ING.450

Trời bắt đầu tối khi ông Brownlow bước xuống từ một cỗ xe ngựa đỗ trước cửa nhà. Cửa mở, một người đàn ông vạm vỡ xuống xe, đứng ngay ở bậc thềm trong khi đó một người đàn ông khác đang ngồi trên ghế cũng bước xuống đứng cạnh người kia. Họ lôi từ trong xe ra một nhân vật thứ ba, đặt hắn vào giữa cả hai người và dùng sức kéo hắn vào trong nhà. Nhân vật được nói đến này chẳng là ai khác ngoài Monks.

Họ bước lên cầu thang và vào một căn phòng nhỏ. Monks không chịu bước tới đã chống cự.

– Nếu nó chống cự lần nữa và còn khẽ động đậy, hãy lôi nó ra ngoài đường, gọi cảnh sát và họ sẽ bắt nó như một tay làm hàng giả. – ông Brown-low giận dữ thốt lên.

– ông lấy quyền gì mà cho người bắt tôi ngay giữa đường? – Monks hỏi. Hắn bắt đầu nhận thấy mọi sự chống cự là vô ích..- Lấy quyền riêng của ta. – ông già đáp. – Ta chịu trách nhiệm về hành vi này. Ta nhắc lại với anh rằng vì quyền lợi của mình, anh nên ở cho yên, nếu không ta giao anh vào tay cảnh sát. Hãy ngồi vào chiếc ghế bành này. Nó đợi anh từ hai ngày nay rồi đấy.

Monks nhìn ông lão với vẻ lo lắng. Thấy thái độ cương quyết của ông, hắn bước vào phòng và ngồi lên chiếc ghế mà ông Brownlow đã chỉ.

– Là bạn cũ của bố tôi, – Monks vừa nói vừa cởi mũ và áo khoác ra, – mà ông đối xử với tôi theo kiểu lạ lùng thật.

– Chính vì ta từng là bạn của bố anh, – ông Brownlow nói tiếp, – chính vì những kỳ vọng của ta thời trẻ đã đặt vào ông và cô em gái, sinh linh tuyệt mỹ mà Chúa đã gọi về với Người đúng vào ngày tôi cưới nàng, chính bởi những kỷ niệm đó luôn tràn ngập tâm hồn ta mà ta mới có thể nói với anh như thế này, Edouard Leeford. Anh phải hổ thẹn vì đã làm ô danh dòng họ của cha anh và em gái ông ấy.

– Thế nào mà họ của tôi lại can thiệp vào chuyện này?

– Đấy chính là họ của em gái bố anh, và dù nhiều năm đã trôi qua, ta vẫn không thể thốt lên nó mà không xúc động. Ta đau khổ thấy tên họ này bị vấy bẩn bởi một người như anh.

– Tất cả chuyện này hay đấy nhỉ! – Monks nói.

– Nhưng ông muốn đi đến cái gì chứ?

– Anh có một người em trai. – ông Brownlow vừa nói vừa cố che giấu cảm xúc.

– Tôi không có em trai. – Monks đáp. – ông biết rõ rằng tôi là con trai duy nhất. Sau vài năm kết hôn, bố mẹ tôi do ít hòa thuận đã chia tay nhau. Sau đấy ít lâu bố tôi mất.

– Bố anh trẻ hơn mẹ anh rất nhiều. ông ấy bị bố ép buộc lấy mẹ anh. Sau nhiều cuộc cãi vã, mẹ anh tìm thấy những trò giải trí phù phiếm ở đại lục, còn bố anh kết thân với nhiều bạn mới ở Anh.

– Tất cả những điều đó có liên quan gì đến tôi? – Monks vừa hỏi vừa nhún vai.

– ông ấy trở thành bạn của một sĩ quan hàng hải về hưu góa vợ có hai cô con gái, một cô mười chín tuổi còn cô kia chỉ khoảng hai hay ba tuổi.

Bố anh yêu cô gái trẻ. Cô gái trong trắng và ngây thơ này cũng chia sẻ tình cảm đó.

– Câu chuyện của ông không kết thúc ở đó chứ.

– Câu chuyện này kết thúc một cách bi thương.

