hiểu tại sao ông chủ quán bar đã can thiệp: ông đã cố gắng cắt nghĩa cho cậu đừng tin vào chàng thanh niên kia. “Tôi cũng giống như mọi người khác – Tôi nhìn thế giới trong giới hạn của cái tôi muốn nhìn, chứ không phải cái thực sự là.”
Cậu đưa ngón tay vân vê viên đá, cảm nhận nhiệt độ của nó và bề mặt nhẵn của nó. Chúng là kho tàng của cậu. Cậu cảm thấy thoải mái hơn khi cầm nó trên tay. Chúng gợi cậu nhớ về ông già.
“Khi bạn muốn điều gì, cả vũ trụ sẽ hợp lại để giúp bạn đạt được nó,” ông già đã nói.
Chàng trai cố gắng hiểu sự thật của những gì ông già đã nói. Cậu đang ở giữa khu chợ vắng, không có tiền và cũng không có cừu để chăn qua đêm. Nhưng những hòn đá này là bằng chứng cậu đã gặp một ông vua – một ông vua biết về quá khứ của cậu.
“Chúng được gọi là Urim và Thummim, và chúng giúp cháu đọc những điềm.” Chàng trai cất hai viên đá vào lại trong túi và quyết định làm thử một thí nghiệm. Ông già bảo cậu phải đặt những câu hỏi rõ ràng, và muốn được như thế cậu phải biết cậu muốn gì. Vì thế cậu hỏi xem lời chúc lành của ông già có còn ở với cậu không.
Cậu lấy ra một viên đá. Đó là “có”.
“Tôi có tìm thấy kho tàng của tôi không?” cậu hỏi.
Cậu cho tay vào túi, rờ chung quanh hòn đá để lấy ra một viên. Khi cậu làm như vậy, cả hai viên rớt ra từ một lỗ thủng trong túi và rơi xuống đất. Chàng trai chẳng để ý tới một lỗ thủng trong túi. Cậu cúi xuống tìm Urim và Thummim để cất chúng vào túi lại. Nhưng khi thấy chúng nằm trên mặt đất, một câu nói khác lại về trong đầu cậu.
“Hãy học cách nhận ra điềm và theo chúng,” ông vua già đã nói.
Một điềm. Chàng trai mỉm cười. Cậu nhặt hai hòn đá và cho lại vào túi. Cậu không quan tâm đến việc vá lại lỗ thủng – viên đá có thể rơi bất cứ khi nào chúng muốn. Cậu học rằng có những việc không nên hỏi để khỏi phải lẩn tránh ‘huyền thoại riêng’. “Tôi hứa rắng tôi sẽ tự quyết định,” chàng trai tự nhủ.
Nhưng những viên đá nói rằng ông già vẫn ở bên cậu, và điều đó làm cho cậu vững tâm. Cậu nhìn chung quanh ngôi chợ một lần nữa, cảm thấy bớt tuyệt vọng hơn trước. Đây không phải là một nơi xa lạ: đây chỉ là một nơi mới thôi.
Điều mà cậu luôn muốn chính là điều này: biết những nơi mới. Ngay cả nếu cậu không đến được Kim tự tháp, cậu cũng đã du hành xa hơn tất cả những người chăn cừu mà cậu biết. “Ôi, nếu họ biết rằng chỉ cách họ có hai giờ tàu mà nơi đó có bao nhiêu điều mới lạ,” cậu nghĩ. Mặc dù thế giới mới của cậu lúc này là một bãi chợ vắng, nhưng cậu đã nhìn thấy nó lúc đông người và cậu sẽ chẳng bao giờ quên. Cậu nhớ đến thanh kiếm. Cậu đau lòng một chút khi nghĩ về nó, nhưng trước đó cậu đã chẳng nhìn thấy một thanh kiếm nào giống như nó. Khi cậu trầm tư về những điều đó, cậu nhận ra rằng cậu phải chọn lựa giữa hai việc: tự cho mình là nạn nhân khốn khổ của kẻ cướp hay cho mình là người mạo hiểm đi tìm kiếm kho tàng.
“Tôi là một người thám hiểm, đang tìm kiếm kho tàng,” cậu tự nhủ.
15
Một người nào đó lay cậu dậy. Chàng trai đã thiếp ngủ giữa chợ và đời sống đã bắt đầu trở lại.
