Qui Tâm
Đông Lan
Sách Đại Học nói:“ Tri chỉ, nhi hậu hữu định. Định nhi hậu năng tĩnh. Tĩnh, nhi hậu năng An. An, nhi hậu năng lự. Lự, nhi hậu năng Đắc”. Như vậy tiến trình tri hành của người trí thức An Vi đi theo những giai đoạn: Chỉ, Định, Tĩnh, An, Lự, Đắc.
1- Chỉ, Định, Tĩnh
Là ba bước để có được An. Lự là bước sau khi đã giác ngộ An, thì Tâm trí cần suy tư, sắp xếp cho sự hoat động của mình sao cho có được cái diệu dụng của Đạo. Cho nên Lự đây là An Lự. Đây chỉ là sự nhấn mạnh đến mức dụng của vòng ngoài. Bài này chỉ bàn đến Qui Tâm, liên quan đến những bước Chỉ, Định và Tĩnh. Khi đạt đến an nhiên tự tại là đã Qui được cái tiểu tâm động loạn của mình rồi. Trạng thái này chỉ có thể mô tả bằng từ tương đối co dãn của Đạo, như đã bàng bạc khắp nơi trong sách. Nơi đây ta chú ý đến 3 bước để ngộ đạo An.
Tri chỉ, là biết dừng lại. Biết dừng lại ở đây là dừng lại ở nơi Ý Thức Nhân Chủ toàn diện như đã bàn trong phần trên. Vì, nếu ta dừng lại ở nơi không phải là chỗ để dừng: ở nơi ý niệm, ở nơi vật thể, ở nơi thần linh. . . đó không phải là chỗ của Người Nhân Chủ An Vi. Người Nhân Chủ An Vi dừng lại nơi Chính Danh, Chính phận của mình, của con Người, theo đúng ý nghĩa chân chính, toàn triệt của NGƯỜI. Như thế, Người Nhân Chủ An Vi trước tiên cần phải tìm hiểu, cần cù, cầu học. Không mấy ai tự nhiên hiểu biết. Đại Học đã nói, con người ta cái Minh Đức có sẵn trong mình, nhưng cần phải học mới làm Sáng cái Đức Sáng của mình được. Đó là “Minh Minh Đức”. Đó mới là sự học lớn lao, hệ trọng, của người lớn, của tuổi tráng niên, của tuổi trường thành. Sách Đại Học đưa ra mục tiêu của Đại Học là như vậy. Ngày nay chúng ta dùng từ Đại Học khác xưa. Đại Học hôm nay học về chuyên ngành, một cách cao sâu hơn trung học một chút. Nó khác hẳn với Đại Học trong Triết Lý An Vi theo như Minh Triết Việt Nho. Vậy, Tri Chỉ, biết dừng lại nơi Đạo, là cửa mở vào thế giới của Trí giả An Vi. Biết dừng lại ở chính trung, chính vị là một ý thức về Đạo Trung. Cơ cấu Trung Dung đã trình bày cùng bạn. Chỉ sơ lược nơi đây là Đạo Quân Bình của Trời Đất, hay là Ý thức về Nhân Chủ cũng vậy. Trời Đất và Người không khác nhau, mà ngược lại, theo Minh Triết An Vi, đồng một thể, cho nên Biết về Tính của Trời Đất, cũng là biết về Tính của Người. Cũng là thức được Tâm. Khi vững vàng Tâm Thức Nhân Chủ, biết chính ngôi vị của mình để dừng lại, trí giả An Vi không dừng ở những nơi không phải của mình. Duy thiên, nô lệ thần thánh là dừng lại ở trời. Duy địa, trọng vật chất, đặt giá trị con người trong tương quan với vật chất, là dừng lại ở đất. Chỉ khi nào nào dừng lại ở ý thức nhân chủ, ở nơi chốn “Kỳ thiên địa chi đức”, ở cái ý thức tam tài “Ta cùng trời đất ba ngôi sánh, Trời-Đất-Ta đây một chữ đồng”, ở cái cảm thức mênh mang của Tiên Rồng kết hợp, đó mới là chính vị, chính trung.