Bố anh phải tới Rome, ở đấy ông đã bị nhiễm một căn bệnh chết người. Khi biết được tin này, mẹ anh vội vã dẫn anh đến đấy. Bố anh qua đời mà dường như không hề để lại một di chúc nào nên toàn bộ tiền bạc của ông ấy thuộc về mẹ anh và anh..Monks lắng nghe rất chăm chú.

– Trước khi ra đi, bố anh đã đến gặp ta ở Luân Đôn. ông bộc bạch với ta tình yêu của mình với cô gái trẻ. ông nói với ta rằng ông không thể cưới cô ấy vì quyết định ly dị giữa ông và vợ vẫn chưa được tuyên bố. Tuy nhiên ông muốn bảo đảm cho cô ấy một tương lai chắc chắn. ông không thổ lộ với ta đầy đủ hơn.

ông Brownlow trầm ngâm một lúc lâu.

– Sau khi hay tin ông từ trần, – ông nói tiếp, – ta quyết định đến thăm cô gái và gia đình cô. Họ đã rời bỏ quê hương và ta không hề biết lý do của chuyến đi ấy.

Monks hít thở thoải mái hơn và nhìn quanh với vẻ đắc thắng.

– Ta đã mất công tìm kiếm cô gái. Bố anh giao cho ta bức chân dung của cô. Tuy vậy, ta được biết rằng cô ấy đang mang thai và bố của cô ấy đã chết vì buồn phiền. Một ngày, tình cờ khiến ta gặp Oliver, cậu bé giống đến ngạc nhiên bức chân dung mà bố anh đã trao gửi cho ta. Đó chỉ có thể là con trai của bố anh và cô gái trẻ tên là Agnès.

– ông không hề có một chứng cứ nào về những gì ông đưa ra. – Monks đáp với vẻ gây gổ.

– Rồi chúng ta xem xem, anh bạn. Trước hết anh biết rằng bố anh đã để lại một di chúc nhưng mẹ anh đã tiêu hủy nó và lúc hấp hối bà đã thổ lộ bí mật này cho anh… Sau đó, anh có biết sự tồn tại của em mình bởi vì anh đã đến nơi cậu bé sinh ra và anh đã đạt được việc chiếm đoạt những chứng từ về nguồn gốc của em mình. Đây là những gì anh đã nói với lão Fagin, tên đồng lõa xấu xa của anh:

“Những chứng cớ duy nhất về lai lịch của thằng bé đã nằm dưới đáy sông.” Monks càng lúc càng tỏ vẻ hoảng hốt trước những tiết lộ của ông Brownlow.

– Edouard Leeford, không có một từ nào mà ta không biết. Cô gái đã nghe anh nói tất cả những lời đó với lão Fagin đã dũng cảm kể hết cho chúng ta. Cô ấy đã bị sát hại và anh dính líu đến vụ đấy về phương diện tinh thần nếu không nói là thực tế.

Monks bị đánh quỵ.

– Nếu anh bằng lòng tự tay viết những lời thú tội đầy đủ và trao trả lại cho cậu bé phần tài sản thuộc về cậu ấy, chúng ta sẽ thả anh tự do.

– Tôi đồng ý. – Rốt cục Monks nói.

Monks vừa đi quanh phòng vừa suy nghĩ đến lời đề nghị mà hắn vừa mới chấp nhận thì cánh cửa bỗng nhiên bật mở và bác sĩ Losberne bước vào trong trạng thái rất kích động.

– Tên kia sẽ bị bắt! – ông kêu lên. – Tối nay hắn sẽ bị bắt..- Kẻ sát nhân ư? – ông Brownlow hỏi.

– Vâng. – ông bác sĩ đáp. – Người ta đã nhìn thấy con chó của hắn lảng vảng quanh một ngôi nhà đổ nát. Chủ nó chắc phải trốn ở đó. Ngài tỉnh trưởng treo giải thưởng một trăm li-vrơ sterling cho người sẽ bắt được hắn.

– Tôi sẽ tặng thêm năm mươi li-vrơ nữa. – ông Brownlow tuyên bố. – Không biết anh Maylie đâu nhỉ?

– Henry ư? Anh ta đã đến chỗ mọi người đang lùng bắt tên sát nhân.

Monks bị giam trong phòng sau khi hắn hứa sẽ không tẩu thoát… và ông Brownlow đi đến đồn cảnh sát.

