– “Người xứng đáng được thưởng huy chương thứ nhì trong tuần này là học sinh Piêtơrô Prêcôtxi, xứng đáng vìđã học tốt ở trường, và ở nhà, vì rất thuộc các bài học và viết chữđẹp”.Tất cả học sinh đều tự nhiên ngoảnh nhìn Prêcôtxi, điều đó chứng tỏ các bạn đã vui lòng biết bao về cái phần thưởng này. Prêcôtxi đứng dậy, lúng túng, đến nỗi không biết nên làm gì nữa.
“Mời cậu lên đây” ông thanh tra nói. Prêcôtxi ra khỏi ghế, bước lên đứng cạnh bàn thầy giáo Ông tổng thanh tra nhìn chăm chú khuôn mặt bé nhỏ vàng như sáp, cái thân hình bé nhỏ trong bộ quần áo bị thủng rách và bạc màu, đôi mắt hiền hậu và buồn rầu, biểu lộ chuỗi dài những đau khổđã phải chịu đựng, rồị vừa gắn chiếc huy chương lên ngực cho cậu, vừa nói giọng rất dịu dàng.
– Prêcôtxi, tôi thưởng cậu chiếc huy chương này vì không ai xứng đáng được đeo hơn cậu. Tôi thưởng cho cậu không phải vì cậu thông minh và có thiện chí, tôi thưởng cho lòng tốt, cho sự can đảm của cậu, cho đức tính của người con quả cảm và trung hậu, – Rồi ông hỏi cả lớp – Có phải là bạn cũng đáng thưởng vì lòng hiếu thảo của một đứa con đối với cha mẹ nữa không?
– Vâng ạ, vâng ạ? – Học sinh đồng thanh đáp lại, bao nhiêu người nhưng chỉ có một tiếng. Prêcôtxi quay nhìn chúng tôi, đôi mắt biểu lộ một lòng biết ơn vô hạn.
– Thôi, con về chỗ, chúc con sung sướng, ông tổng thanh tra nói. Đã đến giờ tan học. Lớp chúng tôi được ra trước các lớp khác. Vừa qua ngưỡng cửa, chúng tôi thấy bố cậu Prêcôtxi bác thợ rèn, ở gian phòng trước, mặt tái nhợt như mọi khi, đôi mắt hung tợn, tóc xõa xuống tận mắt, chiếc mũ lưỡi trai đội lệch, hai chân không đứng vững. Thầy giáo nhận ra bác ta ngay và ghé tai ông thanh tra nói mấy câu. Ông này liền tìm Prêcôtxi, nắm tay cậu và dẫn đến chỗ bố cậu. Cậu bé run lên. Thầy giáo và thầy hiệu trưởng đi theo cậu, nhiều học sinh đi quanh họ. Ông là bố của cậu này phải không ạ?” ông thanh tra hỏi bác thợ rèn giọng rất thân ái, rồi không chờ câu trả lời ông nói tiếp: “Tôi xin chía sẻ niềm vui với ông. Ông hãy nhìn xem, cậu vừa được huy chương thứ nhì trong lớp trên năm mươi bốn học sinh. Về văn, về toán, về mọi mặt cậu đều xứng đáng cả. Đây là một cậu bé rất thông minh và đầy nghị lực, sau này cậu sẽ thành tài, một cậu con trai tất, mọi người đều quý mến, ông có thể hãnh diện vì cậu, tôi xin bảo đảm với ông như vậy?”. Bác thợ rèn đứng nghe, mồm há hốc; bác nhìn chằm chằm ông thanh tra, thầy hiệu trưởng, rồi đưa mắt nhìn con mình đangđứng trước mặt, mắt nhìn xuống đất; run rẩy’ dường như lần đầu tiên bác chợt hiểu ra tất cả những nỗi đau khổ mà bác đã đem đến cho đứa bé tội nghiệp này, và nó đã trung hậu kiên trì, anh dũng chịu đựng những nỗi đau khổ như thế nào, bác thợ rèn như biểu lộ nỗi kinh ngạc gần như sửng sốt, nỗi đau đớn quằn quại trong lòng, và cuối cùng một niềm thương yêu vừa mãnh liệt vừa buồn rầu. Vội vàng bác kéo con về phía mình và ôm chặt nó vào lòng. Tất cả chúng tôi đi qua trước hai bố con. Tôi mời Prêcôtxi thứ năm tới nhà tôi chơi cùng với Garônê và Crôtxi. Các bạn khác chào cậu, có bạn vuết ve cậu khi đi qua, bạn khác sờ, ngắm chiếc huy chương của cậu, tất cả ai cũng nói với cậu một lời gì đó. Và ông bố nhìn chúng tôi sửng sốt, càng siết chặt đầu đứa con đang thổn thức vào ngực mình.