Định, là sau khi biết dừng ở nơi chốn của mình, tâm trí ta mới vững vàng, ổn định. Đời vọng động, thiên địa bất quân, trật tự rối loạn, nhân tâm nghiêng lệch…nhưng lòng ta đã vững như kiềng ba chân. (Chỉ-Định-Tĩnh). Kiềng ba chân chở hình tròn của chân lý An. Ta cảm lẽ Đạo, lòng ôm chân lý tròn đầy, ổn định nơi vòng tròn chân lý là vòng toàn diện, nên là Đại Định. Tĩnh chỉ là bước tất nhiên sau bước đại định.
Tĩnh là tự nhiên loại trừ được dần những vọng động của những thế lực quá khích, cực đoan. Tĩnh là một trạng thái tâm lý, nó đến từ từ, sau từng kinh nghiệm khác biệt. Tri chỉ chỉ là sự giác ngộ của tri thức, chưa có kinh nghiệm kiểm chứng, thực nghiệm đãi lọc. Ta ý thức nhân chủ, đâu phải là ngay tức khắc mỗi tâm, ý, tình, chí của ta tràn đầy sắc mầu hai chiều của đạo đâu. Ý thức về An là khởi đầu. Nó cần thời gian và không gian để trưởng dưỡng hạt nhân An ở trong lòng. Nó cũng cần môi sinh để phát triển. Nhưng nó đã là một mầm hạt nhân lành. Ý thức An là một mầm hạt. Tu dưỡng cho mầm hạt An ấy là trưởng dưỡng nó lên. Theo ba luật lớn của trời đất: biến dịch, hội tụ và giá sắc, hạt nhân An cũng phải vâng theo, để rồi sẽ phát triển theo cơ duyên của nó. An Tính đơm kết trong thời không hoa trái muôn sắc hương của nó mà chỉ hành giả An Vi mới thực sự kiểm chứng mực độ trưởng thành của mầm hạt An trong mình. Nhiều khi trong một sự bất ngờ nào đó, tự nhiên ta thấy lòng trầm lắng hẳn xuống, vọng động đời hầu như tiêu tan, sao ta không còn lo cái lo của áo cơm nhiều như xưa nữa, sao ta không còn hờn giận vui buồn những hờn giận buồn vui theo thông lệ thói tục bấy lâu. Nhiều khi ta lại cảm thấy trong lòng có những niềm vui nhẹ nhàng không do các lợi lộc, thành đạt của cuộc đời mang lại, sao lòng vẫn cứ vui những niềm vui không đối tượng nào. Rồi những cảm xúc thành bại hơn thua nó cứ nhẹ dần đi, ta cảm thấy đời sống nhẹ nhàng hơn. Rồi có một lúc lòng như tê dại không còn điều gì ở cõi đời này làm lay động được. Nó đã chết dần và hình như được tái sinh ở một nơi nào khác. Ta có cảm tưởng ta vừa đi đâu xa lắm và vừa mới trở lại. Nhưng lần trở lại này đây, giữa ta với đời đã có một khoảng cách mù sương. Cái gì của đời ta bé nhỏ dường như không còn trọn vẹn gắn chặt vào ta như xưa nữa. Sợi dây liên hệ giữa ta và cái nhỏ bé của đời ta như cứ lơi dần đi. Hình như ta đã có một mối liên hệ nào khác, nó lôi cuốn ta, nó cũng gắn chặt với ta, và thế là ta sống ở hai tâm trạng. Làm như ta đã một phần nào có một cảnh khác của đời. Đâu là thực? Đâu là mộng? Thật sự ta không hiểu nổi. Thảo nào đi mãi vào huyền vi, Trang Châu không biết mình hóa bướm hay bướm hoá Trang Châu. Đó không phải là một bài suy tư triết lý. Đó là một trạng thái Tâm An Bình của một mức độ nào đó của huyền vi. Cho nên có khi ta quên mất ngày không ăn, đêm không ngủ. . . ta quên mất cái vật thể, ta cảm thấy lòng lâng lâng, ăn chẳng cầu no, mặc chẳng cầu đẹp. Lời nói có khi cũng dịu hiền hẳn đi, theo cõi lòng thả lỏng chuyện thế nhân. Tâm sanh ý, tâm sanh tướng. Cho nên qua bước ổn định, trầm tĩnh của tâm thức An, ta sẽ thấy tâm tư thật sự tràn đầy hạnh phúc, thứ Hạnh Phúc của Tấm Lòng Thanh Tịnh.