Một cuộc truy quét chống lại bọn trộm cướp đang lâm vào cảnh khốn đốn được khởi xướng. Lão già Fagin bị bắt đúng vào bữa ăn chiều cùng thời điểm với Claypole.

Tobie Crackit và Chitling tẩu thoát và tìm chốn nương náu trong một căn nhà tồi tàn trên đảo Jacob.

Đó là một khu xấu xa nơi chỉ có những kẻ có những lý do mờ ám khiến phải lẩn trốn mới đến trú ngụ.

Chúng cùng đi với một tên trộm trạc năm mươi tuổi, hắn vừa bị dập mũi trong một trận ẩu đả. Tên này tên là Kags.

– Lão Fagin bị bắt khi nào nhỉ? – Tên này hỏi hai tên vô lại.

– Đúng vào lúc ăn chiều, vào khoảng hai giờ.

Chúng tao cùng với Charlot thoát thân được nhờ cái ống khói.

– Thế Charlot đang ở đâu? – Kags hỏi.

– Chắc hắn lảng vảng đâu đó quanh đây, nhưng hắn sẽ không chậm trễ đến đây đâu.

Trong lúc bọn chúng đang trò chuyện thì một tiếng động lạ vang lên trong cầu thang và con chó của Sikes lao vào phòng.

– Điều này có nghĩa gì nhỉ? – Tobie nói. -Không thể có chuyện hắn đến đây được. Tao hy vọng rằng hắn sẽ không đến đây.

– Nếu hắn mà đến đây, hắn sẽ cùng đến với con chó chứ. Chắc hắn đã đi ra nước ngoài được rồi.

Không một đứa nào trong bọn trộm cướp dám nhắc tên của Guillaume Sikes. Bọn này, tuy rằng đã quen với cái ác, cũng kinh hoàng trước tội ác tàn bạo của hắn.

Đêm đến. Cả bọn đóng chặt cửa và thắp đèn.

Cả ba chỉ dám nói chuyện thì thầm, chúng cùng giật bắn người vì một tiếng động nhỏ nhất. Bỗng nhiên, có người gõ cửa một cách nài nỉ.

– Anh chàng Charlot đấy mà. – Kags nói để có thêm can đảm..Crackit đi ra cửa sổ, nhoài người nhìn xuống xem ai và nhảy lùi ra phía sau. Con chó bắt đầu gầm gừ.

– Phải mở cửa cho hắn thôi. – Tobie vừa nói vừa cầm cây đèn.

– Nhất thiết phải thế à? – Chitling hỏi.

– ừ, chúng ta không có sự chọn lựa ở đây.

Crackit đi xuống mở cửa và quay lại, theo sau là một gã đàn ông che mặt bằng một chiếc khăn tay. Hắn kéo chiếc khăn ra để lộ một gương mặt nhợt nhạt vô hồn, hai gò má hốc hác, bộ râu lâu ngày chưa cạo. Đó chỉ còn là cái bóng của Sikes mà thôi.

Hắn bồn chồn và nhìn quanh phòng. Yên lặng thật nặng nề. Cả ba tên rùng mình khi Sikes hỏi bằng một giọng đùng đục là làm thế nào con chó của hắn đến đây được.

– Nó đến đây một mình lúc ba giờ. – Crackit đáp.

– Bản tin tối thông báo rằng lão Fagin đã bị bắt rồi. – Sikes nói tiếp. – Đúng vậy à?

– Hoàn toàn chính xác.

Sự im lặng lại bao trùm.

– Quỷ thần đưa cả lũ bọn mày đi đi! – Sikes nói. – Tụi bay không có gì nói với tao à?

Cả bọn nhìn nhau lúng túng không đáp lại.

– Bọn mày có ý định giao nộp tao hay cho tao một chỗ nương thân để đợi giông tố qua đi.

– Anh có thể ở lại đây, nếu anh muốn. – Crackit đáp sau một hồi lưỡng lự.

Đúng lúc đó Charlot Bates đến. Vừa thoáng thấy Sikes, hắn giật lùi lại.

– à, này Charlot, – Sikes vừa nói vừa tiến đến, – mày không nhận ra tao à?

– Ta nhận ra ngươi quá rõ, một con quỷ, kẻ sát hại cô Nancy đáng thương.

