Ông QUÁCH TÒNG ĐỨC

(qua Ông Lâm Lễ Trinh)

 

Ông Lâm Lễ Trinh vừa phổ-biến một bài-viết như sau:

“CHÍN NĂM BÊN CẠNH TỔNG THỐNG NGÔ ÐÌNH DIỆM

Mạn đàm với cựu Ðổng lý QUÁCH TÒNG ÐỨC

“Tuy là bạn tâm giao với người viết từ lâu, ông Quách Tòng Ðức luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng khi nhắc đến những năm dài làm Ðổng lý Văn phòng cho Tổng thống Ngô Ðình Diệm,

Vân vân…

LÂM LỄ TRINH

Ngày Quốc khánh Hoa kỳ 2005

Thuỷ Hoa Trang

Californie”

Vì bài-viết ấy có đề-cập đến một số vấn-đề lịch-sử mà Ông Lâm Lễ Trinh ghi lại qua cuộc mạn-đàm với Ông Quách Tòng Đức, xen lẫn với lời bình-luận của chính Ông Trinh, nhưng không rõ-ràng, thậm chí không đúng, nên tôi xin nêu một số thiển-ý sau đây để được rộng đường dư-luận:

1)  Ông Ngô Đình Diệm về nước vào ngày nào ?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Hiệp định Genève, ký ngày 20.7.1954, chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17.  Trong đám đông quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi trường Tân Sơn Nhứt có ông Nguyễn Ngọc Thơ, … cùng đi với ông Quách Tòng Đức.  Thủ tướng Diệm – kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ – mời ông Thơ tham gia Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ.  Ông Thơ chọn ông Đức làm Đổng lý Văn phòng năm 1954.”

Ý-Kiến:

Người-đọc đọc đoạn văn trên, hiểu là sau khi Hiệp Định Genève đã được ký vào ngày 20.7.1954, Ông Ngô Đình Điệm mới về nước.  Ông Nguyễn Ngọc Thơ và Ông Quách Tòng Đức là hai nhân-vật đã ra phi-trường Tân Sơn Nhất “đón tiếp nồng-nhiệt” Ông Diệm lúc ông Diệm về nước; và vì hai ông Thơ và Đức nồng-nhiệtvới Thủ-Tướng Diệm như thế nên Ông Thơ được mời làm Bộ-Trưởng Nội-Vụ và ông này chọn Ông Đức làm Đổng-Lý Văn-Phòng.

Nhưng sự thật thì Ông Diệm đã về nước trước rồi (xem bài “Ông Ngô Đình Diệm về nước ngày nào?”của Lê Xuân Nhuận, trích dẫn nhiều tác-giả viết các ngày khác nhau: 21, 25, 26 tháng 6.1954) từ cuối tháng 6.1954, thành-lập chính-phủ từ ngày 6.7.1954, và làm lễ ra mắt nội-các vào ngày 7.7.1954 (được gọi là “Ngày Song-Thất”), tức là 13 ngày trước ngày ra đời của Hiệp Định Geneva 20.7.1954 cơ mà.  Vả lại, nội-các ấy gồm có 7 tổng-trưởng, và một số bộ-trưởng (trong đó ôngThơ là một bộ-trưởng), mà Bộ-Trưởng thì là thấp hơn Tổng-Trưởng (xem chú thích 1 ở cuối bài) chứ có ưu-tiên gì cho Ông Thơ đâu.

Như thế, thì:

(a)  Mệnh-đề “Hiệp Định Gevève…” viết ra là thừa, hoặc được đặt sai thứ-tự và trình-tự thời-gian trong đoạn văn tóm-tắt lịch-sử ấy;

(b)  Vỉệc hai ông Thơ và Đức tham-gia nội-các không phải là “được thưởng” về sự “đón tiếp nồng-nhiệt” kể trên, cho nên từ-đoạn “đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm…” viết ra cũng là thừa.  Nếu muốn nói là Ông Thơ và Ông Đức được Thủ-Tướng Diệm đặc-biệt tín-nhiệm thì nên nêu ra những lý-do khác, hơn là chỉ nhờ vào sự “đón tiếp nồng nhiệt”, vì họ cũng chẳng khác gì “đám đông quần chúng” (?) ra đón Ông Diệm mà thôi (xem chú thích 2 ở cuối bài).