Do đó, đạo Qui Tâm của An Vi giúp ta tự nhiên loại bỏ dần những khí lực nặng nề của bản thể vật chất, giúp ta sinh lại trong một Trời Mới và Đất Mới. Tiếp cận thế giới An Lạc nhiệm mầu. Thế giới của thanh khí, khí quá thanh nên nhẹ, nên đôi khi con người nghe được những âm thanh và thấy được những ánh sáng không cùng tần số với trần gian. Nhưng đó không phải là bảo chứng cho sự thủ đắc được điều gì cả. Đó vẫn là trạng thái của vật thể. Đó không phải là cái Chân Ngã mà ta thực sự cầu tìm. Như trong Kinh Kim Cang, Đức Phật cũng tiên liệu sự ngộ nhận này rồi. “Nhược dĩ sắc kiến Ngã, Dĩ Âm Thinh Cầu Ngã, Thị Nhơn Hành Tà Đạo, Bất Năng Kiến Như Lai” (Nếu lấy hình ảnh, sắc mầu gì mà cầu Ta, nếu lấy âm thanh mà cầu Ta, đó là hạng người kém cỏi truyền tà đạo, không bao giờ giác ngộ Như Lai). Cho nên Triết Lý An Vi đưa con người trở lại bước “An Lự” để tỉnh cơn mộng của tâm linh, vì An Vi là Đắc Đạo ngay trong đời hiện thế. Cảm nghiệm An rồi, còn quay trở lại đời lo trăm ngàn công việc bận rộn “Quân Tử chung nhật kiền kiền, tịch tịch nhược lệ” Trí giả An Vi có “ thực tế” quá không? Trăm ngàn lần không. Cái tựu thành ở sau bước “An Lự” của An Vi là cái quả vị Bồ Tát mà Đức Thích Ca đã chứng nghiệm và trao truyền. Là Máu Mình Chúa đã đổ ra làm cái giá cứu chuộc. Vâng theo 3 luật: biến dịch, hội tụ, giá sắc. . . hạt mầm An phải trưởng dưỡng nơi chốn trần gian, để thực hiện giải thoát ngay trong đời hiện thế. Đó là Thiên Ý, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Rồng Tiên Hội Ngộ, là Hành Hương về chốn Chân Không Diệu Hữu. Đó là cứu cánh cao quí của sự tu thân bằng đường lối Qui Tâm.
2- Ba luật lớn trong vũ trụ Khi chiêm ngắm các vận động trong vạn vật, ta thấy có 3 luật lớn nhất chi phối vạn vật và hầu như bất dịch. Ba luật đó là: biến động, loại tụ và giá sắc.