Tức thì, tôi cầm cả hai tay cái đầu máy và các toa xe đưa cho Prêcôtxi và nói: “Này, Bạn cầm lấy, của bạn đấy!” Cậu nhìn tôi, không hiểu. “Của bạn đấy, – tôi nhắc lại, – tôi biếu bạn”. Prêcôtxi kinh ngạc nhìn bố, mẹ và hỏi tôi: “Nhưng tại sao vậy?”
– Enricô biếu cháu đấy, – bố nói, – vì cháu là bạn nó và nó yêu cháu lắm. ..ấy là mừng cháu được huy chương… Prêcôtxi rụt rè hỏi: Thế cháu có thểđem về… nhà cháu? Tất nhiên. Lúc ra về, đứng trên ngưỡng cửa Prêcôtxi vẫn chưa dám mang theo của báu của cậu. Cậu sung sướng quá và nói khe khẽ: “Xin lỗi”, đôi môi run rụn và tươi cười.
Garônê giúp bạn bọc chiếc xe lửa trong cái khăn tay, và khi cúi xuống cậu làm kêu lạo xạo những chiếc bánh ngọt mà Mẹ đã nhét đầy các túi cho cậu.
Prêcôtxi nói với tôi: “Thế một ngày vào bạn sẽ đến chơi ở xưởng của bố tôi chứ? Tôi sẽ biếu bạn những chiếc đinh?”
Mẹ lại cài vào khuyết áo dài của Garônê một bó hoa nhỏđể cậu đem về tặng hộ mẹ cậu. Garônê Cám ơn, giọng ồm ồm, đầu không ngẩng lên, nhưng đôi mắt phản chiếu tâm hồn cao thượng và trung hậu của cậu:
Hôm qua, Nôbitx phàn nàn với thầy giáo là cậu bé người Calabria chạm bàn chân vào ống quần của nó. Thầy hỏi cậu bé Calabria: Cậu có cố ý không” Thưa thầy, không ạ, – cậu bé thành thật trả lời.
– Nôbitx! Cậu thật khó tính quá sức, – thầy bảo. Nôbitx trả lời cách khinh khỉnh:
– Tôi sẽ mách bố tôi. Thầy Pecbôni liền quát lên:
– Bố cậu sẽ cho là cậu có lỗi, cũng như lần trước thôi. Vả lại, ở đây, chỉ có tôi mới là người phán xử mọi việc. Rồi giọng dịu dàng hơn, thầy nói tiếp: “Này, Nôbitx, hãy ăn ở nhã nhặn và trung hậu hơn với các bạn một chút đi. Tại sao cậu lại không làmđược như những người khác? Làm thế cậu sẽ được vui lòng hơn nhiều, cậu có gì cần trả lời tôi không” Nôbitx nghe thầy giáo nói vẫn với nụ cười khinh khỉnh theo thói quen của nó, và trả lời lạnh nhạt:
Thưa thầy, không.
– Ngồi xuống, – thầy Pecbôni bảo, – tôi rất phàn nàn cho cậu, cậu là một đứa bé không có quả tim?