2)  Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng-Thống vào ngày nào ?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại.  Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng thống, ông Diệm thiết lập nền Đệ nhứt Cọng hoà VN.  Quân đội tổ chức một cuộc diễn binh huy hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới quyền điều khiển của Dương Văn Minh, vừa vinh thăng Thiếu tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên taị Rừng Sát.”

Ý-Kiến:

Thủ-Tướng Ngô Đình Diệm truất-phế Quốc-Trưởng Bảo Đại qua cuộc “trưng-cầu dân-ý” (xem chú thích 3 ở cuối bài) vào ngày 23.10.1955, xong tuyên-bố Hiến-Ước tạm-thời vào ngày 26.10.1955; và theo Hiến Ước ấy thì “Việt-Nam là một nước Cộng-Hòa, Quốc-Trưởng lấy danh-hiệu là Tổng-Thống VNCH”, cho nên Thủ-Tướng Diệm trở thành tổng-thống và Việt Nam trở thành Việt-Nam Cộng-Hòa ngay vào ngày 26.10 năm 1955 (chứ không phải đợi đến ngày 26.10 năm 1956 như ông Trinh viết) (xem chú thích 4 ở cuối bài).

3)  Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục được Giáo Hoàng phục-hồi chức-tước gì?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail..v..v..), ông Đức cho rằng TT Diệm tin TGMThục không làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà thánh Vatican sau 1975, TGM  Ngô Đình Thục được Giáo hoàng phục hồi chức tước về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên tại một Viện dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri.”

Ý-Kiến:

Phục hồi” là (cho) trở lại “y như” tình-trạng cũ.  “Chức tước” cũ (sau cùng) của giáo-sĩ Pierre Martin Ngô Đình Thục, trong thời cực-thịnh của tổng-thốngNgô Đình Diệm, là Tổng Giám Mục, Địa Phận Huế.

Tgm Thục qua La Mã dự Công Đồng Vatican II, và sau cuộc “Cách Mạng 1-11-1963” thì không được phép về lại Việt Nam, vì đã dính-líu bất-chính vào chế-độ độc-tài Ngô Đình Diệm (chính Toà Thánh Vatican cũng đã lên tiếng phản-đối TT Diệm về vụ này), nên sống lưu vong.  Cuối thập-niên 1960 và trong thập-niên 1970, Tgm Thục ngả theo giáo-phái Palmar de Troya ở Tây Ban Nha, phong chức giám-mục trái phép cho một số người, trong đó có Dominguez Gomez (là kẻ sau đó tự-xưng đã được thần bí phong chức Giáo-Hoàng, của Giáo-Hội mới, là Ky Tô Giáo Palmar, nghịch với Ky Tô Giáo La-Mã) nên bị Giáo-Hoàng Paul VI dứt phép thông-công.  Sau khi Giáo-Hoàng Paul VI qua đời, Tgm Thục qua Pháp, ngồi nghe xưng tội tại một nhà thờ ở Toulon, nhưng tiếp-tục phong chức giám-mục cho nhiều người, và vào tháng 2 năm 1982 thì ra tuyên-cáo cho rằng ngôi vị Giáo-Hoàng đang bị bỏ trống và đòi bầu-cử Giáo-Hoàng.  Sau đó Tgm Thục được Giám mục Louis Vezelis, thuộc Dòng Franciscan ở New York, Hoa Kỳ, mời qua và ngụ tại đó. … Tgm Thục qua đời ngày 13-12-1984 ở Mỹ, trong cảnh lưu-vong và trong tình-trạng mập-mờ (theo các tài-liệu liên-mạng, thí-dụ:) http://en.wikipedia.org/wiki/Pierre_Martin_Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Th%E1%BB%A5c hoặc

http://www.independentmovement.us/index.php5?title=Pierre_Martin_Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Th%E1%BB%A5c

Như thế, làm sao mà khẳng-định được là Tgm Thục đã được hoàn-toàn “phục hồi (cả) chức (lẫn) tước”?

4)  Ai là “cha đẻ” của “quốc sách” Ấp Chiến Lược?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Ông (Ngô Đình Nhu) phát động phong trào ấp chiến lược từng gây thiệt hại cho CS Bắc Việt.  Quốc sách Ấp Chiến Lược là do nghị định số 11-TTP và ôngNhu giữ vai trò Chủ tịch Ủy Ban Liên Bộ Ấp Chiến Lược.”