Hắn lao vào tên Sikes vạm vỡ một cách bất ngờ đến nỗi tên này ngã nhào xuống đất. Hắn sắp đánh tên này thì Crackit đến lôi tay hắn ra và chỉ cho hắn phía cửa sổ với vẻ kinh hãi. ánh sáng lập lòe ngoài đường. Nhiều tiếng động đến gần. Người ta đập mạnh vào cửa. Chúng nghe thấy những tiếng la hét giận dữ đáng sợ.

– Cứu tôi với! – Charlot Bates dùng hết sức hét to. – Hắn ở đây!

Tiếng la hét lại vọng lên: “Đốt nhà đi! Hãy bắn vào tên sát nhân!” Một người đàn ông cưỡi ngựa tặng một khoản tiền lớn cho ai mang đến cho anh cái thang.

Cuối cùng thì cánh cửa cũng bị bật tung và đám đông tràn vào nhà..Sikes trốn trên mái nhà tìm cách tẩu thoát. Hắn không còn cách nào khác. Hắn chỉ còn một cơ may có thể thoát khỏi đám người đang truy bắt nhưng muốn vậy, hắn phải nhảy xuống từ mái nhà và băng qua con kênh ngăn cách hắn với đất liền.

Hắn tìm thấy trên gác xép một cái dây thừng, hắn đem thừng buộc vào ống khói và thắt nút thòng lọng ở đầu kia. Hắn ngồi ở mép hiên ngoài và ngay lúc hắn chui đầu qua nút thòng lọng để thắt cái nút dưới nách, thì hắn làm lỡ một động tác và bị lơ lửng trên không.

Sikes, tên sát nhân đã bị treo cổ. Công lý được thực hiện!

Đã hai ngày trôi qua kể từ những sự kiện bi thương này. Oliver đang ngồi trong phòng với cô Rose và bà Maylie. Họ thấy bác sĩ Losberne và ông Grinwig bước vào theo sau là ông Brownlow cùng với một nhân vật mà vừa trông thấy Oliver đã thét lên kinh ngạc. Đó chính là kẻ có thái độ thật lạ lùng mà em đã gặp khi ra khỏi quán trọ cách đây ít lâu. Gã này nhìn Oliver với ánh mắt đầy thù hận và ngồi xuống.

ông Brownlow cất lời.

– Ta muốn anh nhắc lại trước mặt tất cả chúng ta những gì anh đã thú nhận. – ông vừa nói vừa nhìn Monks hay chính là Edouard Leeford.

– Tôi đã viết ra tất cả rồi. – Monks nói.

– Cậu bé này, – ông Brownlow nói tiếp và đặt tay lên vai Oliver, – là em trai anh, đấy là con trai của bố anh, Edwin Leeford, người mà ta đã từng rất gắn bó, và của cô Agnès Fleming đáng thương, người đã mất khi sinh ra em.

– Đúng. – Monks vừa nói vừa nhìn Oliver đang run bắn toàn thân.

– Hãy kể phần còn lại của câu chuyện. – ông Brownlow nói với vẻ nghiêm khắc.

– Bố tôi bị ốm ở Rome, – Monks nói, – mẹ tôi đã ly thân với ông từ lâu, đến tìm lại ông và dẫn tôi theo cùng. Khi đến nơi, ông đã bất tỉnh và hôm sau thì qua đời. Chúng tôi tìm thấy một bức thư và một tờ di chúc.

– Bức thư đó dành cho ai? – ông Brownlow hỏi.

– Cho cô bạn Agnès của ông. ông bảo đảm với cô ấy rằng nếu ông chết, ông sẽ thu xếp để cô và đứa con cô đang mang thai có thể sống được tươm tất. Tất cả những điều đó được khẳng định trong tờ di chúc mà ông để lại phần lớn gia tài của mình cho cô Agnès Fleming và cậu bé mà cô sắp sinh.

Mẹ tôi, – Monks tiếp tục, – đốt tờ di chúc và bức thư không đến tay người nhận. Bà đến Anh để gặp cô Agnès và kể lể những điều vu khống tồi tệ nhất về cô. Cô gái trốn khỏi nhà, ít lâu sau ông bố qua đời để lại cô con gái nhỏ ba tuổi mồ côi..Một khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi. Ai nấy chăm chú lắng nghe.