Câu chuyện tưởng là kết thúc, thì cậu bé thợ nề ngồi ở bàn đầu, quay cái mặt tròn trĩnh về phía Nôbitx ngồi ở bàn cuối, và làm cái trò sứt môi, hài hước đến nỗi cả lớp phải phá lên cười. Thầy giáo mắng cậu, nhưng cũng phải lấy tay che mồm để giấu sự buồn cười của mình. Nôbitx cũng cười, nhưng cái cười bực bội và tức tối không đánh lừa được ai.
Chúng tôi đang cùng với bố nhìn một số trẻ em học lớp hai nằm soài ra mặt băng, lấy áo tơi và mũ cát két cọ băng cho trơn để mà trượt cho dễ, thì bỗng thấy từ cuối phố kéo đến một đámđông người đi rất nhanh, vẻ nghiêm trọng và kinh hãi, và nói với nhau khe khẽ, giữa đám đông là ba người vệ binh thành phố, phía sau họ hai người khiêng một cái cáng. Học sinh từ tứ phía chạy lại. Đoàn người tiến về phía chúng tôi; người ta thấy một người đàn ông nằm trên cáng. Ông ta nhợt nhạt như một cái xác chết, đầu rủ xuống một bên tai, tóc rối bù, bê bết máu; và máu cững chảy từ mồm, từ tai ông ta ra, thật là khủng khiếp. Một người đàn bà đi bên cạnh cáng, bế một đứa bé; bà ta như điên cuồng vì đau khổ và bỗng kêu lên: “Ông ấy chết rồi, chết rồi!.
Đi theo sau người đàn bà là một đứa bé con trai, tay cắp cặp học sinh; đứa bé khóc nấc lên. “Cái gì thế” bố tôi hỏi. Một khách qua đường trả lời rằng đó là một người thợ nề bị ngã từ gác tư xuống trong khi đang làm việc.
Những người khiêng cáng dừng lại một lát. Nhiều người trong số chúng tôi quay mặt đi vì khiếp sợ. Tôi thấy cô giáo đội mũ cắm chiếc lông đỏ phải đỡ cô giáo lớp một trên của tôi, gần ngất đi. Cùng lúc ấy tôi thấy có người chạm vào khuỷu tay.Đó là cậu bé thợ nề, mặt tái nhợt; cậu run như cầy sấy. Chắc là cậu nghĩ đến bố. Tôi cũng nghĩ đến bố tôi. Khi ở trường tôi rất yên tâm vì tôi biết là bố đang ở nhà, ngồi trước bàn giấy, xa mọi sự nguy hiểm. Nhưng biết bao nhiêu bạn tôi lại nghĩ rằng bố họ đang làm việc trên một chiếc cầu rất cao hay cạnh những bánh xe của một chiếc máy, mà một động tác, một bước hụt có thể làm cho thiệt mạng: họ khác nào con của những người lính, mà bố đang ra trận?
Cậu bé thợ nề càng nhìn càng run; bố trông thấy và bảo cậu: “Cháu về đi, cháu ạ; chạy nhanh về với bố cháu, cháu sẽ thấy bố cháu mạnh khỏe, yên lành”.
Cậu bé thợ nềđi về, nhưng cứđi vài bước lại ngoái lại. Đám người lại đi, và người đàn bà đáng thương cứ kêu lên thảm thiết. “Ông ấy chết rồi, chết rồi!”. Không ai cầm lòng cho được.
Không, không, ông ấy không chết. – người ta nói với bà từ khắp mọi phía. Nhưng bà không nghe và cứ kêu van mãi. Bỗng tiếng một ai hét lên, tức giận: “Cười à?” Tôi quay lại và thấy một người râu đen đang nhìn Phranti, thằng này vẫn còn cười. Người đó giật lấy mũ lười trai của cái thằng bụng dạ độc ác ấy ném xuống đất và nghiêm khắc bảo nó rằng: “Đồ khốn khổ, ít nhất cũng phải bỏ mũ chào khi trông thấy một người bị tai nạn lao động đi qua”.
hết: THÁNG HAI, xem tiếp: NGƯỜI TÙ
|