Ý-Kiến:

Kế-hoạch Ấp Chiến Lược thoát-thai từ sáng-kiến của Sir Robert Thompson, người Anh.  Lúc làm Tổng Giám Đốc An-Ninh tại Mã Lai, ông đã loại-trừ được đảng cộng-sản “Mau Mau” tại nước này.  Đại-tá CIA Edward G. Lansdale của Mỹ noi theo kế-hoạch ấy mà trừ-tiệt được đảng cộng-sản “Huks” tại Phi Luật Tân.  SirRobert Thompson được mời làm Phụ Tá cho nhiều đời tổng-thống Mỹ để đặc-trách chống du-kích-chiến tại các nước Á Đông.

Hoa Kỳ biệt-phái Lansdale qua làm cố-vấn riêng cho Thủ-Tướng sau là Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (đến Việt Nam trước cả ngày Ông Diệm về nước) để cải-thiện tình-hình và củng-cố địa-vị cho họ Ngô, kể cả việc sẽ áp-dụng “quốc sách” Ấp Chiến Lược tại Việt Nam Cộng Hòa. Vì tổng-thống quá bận, cũng như vì tầm quan-trọng của nó, nên ông giao cho bào-huynh là Ngô Đình Nhu đại-diện để thực-thi chính-sách của Mỹ, làm việc chung với Lansdale (nhưng họ Ngô vẫn không thi-hành kế-hoạch “Ấp Chiến Lược” mãi cho đến năm 1962). Ông Lâm Lễ Trinh nêu ra Nghị Định số 11/TTP nhưng không ghi rõ ngày tháng. Tham-chiếu cuốn sách Hai Mươi Năm Qua – Việc từng ngày (1945-1964) của Ông Đoàn Thêm (Cựu Phụ-Tá Đổng-Lý Văn-Phòng Phủ Tổng-Thống Đệ-Nhất Cộng-Hoà), do nhà Xuân Thu ởHouston, Texas in lại, vốn đã xuất-bản từ năm 1965 (trang 314) thì:

“3-2-1962.- Thiết lập Ủy-ban Trung-ương đặc-trách Ấp Chiến-lược. Ủy-ban họp mỗi tuần một lần, do Cố Vấn Ngô-đình-Nhu chủ tọa, gồm đa-số các Bộ-trưởng và cao-cấp quân-dân-chính (SL 11/TTP)”

Tóm lại, Cố-Vấn Ngô Đình Nhu, được Lansdale cố-vấn, chỉ thừa-kế phương-sách chống Cộng của Anh và Mỹ tại Mã Lai và Phi Luật Tân, (nhưng đợi đến 8 năm sau ‒ từ 1954 đến 1962 ‒ khi đã xuống dốc mới chịu thi-hành), chứ không phải là phát động, “cha đẻ” của quốc sách Ấp Chiến Lược, như một số người đã lạm tôn lên (xem bài “Quốc Sách Ấp Chiến Lược” của Lê Xuân Nhuận).

5)  Chức vụ của ông Dương Văn Hiếu là gì ?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Trong quyển hồi ký “Dòng họ Ngô Ðình”, xuất bản năm 2003 taị Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Ðình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Ðản 1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để phúc trình với TT Diệm.”

Ý-Kiến:

“Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung” (có thêm 2 chữ ‘Miền Trung’) là của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn ở Miền Trung, do Ông Dương Văn Hiếu chỉ-huy, vào những năm đầu của Đệ-Nhất Cộng Hòa.  Từ năm 1960 trở di, Ông Hiếu được đưa lên làm Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt tại Tổng Nha Cảnh Sát Công An (toàn quốc) ởSài-Gòn. Tại đây, Tổng Nha CSCA góp phần với Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung Ương thành-lập một tổ-chức chung, hoạt-động bí-mật, mang tên là “Đoàn Công Tác Đặc Biệt” (không có 2 chữ ‘Miền Trung’).

Do đó, khi vụ “Đài Phát Thanh Huế” xảy ra, năm 1963, ông Hiếu không còn là Trưởng “Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung”, và cũng không phải là Trưởng “Đoàn Công Tác Đặc Biệt” (vì Đoàn này hoạt-động bí-mật, thuộc quyền của Phủ Đặc-Ủy Tình-Báo Trung-Ương, chứ không thuộc Khối CSĐB của Tổng Nha CSQG).  Vậy, khi Ông Dương Văn Hiếu vào phúc-trình với Tổng-Thống Diệm, là với chức-vụ và tư-cách Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt, Phụ Tá Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Công An, cao nhất về ngành an-ninh và phản-gián, của toàn-quốc, chứ không phải (vì không còn) là “Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung” (ở cấp thấp hơn, và chỉ ở một địa-phương).