Luật biến động
Muôn vật trên đời đều biến đổi luôn luôn, và kỳ lạ thay, sự biến đổi đó diễn theo chu kỳ, nghĩa là có tính tuần hoàn, đi một vòng rồi lại quay về khởi điểm. Mặt trời mọc từ phương Đông, rồi lặn về phương Tây và lại mọc lại ở phương Đông. Mặt trăng tròn rồi lại khuyết, rồi tới kỳ hạn trăng lại lên tròn. Nước biển bốc thành hơi, tụ lại thành mây, làm mưa xuống rồi lại chảy ra biển và tiếp tục bốc hơi. Máu trong tim chảy ra nuôi thân xác rồi lại trở về tim để lại đi ra nữa…
Luật thứ hai là luật loại tụ: Ta thấy mọi loài giống nhau thường hay đến gần nhau. Luật này cũng trình bày bằng câu:
“ Đồng thanh tương ứng
Đồng khí tương cầu”
Vạn vật có muôn loài ngàn loại, nhưng ta có thể biểu thị bằng hai loại lớn như Thiên với Địa :
“Bổn hồ thiên giả thân thượng.
Bổn hồ địa giả thân hạ.
Tắc các tùng kỳ loại dã”.
Vật nào xuất bởi trời thì đi với trời. Vật nào xuất bởi đất thì đi với đất, mọi vật theo loại của mình. Ta có thể tạm quan niệm rằng, thiên ở đây là thanh, nhẹ, sáng, mở rộng, bao la. Địa là nặng, tối, hạn hẹp. Càng lên cao càng thanh nhẹ, càng xuống thấp càng nặng nề, thu hẹp.
Luật thứ ba là luật giá sắc. Giá sắc có nghĩa là gieo gặt. Có nghĩa là khi gieo một điều gì điều ấy không mất đi, nó sẽ có tác dụng gia tăng, như gieo ra và gặt về. Ta có câu gieo một gặt trăm, gieo gì gặt nấy.
Trí giả An Vi khi học cách chiêm ngắm ba luật lớn này, luôn luôn áp dụng luật tắc của trời đất để nội tâm an lạc. Khi biết luật trời đất là biến động, ta sẽ dự phòng tất cả mọi sự đều có thể xảy ra, tức là có phòng xa, tránh được những bất ngờ, ngỡ ngàng, đôi khi đưa đến rối loạn và khổ nạn. Do đó, khi an bình, phải lo đến lúc nguy biến, khi thành đạt phải lo đến lúc thất bại. Vì luật vốn biến động, và trở về từ khởi điểm. Như thế ta sẽ nhìn thấy sự đối lập từ trong mầm mống, và nhờ thế, con người sẽ khiêm tốn hơn, độ lượng hơn. Khi giận dữ, cừu oán sẽ nghĩ đến lúc hết cơn giận dữ, tiêu tan oán cừu, con người sẽ xử mềm mỏng hơn. Nhìn vạn vật ở trong vòng biến động và phản phục, con người sẽ có tính uyển chuyển thích nghi với mọi hoàn cảnh để chờ sự tuần hoàn mới. Biết mùa Xuân sẽ về ta đâu phải buồn rầu ảm đảm quá độ ở mùa đông. Biết mùa đông rét lạnh lẽo nhiều ta cảm thấy chấp nhận cái nóng bức của mùa hạ một cách thanh bình. Biết được muôn vật có tính biến động và phản phục ta giảm trừ được những âu lo, đau khổ, rối loạn ở những thời điểm bất thuận lợi cho mình. Và giữ lòng thanh bình trong nghịch cảnh, cùng là chuẩn bị cho đời sống nội tâm an toàn trong dự phòng bất trắc. Giảm trừ được các nguồn chấn động trên, từ ý thức luật biến động phản phục, ta dễ có bước ổn định và trầm tĩnh của tâm hồn. Định và tĩnh là sự đi gần đến an nhiên, tự tại.