Nhìn chung quanh, cậu tìm kiếm đàn cừu và nhận ra rằng cậu đang ở trong một thế giới mới. Nhưng thay vì buồn bã, cậu vui vẻ. Cậu không còn phải tìm kiếm đồ ăn và nước uống cho đàn cừu, thay vào đó cậu có thể đi tìm kho tàng. Cậu không có một xu nào trong túi, nhưng cậu có niềm tin. Tối qua cậu đã quyết định là cậu muốn trở thành người mạo hiểm, giống như những người mà cậu ngưỡng mộ trong sách.
Cậu thong thả đi qua khu chợ. Người buôn bán dựng quầy bán hàng, và cậu giúp người bán kẹo dựng quầy. Người bán kẹo có nụ cười trên khuôn mặt: ông hạnh phúc, hài lòng với cuộc sống của mình và sẵn sàng bắt đầu ngày làm việc mới. Nụ cười của ông làm cậu nhớ đến ông già – ông vua già bí ẩn mà cậu đã gặp. “Người bán kẹo này không phải làm bánh kẹo để sau này có thể du hành hay cưới con gái ông chủ tiệm. Ông làm bánh kẹo chỉ vì đó là cái mà ông thích làm,” chàng trai nghĩ. Cậu nhận ra rằng cậu có thể nhận ra cùng một việc như ông già đã làm: cảm thấy một người ở gần hay xa ‘huyền thoại riêng’ của họ. Thật đơn giản, nhưng trước đây cậu đã chẳng bao giờ nhận thấy, cậu nghĩ.
Khi đã dựng quầy xong, người bán kẹo biếu chàng trai chiếc kẹo đầu tiên ông mới làm ngày hôm nay. Cậu cám ơn, ăn nó và tiếp tục con đường của mình. Khi đi một quãng xa, cậu nhận ra rằng khi dựng quầy, một người nói tiếng Ả rập và người kia nói tiếng Tây ban nha.
Và họ hiểu nhau hoàn toàn.
“Phải có một ngôn ngữ không tùy thuộc vào chữ nghĩa,” cậu nghĩ. “Trước đây tôi đã cảm thấy như thế với đàn cừu, và bây giờ đối với con người cũng vậy.”
Cậu đang học nhiều điều mới. Một vài điều cậu đã trải qua và thực sự không hoàn toàn mới mẻ, nhưng trước đây cậu đã không nhận thức được điều đó. Và cậu đã không nhận thức được, bởi vì cậu quá quen với chúng. Cậu nhận ra: “nếu tôi học để hiểu được ngôn ngữ không lời này, tôi có thể học để hiểu thế giới.”
Khoan thai và chậm rãi, cậu quyết định đi xuyên các con đường hẹp của Tangier. Chỉ qua cách này cậu mới có thể đọc được những điềm. Cậu biết điều đó đòi hỏi nhiều kiên nhẫn, nhưng những người chăn cừu biết kiên nhẫn. Một lần nữa cậu thấy rằng trên mảnh đất xa lạ này cậu đang áp dụng cùng bài học cậu đã học với đàn cừu.
“Tất cả mọi việc chỉ là một,” ông già đã nói.
16
Người bán pha lê thức dậy và cảm thấy cùng nỗi lo âu như ông đã cảm thấy mỗi ngày. Ông đã ở chỗ này gần ba mươi năm, tiệm của ông nằm trên đỉnh dốc, nơi chỉ có vài khách hàng qua lại. Bây giờ đã quá trễ để thay đổi – cả đời ông đã chỉ học một việc là mua và bán đồ thủy tinh. Đã có một thời tiệm ông được nhiều người biết tới: thương gia Ả rập, các nhà địa chất người Pháp và Anh, những quân nhân Đức; tất cả có đầy tiền. Thời đó nghề bán thủy tinh thật tuyệt vời, và ông đã nghĩ đến cách trở nên giàu có và có những bà vợ đẹp bên cạnh khi về già.
Nhưng khi thời gian trôi qua, Tangier đã thay đổi. Thành phố Ceuta bên cạnh phát triển nhanh hơn và việc buôn bán trở thành ế ẩm. Những người hàng xóm chuyển đi hết, chỉ còn lại vài tiệm nhỏ trên đồi. Và chẳng ai muốn trèo lên đồi để dạo qua vài tiệm nhỏ.
Nhưng người bán pha lê không có chọn lựa. Ba mươi năm qua ông chỉ mua và bán pha lê, và bây giờ đã quá trễ để thay đổi nghề khác.