6)  Ông Quách Tòng Đức phục vụ Tổng Thống Ngô Đình Diệm như thế nào ?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài Phát thanh Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nãn”, công điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy.  Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài liệu vưà kể.  Theo ông QTĐ, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị bắn chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) , TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra.  Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ (là Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức” ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.”

Ý-Kiến:

Công điện số 9159 ngày 6.5.1963 được ghi là xuất phát từ văn phòng Phủ Tổng Thống, tức từ bàn giấy của Đổng Lý Văn Phòng Quách Tòng Đức; và công-điện ấy đã gây nên biết bao phản-ứng và hậu-quả vô củng bất-lợi, trong cũng như ngoài nước, cả một chuỗi biến-cố lớn-lao dồn-dập đưa đến cái chết của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và nển Đệ-Nhất Cộng Hòa.  Thế mà ông Quách Tòng Đức vẫn cứ bình chân như vại:  Tổng-Thống “không màng đến việc ra lệnh điều-tra” thì thôi, chứ ông Đức không chịu lên tiếng cải-chính, ít nhất thì cũng thanh-minh hay “tâm sự” gì với ông Cố-Vấn Ngô Đình Nhu ở sát cạnh mình – một việc có thể thay-đổi tình-hình.

Tôi thấy có 2 vấn-đề:  Một, là Tổng-Thống Ngô Đình Diệm quá ư chuyên-quyền; hễ ông mà không ra lệnh điều-tra thì không một ai dám tự điều-tra, dù là để tìm thủ-phạm ngụy-tạo (?) công-điện nói trên, để cứu chế-độ của mình; nếu thế thì ông Diệm lâm-nguy là đáng quá rồi.  Hai, là ông Quách Tòng Đức quá “vô tích sự” nếu không muốn nói là vô-lương-tâm: ở nước người ta, chỉ một phi-cơ nào đó lâm-nạn cũng đủ để cho Bộ-Trưởng Giao-Thông toàn-quốc từ-chức vì tự-ý-thức trách-nhiệm trên lương-tâm mình.

7)  Tuần-báo nào của Mỹ đăng bài về vụ trái bom nổ chậm tại Đài Phát-Thanh Huế?

Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà bình dang dở”, (nxb Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu đại uý Hoa kỳ tên James Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một tráibom nổ chậm chiều 8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim Tuyến, dưới bút hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết một Tổng thống? (tập 2, trang 366-370).

  Ý-Kiến:

Phát-giác “động trời” thế này mà không được ai chú ý đúng mức.  Tại sao không tìm cho ra “cựu đại úy Mỹ James Scott” có phải là nhân-vật “thực” hay chỉ là một cái tên bịa, cố-vấn cho Tiểu-Đoàn 1/3 vào thời-gian nào, nhất là “lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ” là tuần-báo loại nào, tên gì, ở địa-phương nào, và ra ngày nào, v.v…, nhất là nguyên-văn bài báo liên-quan.  Làm sao biết trước là sẽ có cuộc biểu-tình tại Đài Phát-Thanh Huế, và vào giờ nào, phút nào, thì có những ai ở đó, đề gài (định giờ) sẵn cho bom (nổ chậm) sẽ phát nổ? Từ 1960 đến 2005, là 45 năm, mà không nêu được tài-liệu khả-tín (bài báo, đăng ở báo nào), hay chỉ dựa vào một chuyện tiểu-thuyết (hư-cấu) nào đó? (xem chú-thích 5 ở cuối bài).

8)  Ai là lãnh tụ “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”?

  Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông cho thảo ra. Một đòn khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ(?) Mặt trận Giải phóng Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá Quốc gia.”

Ý-Kiến:

Dù là dân thường, ai cũng biết rằng Nguyễn Hữu Thọ (chứ không phải Huỳnh Tấn Phát) mới thật là “lãnh tụ” của cái “Mặt Trận” này, thế mà Ông Trinh không biết (xem chú thích 6 ở cuối bài).

9)  Kho Vàng của Bảy Viễn Đi Về Đâu ?

 Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Với tư cách Bộ trưởng Nội vụ, tác giả bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy Viễn và có mời tướng Dương Văn Minhđến giải thích. Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ Tổng thống, một chức vụ tượng trưng.”

Ý-Kiến:

Đại-Tá Dương Văn Minh hoàn-tất vẻ-vang Chiến-Dịch Hoàng Diệu, đánh thắng Bảy Viễn, từ Rừng Sát trở về, được thăng thiếu-tướng, và được đồng-bào đón rước vinh-danh trọng-thể vào ngày 06-11-1955. Mãi đến ngày 05-11-1956 (một năm sau) ông Lâm Lễ Trinh mới được lên làm Bộ-Trưởng Nội-Vụ. Nhưng vào ngày 03-03-1956, tám tháng trước khi ông Trinh làm Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ, Thiếu-Tướng Dương Văn Minh đã họp báo, công-khai báo-cáo là đã tịch-thu 20 ki-lô vàng và 16 triệu rưỡi bạc; số tiền nầy (do Tổng-Thống Ngô Đình Diệm quyết-định) sẽ được dùng để xây cất một Cô-Nhi-Viện Quốc-Gia…

Thế thì Ông Lâm Lễ Trinh làm sao mà có tư-cách, lý-do, cơ-hội (và làm sao mà có quyền trực-tiếp) “mời” Thiếu-Tướng Dương Văn Minh? (xem bài “ÔngNguyễn Văn Chức viết sai Sự Thật” của Lê Xuân Nhuận)

10)  Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị giết vào ngày nào?

  Ông Lâm Lễ Trinh viết:

“Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963 không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.”

 Ý-Kiến:

Hai ông Diệm và Nhu cầu-nguyện trong Nhà Thờ Cha Tam ở Chợ Lớn vào sáng ngày 2.11.1963 chứ không phải là vào sáng ngày 1.11.1963.

Trong một bài khác, nhan đề “Khí Tiết và Lãnh Đạo”, Ông Lâm Lễ Trinh cũng viết sai ngày như thế.

Viết chuyện lịch-sử mà viết sai, thì bài viết có giá-trị gì?

LÊ XUÂN NHUẬN  

CHÚ THÍCH:

(1)  Đoàn Thêm, “Hai Mươi Năm Qua”, Xuân Thu, Saigon, 1965, trang 148-50.

(2)  a/  Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 25:  “Có khoảng 500 đồng bào công giáo chào đón ông ở Phi Trường Tân Sơn Nhất.”

b/  Văn Bia, “Những Ngày Chung Sống với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm”, Lê Hồng, Methuen, MA, USA, 2001, trang 273-76:  “Báo chí phản ảnh trung thực dư luận quần chúng.  Không một tờ báo nào hoan hô ngày Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm… Cả Saigon chỉ huy động được có một nhúm nhỏ xíu công chức đi lên phi trường Tân Sơn Nhứt tiếp đón Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.  Dân thì chỉ có nhóm thân hữu trong Ban Đón Tiếp.  Lần đầu lưa thưa đi rước hụt đã là một thí nghiệm cho thấy sự hưởng ứng bi đát…  Báo chí và dân chúng rất thờ ơ với việc Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh…  Ông Phan Xứng lo viết kiến nghị của dân thiểu số vùng Đạt-Lắc mà đâu thấy có bóng dáng người Thượng nào.  Ông Trần Quốc Bửu không huy động được đoàn viên các nghiệp đoàn, tưởng đâu rất to tát của ông.  Cũng không thấy có nhóm Công Giáo nào do cha (Nguyễn Quang) Toán mang tới …  báo giới không hậu thuẫn cho ông Diệm…  Về nước gần như trong lặng lẽ…”

(3)  Nguyễn Đình Tuyến, “Những Biến Cố Lớn trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam 1945-1975”, Đại Học Đông Nam, Houston, TX, USA, 1995, trang 39:  “Cuộc Trưng Cầu Dân Ý này là màn đạo diễn của Đại-táLandsdale đã đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ Thủ Tướng Diệm.  Ở nhiều nơi trong thành-phố Saigon, số phiếu bầu cử cho ông Diệm bằng 130% con số cử tri (vì binh sĩ của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Thủ Tướng và Đoàn Viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia của ông Diệm đã được phép bầu đi bầu lại nhiều lần).”