Cũng thế, áp dụng luật Loại Tụ trong đời sống thực tế, ta có thể điều chỉnh nội tâm mình cũng như ngoại giới. Muốn cho tâm tư thanh nhẹ, ta phải tạo điều kiện cho những chất thanh nhẹ trong mình bắt được nhịp cầu tương giao với các chất thanh nhẹ khác. Thí dụ, đọc những quyển sách hướng dẫn nguồn tâm tư thanh nhẹ, giao thiệp với những thân hữu có thể tạo bầu không khí thuận lợi hội tụ cho những ý tưởng tốt lành, thực hiện những việc thiện đức hơn, chăm lo nuôi dưỡng tâm hồn bằng những niềm tin cao cả, những hiểu biết thâm sâu cận nhân tình. Tâm hồn mình khi thông giao toàn với những chất lành, những chất nhẹ thanh sẽ đến quây quần, gần gũi và thẩm thấu vào nội tâm mình. Lâu ngày rồi tâm, ý mình thay đổi, hội tụ theo, vì luật loại tụ sẽ kéo các chất giống nhau đến bên nhau. Môi sinh tinh thần của ta toàn những chất thiện lành, sẽ đi vào phần căn thiện lành trong ta, và hấp lực đến phần thiện lành nơi người khác.
Đời sống bận rộn bon chen, có bao giờ ta trầm ngâm ngắm nhìn hạt lúa mà thành bao cây lúa, bao hạt gạo mầu mỡ, hay chỉ một mầm hạt nhỏ bé kia mà phát triển thành cây bao là trái với cành lá xum xuê…Nội tâm con người cũng phải vâng theo luật bất di bất dịch ấy. Một tư tưởng nhẹ thanh không chỉ sinh ra đúng một tư tưởng thanh nhẹ khác. Chất thanh sinh ra, triển nở theo quá trình thời gian, sức sanh sôi nẩy nở của nó ta có thể kiểm chứng được: Một lời nói cảm động lòng người đâu phải chỉ có một người, một lần cảm động. Một hành động độc ác đâu phải đâu chỉ gây tai hại một lần. Nếu ta gieo những hạt thiện lành, hạt thiện lành cứ lan ra, rồi hạt thiện lành khác lại sinh ra từ đó… Làm một điều xấu cho người nào, họ căm giận, và hạt âm tính ấy vẫn để lại sự di truyền. Cho nên gieo hạt tâm linh thì chính mình cũng gặt tâm linh, mà hạt tâm linh cũng sẽ nẩy mầm rồi lan tràn ra mãi. Vạn vật có tính biến hóa, có tính loại tụ, nên gieo hạt nào thì hạt ấy cứ luân lưu, tăng trưởng mãi ra để rồi một ngày ta phải ngạc nhiên sao chung quanh mình toàn là những trái quả mà chính mình đã gieo trồng.
Tóm lại người Trí Thức An Vi thuận theo đạo trời mà cải đổi lòng mình để có An Bình và Hạnh Phúc nơi đáy Nội Tâm, cũng như có thể áp dụng ba qui luật lớn trên để phục vụ đạo nghĩa.
Trở về bản tâm của mình để thấy thiên địa đã đầy đủ cả nơi mình, trời đất biến động tuần hoàn, muôn vật loại tụ bên nhau, có gieo hạt là có gặt trái quả. Ta có thể áp dụng để thấy lòng mình cũng là một tiểu thiên địa, luân lưu, biến hóa trong trật tự nhịp nhàng. Rồi đời sẽ nhẹ dần đi, những cá tính nhỏ mọn, bon chen, những âu lo vật thể phù du. Ta sẽ lo cái lo không bắt nhịp được với lề luật, lỗi tiết nhịp với đạo của đất trời. Ta sẽ ưu sầu cái ưu sầu làm sao san sẻ với thế nhân chuyện về giác ngộ. Ta sẽ âu lo việc Đạo chứ không còn âu lo nhiều đến việc nghèo giàu. Bỗng dưng tham thông được với luồng đại diễn của kiếp phù vân: Ta sống nơi đây nhưng hồn đã là một với Nhất Thể Vô Biên. Tâm đã trống rỗng, hư không, không thể diễn tả bằng lời.