– Mẹ tôi chết ở Pháp sau nhiều đau đớn. Bà tiết lộ cho tôi những bí mật của bà. Bà biết chắc rằng Agnès đã có một cậu con trai và cậu bé còn sống. Tôi đã thề sẽ tìm kiếm nó và trút lên nó sự hận thù của mình bằng cách biến nó thành một tên bất lương. Tôi chỉ có một mong muốn duy nhất là nhìn thấy nó lủng lẳng ở đầu dây của giá treo cổ.

Monks bắt đầu tuôn ra những lời chửi bới và nguyền rủa làm kinh hãi tất cả mọi người.

– Những bằng chứng về sự ra đời của đứa trẻ, cái nhẫn và khung ảnh nhỏ đeo cổ giờ ra sao rồi?

– ông Brownlow hỏi.

– Chúng được viên giám đốc Trại tế bần và vợ hắn bán cho tôi. Bọn họ đã đoạt được chúng từ một bà y tá già của Trại, bà ấy lấy chúng từ thi thể của Agnès. Tôi đã vứt những chứng cớ này xuống sông để thủ tiêu chúng.

Người ta dẫn ông bà Bumble vào, họ hung hăng chối việc dính líu đến vụ này. Mọi người cho họ đối chất với hai bà già từng nghe được cuộc trò chuyện giữa bà y tá đang hấp hối và bà Bumble.

– ông bà có muốn cho mời viên quản lý của hiệu cầm đồ đến không? – ông Brownlow hỏi. -Chắ c chắn ông ta nhớ rằng bà Bumble đã đến tìm những đồ trang sức này.

– Không cần thiết đâu. – ông Bumble nói. -Tất cả những chuyện đó là ý tưởng của vợ tôi đấy.

– ông bà đã giúp sức trong việc tẩu tán những tang chứng về nguồn gốc đứa trẻ này. – ông Brown-low nói với vẻ nghiêm khắc. – Hãy đi ngay đi!

ông Bumble và vợ ngượng ngùng, cúi đầu xuống đi ra ngoài.

– Anh còn một chi tiết quan trọng để nói đấy.

– ông Brownlow nói với Monks. – Cha của cô Agnès bất hạnh có hai cô con gái. Cô thứ hai giờ như thế nào rồi, khi ông bố qua đời cô ta vẫn chỉ còn là một đứa trẻ.

– Đứa trẻ này, – Monks đáp, – không còn gia đình nữa và được một gia đình nông dân nghèo khổ nhận nuôi. ông đã mất công tìm kiếm dấu tích của cô ta nhưng mẹ tôi và tôi đã tìm thấy. Sau vài năm, những người nông dân đó không thể nuôi cô bé được nữa, cô lại được một quý bà sống ở Chester nhận nuôi. Bất chấp mọi cố gắng của chúng tôi, đứa trẻ này vẫn ở lại nhà quý bà này và sống hạnh phúc. Tôi đã mất hút cô bé cách đây vài năm và tôi mới chỉ tìm thấy dấu tích của cô từ vài tháng nay.

– Cô ta giờ ở đâu? – ông Brownlow hỏi.

– Cô ấy đang tựa vào cánh tay ông..Cô em của Agnès không ai khác chính là cô Rose.

– Nhưng cô ấy chẳng vì thế mà không là cháu gái của ta! – Bà Maylie kêu lên và xiết chặt Rose trong vòng tay mình. – Đấy là đứa con rất yêu quý của ta.

– Bà đã từng là người bạn duy nhất của cháu, – Rose nói, – người bạn tốt nhất.

– Nào, tình yêu của ta, – bà Maylie vừa nói vừa âu yếm ôm cô, – hãy cùng nghĩ đến cậu bé tội nghiệp này, cậu đang muốn ôm xiết cháu vào lòng đấy.

Oliver lao vào vòng tay của người cô mới.

– ôi, cô Rose, cô không phải là cô của cháu mà là một người chị lớn. Từ khi nhìn thấy chị, em đã yêu chị như một đứa em trai yêu chị gái.

Lúc đấy Henry Maylie vừa đến.

– Em Rose thân yêu, anh vừa biết được bí mật về nguồn gốc của em. Cha em là một người đáng kính. Cuối cùng em đồng ý lấy anh chứ hay em còn bắt anh phải đau khổ đến bao giờ nữa.

– ôi Henry, Henry! – Cô gái nói trong nước mắt giàn giụa. – Em không muốn gì khác ngoài hạnh phúc của anh dành cho em.