Ngo Dinh Diem

From Wikipedia, the free encyclopedia:

on October 23, 1955, in a disputed nationwide referendum, the people voted to remove the emperor Bao Dai as head of state and elect Diem the first President of the Republic of Vietnam.

When the referendum was held, Diem’s troops guarded the polls and those who attempted to vote for the Emperor were assaulted. Diem’s detractors say that the fraud was obvious. In Saigon, for example, Diem claimedmore votes than there were registered voters in the entire area.

The National Archive – A Learning Curve

http://www.learningcurve.gov.uk/

When the voters arrived at the polling stations they found Diem’s supporters in attendance.

After the election Diem informed his American advisers that he had achieved 98.2 per cent of the vote. They warned him that these figures would not be believed and suggested that he published a figure of around 70 per cent. Diem refused and as the Americans predicted, the election undermined his authority.

(4)  Đoàn Thêm, sđd, trang 184.

(5)  a/ Tuệ Chương, “Viết Về Huế”, Worcester, Massachusetts, USA (theo Hồ Công Tâm, 25-5-2003):

“… Khi trên đài lục cục khiêng bàn ra xong, Thượng Tọa Trí Quang và ông Tỉnh Trưởng đã đứng trên đó, chưa kịp nói gì, thì ngay trước mặt tôi, người chỉ huy đứng trên chiếc xe có tên Ngô Ðình Khôi, đứng thẳng lên, (người và xe đều hướng về phía đài phát thanh) rút súng nhỏ bắn lên trời ba phát. Tôi thấy lửa từ nòng súng tóe ra rất rõ ràng. Tiếp theo đó là một tiếng nổ lớn phát ra từ phía đài phát thanh. Xin nhớ là ba phát súng lệnh nổ trước, lựu đạn nổ sau. Ông Tỉnh Trưởng và Thượng Tọa Trí Quang đang đứng trên bàn cao, liền nhảy xuống…”

b/ Truyền-thông ngoại-quốc:

A la suite d’incidents sanglants à Huế

LES BOUDHISTES DU VIETNAM DU SUD ENTRENT EN CONFLIT AVEC LE GOUVERNEMENT “CATHOLIQUE” DE DIỆM

Saigon. 15 Mai (A.F.P.).- Une vive tension religieuse règne actuellement au Vietnam du Sud. Elle est due à la discrimination dont les Boudhistes s’estiment victime, et qui a trouvé son expression récemment dans de sanglant évènements à Huế.

Selon la version officielle de ces évènements, c’est le lancement d’une grenade par un terroriste qui a provoqué dans la soirée du 8 Mai, la mort de sept personnes parmi la foule qui manifestait en ce jour anniversaire de la naissance du Bouddha, devant les bâtiments de la radio.

Trích dịch báo “LE MONDE” ngày 16-5-63.

SAU NHỮNG VỤ LÔI THÔI ĐẪM MÁU Ở HUẾ, PHẬT TỬ MIỀN NAM VIỆT NAM TRANH CHẤP VỚI CHÍNH PHỦ “Thiên Chúa Giáo” của ÔNG DIỆM

Saigon. 15.5 A.F.P. (Thông tấn xã Pháp). Hiện tại ở miền Nam Việt Nam đang có một sự căng thẳng mãnh liệt về tôn giáo đã xuất phát vì một sự phân biệt mà các Phật tử xem mình là nạn nhân và đã biểu lộ mới đây trong những biến cố đẫm máu ở Huế. Theo luận điệu chính quyền thì đêm 8.5 dương lịch, một kẻ khủng bố đã tung ra một quả lựu đạn làm chết bảy người trong đám biểu tình trước trụ sở đài phát thanh trong ngày lễ Phật đản.

(6)  a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 52: “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là hậu thân của Việt Minh…  Mặt Trận này đề cử Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch, Nguyễn Thị Bình làm Ngoại Trưởng.”

b/ Văn Bia, sđd, trang 91-92:  “Ngô Đình Diệm và Nguyễn Hữu Thọ đã từng sống chung dưới một mái nhà…  Pháp có dành cho ông (Ngô Đình Diệm) một chỗ ở trong một biệt thự lớn ở số 152 đường De Gaulle (sau đổi là Công Lý)…  kế cận một phòng do vợ chồng luật sư Nguyễn Hữu Thọ cư ngụ…  Nguyễn Hữu Thọ sau đó làm Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.”

Trở Về

===========

Tìm Kiếm