Trên đây là vài phương cách tiêu biểu để Trí giả tu dưỡng nội tâm. Ta còn tìm được trong Huyền Sử, Ca Dao, Nghệ Thuật, Huyền Số, Thể Chế Việt những bài học để tồn tâm, dưỡng tính. Trong Tứ Thư Ngũ Kinh, Việt Nho cũng có biết bao kinh nghiệm của người xưa cho người cầu học dùng làm phương tiện để trực diện chân lý An Nhiên Bình Lặng của Đạo. Đạo vẫn mãi mãi ngàn đời như thế. Tiểu Ngã con người khác nhau, sinh hoạt trong những môi sinh tinh thần khác biệt, nên con người diễn tả chân lý bằng nhiều sắc thái khác nhau. Nhưng khi Trực Diện tâm linh, chan hòa nguồn sinh dưỡng của bản thể chân lý, con người đều là Một với Chân Lý. Cho nên, đạo còn hiểu là con đường, con đường về với Thể Tinh của Đạo, là Chân Lý. Nếu như phương tiện là những trợ duyên để con người tìm về Lý Đạo nhiệm mầu, toàn bộ Triết Lý An Vi chỉ là một phương tiện, trợ duyên cho con người trở về Tâm của chính mình. Triết Lý An Vi là con đường Qui Tâm để Tâm thức An Lạc trong cảnh Thái Hòa cùng Vũ Trụ.
Tâm là gì? Tâm ở đâu? Tâm dĩ nhiên không phải là trái tim vật thể của bộ máy tuần hoàn trong mọi con người. Tâm cũng không phải là bộ máy tâm lý của tâm lý học Tây phương. Tâm có thể nói là nền tảng của vạn vật ở thể chưa thành hình, chưa phân chia, tách biệt. Lão Tử gọi đó là Huyền Đồng, nhà Phật gọi là Hư Không, Chân Như, Việt Nho gọi là Thái Cực, hay Thiên Chúa Vô Ngôi Vị của Ki Tô hữu, hay là Brahman của Ấn Độ giáo. Huyền Sử Việt gọi là Tiên Rồng. Tâm không ở trong hay ở ngoài ta. Tâm là thể tính của vạn hữu, nên không nơi nào mà không ở. Tâm phải là một thể đồng chứa đựng tất cả, không ranh giới, chướng ngại. Khi ta vượt qua ranh giới chướng ngại của thân, của ý, của lý trí, tình cảm nhỏ bé trong ta, là ta đang trên đường trở về cái Tâm Thể Đại Đồng ấy. Sự vượt qua này không phải là cái điểm linh quang cuả cá nhân trở về cùng cái đại linh quang của thế giới nhị nguyên. Vì khi cho rằng ta có cái tiểu và đi đến một cái đại khác, thực ra vẫn còn quanh quẩn ở sự phân chia đối đãi của nhị nguyên. Cả hai thứ ấy đều không có thật. Vượt lên trên hai bờ đối đãi nhị nguyên, thấy cả cái Tính Không của cả tiểu và đại của vật lý dù vi thể, mới là Việt Đạo, mới là Vượt Qua, mới là Tâm, là Bao Dung Thể của Minh Triết An Vi. Vì thế, có thực hiện Việt mới giác ngộ chân Tâm. Không có cái sự phân chia thật sự, sự tường tượng này là do lý trí của con người, nói theo ngôn ngữ của thế giới còn phân biệt giả tạm. Cưỡng cầu phải dùng từ để nói về Tâm là một điều làm mất tính chất của Tâm là Linh. Tâm là linh thiêng không thể luận bàn, cho nên Lão Tử mới nói rằng Đạo mà nói đến được không phải là Đạo nữa. Cho nên bàn chuyện phương pháp Qui Tâm ở đây, là gượng ép mà bàn, để trợ duyên cho nhau, trên đường tìm Bình An và Hạnh Phúc của tâm hồn. Thật ra, Tâm phải cảm, hiệp, thông, giao, phải là tiếng Vô Ngôn của đáy tâm hồn người thể nghiệm, trong từng sát na của vi trần.
( Trích trong “ Yêu Mến An Vi”, cùng tác giả)
Ðông Lan