Suốt cả buổi sáng ông quan sát người đi lại trên đường. Ông đã làm như thế nhiều năm rồi và ông biết thời khóa biểu của từng người đi ngang qua. Nhưng vừa trước giờ ăn trưa, một chàng trai ngừng lại trước tiệm. Cậu ăn mặc bình thường, và đôi mắt từng trải của ông chủ tiệm pha lê có thể nhìn thấy rằng cậu không có tiền để mua. Tuy vậy, ông vẫn quyết định dời bữa ăn lại vài phút cho đến khi chàng trai đi khỏi.
17
Tấm biển treo trên cửa loan báo tiệm này có thể nói được nhiều thứ tiếng. Chàng trai nhìn thấy người đàn ông sau quầy.
“Nếu ông muốn, cháu có thể lau chùi những bình thủy tinh trong tủ kính cho ông,” chàng trai nói. “Trông như thế này, không ai muốn mua nó.”
Người đàn ông nhìn cậu không nói gì.
“Đổi lại, ông có thể cho cháu một ít đồ ăn.”
Người đàn ông vẫn lặng thinh, và chàng trai cảm thấy mình phải tự quyết. Trong bị cậu có một áo khoác – chắc chắn cậu không còn cần đến nó trong sa mạc. Lấy áo khoác ra, cậu bắt đầu lau những ly thủy tinh. Chỉ nửa giờ sau, cậu đã lau sạch tất cả các ly trong tủ kính, và trong khi cậu làm việc, hai khách hàng đã vào mua vài đồ pha lê trong tiệm.
Sau khi lau chùi, cậu xin ông chủ cho chút gì để ăn. “Chúng ta hãy đi ăn,” ông chủ nói.
Ông treo một tấm biển trước cửa và họ đi sang hàng cà phê bên cạnh. Vừa khi ngồi xuống chiếc bàn duy nhất trong quán, ông chủ tiệm pha lê cười.
“Chính ra cháu không phải lau chùi gì cả,” ông nói. “Sách Koran dạy chúng tôi phải cho người đói ăn.”
“Thế thì tại sao ông lại để cháu làm việc như thế?” chàng trai hỏi.
“Bởi vì thủy tinh quá dơ bẩn. Và cả hai, tôi và cháu, đều cần phải lau chùi trí óc chúng ta khỏi những tư tưởng tiêu cực.”
Sau khi ăn xong, ông quay sang phía chàng trai và nói, “Ông muốn nhận cháu làm việc trong tiệm. Hôm nay, trong lúc cháu làm việc, đã có hai khách hàng vào mua, và đó là một điềm tốt.”
“Người ta nói nhiều về điềm,” chàng chăn cừu nghĩ. “Nhưng thực sự họ không hiểu những gì họ nói. Cũng như tôi đã chẳng nhận ra rằng trong nhiều năm tôi đã nói ngôn ngữ không lời với đàn cừu của tôi.”
“Cháu có muốn làm việc cho ông không?’ ông ta hỏi.
“Cháu có thể làm việc suốt ngày hôm nay,” chàng trai trả lời. “Cháu sẽ làm qua đêm, đến rạng sáng, và cháu sẽ lau sạch mọi đồ thủy tinh trong tiệm ông. Để đổi lại, cháu cần tiền để đi Ai cập ngày mai.”
Ông chủ tiệm cười. “Ngay cả nếu cháu lau đồ thủy tinh của ông cả năm… ngay cả nếu cháu nhận được tiền hoa hồng cao qua việc bán hàng, cháu vẫn phải mượn tiền đi Ai cập. Từ đây đến đó là cả nghìn cây số sa mạc.”
Một sự yên lặng sâu thẳm, dường như cả thành phố đang ngủ. Không có âm thanh từ phía chợ, không tiếng qua lại của người buôn, không người nào trèo lên tháp cao cầu nguyện. Không hy vọng, không mạo hiểm, không có ông vua già hay ‘huyền thoại riêng’, không kho tàng và không Kim tự tháp. Dường như cả thế giới yên lặng vì trái tim chàng trai im lặng. Cậu ngồi đó, nhìn trống vắng qua khung cửa quán cà phê, ước mong có thể chết và mọi vật chấm dứt ngay lúc ấy.
Ông chủ quán băn khoăn nhìn chàng trai. Tất cả niềm vui mới sáng nay ông thấy nơi cậu chợt biến mất.
“Ông có thể cho cháu tiền để về lại quê hương, cháu ạ.” Ông nói.
Chàng trai không nói gì. Cậu đứng lên, chỉnh lại quần áo và nhặt chiếc bị.
“Cháu sẽ làm việc cho ông,” cậu nói.
Và sau một lúc yên lặng, cậu nói thêm: “cháu cần tiền để mua mấy con cừu.”