Trong khi những cảnh tượng cảm động hạnh phúc này diễn ra thì Tòa án cấp cao Luân Đôn đang xét xử Fagin và đồng bọn. Căn phòng chật ních người: Lão Do Thái dường như không biểu lộ một chút lo âu nào. Khi những vị quan tòa và luật sư nói lão vẫn lặng thinh bất động.

Cuối cùng thì bồi thẩm đoàn sau khi đã rút vào bàn luận, quay trở lại phòng và tuyên án lão phạm tội. Lão Fagin bị kết án treo cổ.

Noé Claypole được ân xá vì đã tố cáo lão Do Thái. Hắn đánh giá rằng nghề này không chắc ăn như hắn tưởng, nên đã tìm cách khác để kiếm tiền mà không chịu quá nhiều cực nhọc và cuối cùng bước vào ngành công an mật. Có dịp, hắn lại bỏ túi vài khoản tiền phạt do những chủ quán bán nước uống không được phép nộp.

Charlot Bates kinh hoàng bởi tội ác của Sikes cũng tự hỏi liệu có tốt hơn chăng nếu từ nay trở đi sống một cuộc đời lương thiện. Bước khởi đầu quả là khó khăn. Nhưng hắn biết yên phận chút ít và tỏ rõ thiện ý của mình. Sau khi đi làm công ở trang trại rồi đánh xe bò, hắn trở thành một gã chăn nuôi vui vẻ nhất của vùng Northamptonshire.

ông bà Bumble bị cách chức ở Trại tế bần.

Cuộc đời họ sống trong cảnh khốn cùng và được chấp nhận vào Trại tế bần nơi họ từng lãnh đạo..Mọi người để lại cho Monks một phần của thừa kế để hắn có cơ may làm lại cuộc đời. Hắn đến châu Mỹ dưới một cái họ khác. Tại đây hắn tiêu pha nhanh chóng gia tài của mình và quay lại con đường cũ. Hắn bị bắt giam bởi những trò lừa gạt mới và chết trong tù.

Ba tháng sau những sự kiện bi đát mà chúng tôi đã kể, cô Rose Fleming và ông Henry Maylie kết hôn ở nhà thờ của làng. Cùng ngày đó, họ dọn đến ngôi nhà mới đầy hạnh phúc của mình.

Bà Maylie đến ở cùng con trai và con dâu để được sống yên bình những năm cuối đời và vui ngắm hạnh phúc của những đứa con bà từng chăm nom chu đáo hết lòng.

Giles và Brittles vẫn giữ công việc cũ. Giờ đây, người này đã hói đầu còn người kia tóc bạc trắng nhưng họ vẫn luôn tận tụy với bà Maylie và các con của bà.

ông bác sĩ Losberne về nghỉ ở Chertsey. ông nhường khách hàng của mình cho một anh bạn đồng nghiệp trẻ tuổi và thuê một ngôi nhà gần ngay cổng làng. ông bắt đầu thú vui làm vườn, trồng cây, câu cá và đóng đồ gỗ. ông kết thân chân thành với ông Grinwig và ông này chẳng bỏ lỡ dịp nào đến thăm ông bạn.

ông Brownlow nhận nuôi Oliver và họ cùng chung sống với bà Bedwin nhân hậu, chỉ cách nơi cặp vợ chồng trẻ định cư một cây số. Vì vậy, Oliver có thể đến thăm họ thường xuyên.

ông Brownlow ngày càng gắn bó hơn với Oliver, cậu còn là một cậu bé có tài và việc học tập của cậu tỏ ra xuất sắc.

Hạnh phúc của Oliver gần như hoàn hảo.

Nhưng em thường hay nghĩ đến bà mẹ của mình với nỗi buồn man mác và thường chiêm ngưỡng chân dung của mẹ.

ông Brownlow đã nhận ra điều này và ông có một ý tưởng tinh tế là lập tại nhà thờ làng bên một tấm bia mộ trên đó chỉ ghi một cái tên duy nhất, tên của mẹ Oliver “Agnès”.

Có lẽ hình bóng của người phụ nữ này thỉnh thoảng vẫn đến nơi linh thiêng ấy và bao bọc Oliver trong sự che chở và tình thương yêu của bà chăng?.

HẾT

Trở Lại

Tìm Kiếm