RƯỚC:MỘT HÌNH THỨC LỄ HỘI DÂN TỘC ĐỘC ĐÁO
Đoàn Dự
Lễ hội là một sinh hoạt văn hóa dân tộc gắn liền với đời sống của nhân dân. Lễ hội có phần lễ với những nghi thức trang nghiêm, phần hội tưng bừng hồn nhiên, tạo thành hai mặt của tĩnh và động đan cài vào nhau. Rước là một hình thức mang chất động với các trò múa, hát và hóa trang…
Hội Đền Hùng có Rước cỗ chay để tưởng niệm chàng Lang Liêu làm ra bánh chưng, bánh dày và tỏ lòng biết ơn vua Hùng dạy dân làm lúa. Tiếp theo đó là Rước voi để biểu lộ muôn loài quy phục vua Hùng. Đám rước trở thành cuộc thi và thành kiệu bay.
Hội Pháo Đồng Kỵ ngày 30 tháng chạp, có Rước kiệu về nhà quan đám để chọn tướng tiên phong. Tất cả trai tráng mỗi người cầm một ngọn đuốc chạy từ nhà ra đình cùng với 4 ông quan đám, vừa chạy vừa hô: “Mừng cho quan đám ta một tiếng này a… í… a”. Đó là truyền thống tòng quân. Giữa đình có một cây cột chính, ai chạy đến trước, ôm được cột chính thì phúc được truyền. Trò ấy gọi là “ôm cột Thái Bạch”. Mọi người ôm hết thì rước tan.
Rước Thánh vào đóng lại là rước vui ở Hội Liễu Đôi. Đi đầu là một cụ già cầm gươm. Một cụ khác khởi rượu tế chay, chỉ có oản, chuối, trà pha đậm. Thánh là một chàng trai họ Đoàn, khi nhận được gươm thiêng, thì lễ Phát hỏa bắt đầu. Ông Trùm, một cụ già cao tuổi nhất, có uy tín, cầm trống cái, trao gươm và khăn đào cho một đô vật được giải năm trước. Hai đô vật cầm hai lá cờ đỏ hình vuông tiến từ hai bên kiệu thánh ra giữa dóng và múa theo trống vang rền. Đây là lễ trao gươm và thắt khăn đào và Lễ cờ tụ nghĩa.
Hội Đống Đa có Rước thần mừng thắng lợi. Rước này có ý nghĩa kỷ niệm trận tấn công mùa xuân Kỷ Dậu (1781) của nghĩa quân Tây Sơn. Đám rước kéo dài từ đình Khương Thượng tới gò Đống Đa với cờ, biển, lọng, tàn, tán, kiệu. Người ta lấy mo cau giấy bản, biện thành hình con Rồng khổng lồ, phết sơn màu. Rồng đi theo nhịp sinh tiền. Những chàng trai khỏe mạnh mặt võ phục, cầm vũ khí chạy múa theo Rồng. Cũng có năm, một trai làng khỏe, đức độ, được mặc áo hoàng bào, ngồi trên kiệu hình voi như đang lâm trận, chỉ huy. Từ 10 – 12 tháng giêng có Hội làng Triều Khúc kỷ niệm lễ Tức vị (lên ngôi) của anh hùng Phùng Hưng lên ngôi hoàng đế. Dân làng tổ chức đám rước với đầy đủ nghi trượng và các loại nhạc cụ. Đặc biệt, người rước kiệu luôn đi nghiêng. Hai bên ngoảnh mặt vào nhau. Đến nơi, một bô lão mở hòm sắc, bút và vào tế Hoàng cung. Quần áo tế lễ ở đây được thêu rất công phu, cầu kỳ, chứng minh nghề thêu dệt nổi tiếng của địa phương. Những chàng trai đóng giả các cô gái xúng xính trong các bộ áo váy, má đỏ môi son vừa đi vừa múa… Tiếp theo là múa cờ, diễn lại Phùng Hưng kén chọn nhân tài. Những chàng trai khỏe mạnh, chia làm hai nhóm, chạy vòng quanh cánh đồng theo hai hướng, đến khi gặp nhau thì giao chiến, nhịp theo tiếng trống ngũ liên, trống lệnh. Đám rước lại đi cho tới đình thôi.
Ở Hội chùa Keo, sáng ngày 14-1, mở đầu là Rước kiệu Thánh từ tòa Thượng điện ra tam quan. Trong cuộc rước có cả một chiếc thuyền rộng tượng trưng cho chuyến đi của Không lộ thiền sư lên kinh đô chữa bệnh cho vua. Trên giá tiểu đình đặt một chiếc thuyền nhỏ sơn son, ý nói về một đoạn đời chài lưới, sông nước của ngài. Có 7 hình người làm bằng gỗ, trong đó có một phụ nữ nét mặt vui tươi gọi là Bà cả Rối, tượng trưng cho khách hàng mua cá của Không Lộ. Cuộc rước vừa linh thiêng vừa vui nhộn.
Hội Chử Đồng Tử và Tiên Dung thì Rước gậy và nón thần diễn lại sự tích biến nghèo thành giàu. Kiệu Thánh và Bát bảo đi theo con rồng dài 20m bơi ra giữa dòng sông làm nghi lễ lấy rượu. Người ta đổ nước vào bình phủ vải điều rồi rước tới đình để làm lễ dâng hương. Ngày hôm sau, lại múa rồng tiếp, gọi là Rước Phát du (Thánh về du ngoạn nơi xưa). Kiệu đặt áo ngự bào, hia hài, mũ…
Rước nước mỗi nơi một khác. Ở Hội Lệ Mật (Gia Lâm) người ta rước một chiếc bình lớn phủ điều ra sông. Từng gáo nước theo nhịp trống đổ vào bình theo lần vải để nhớ ơn thánh Hoàng khai phá đất hoang. Trai làng luyện các thế võ để vừa rước vừa múa thật khí thế theo nhịp trống. Đó là “múa rước rắn” để tỏ lòng ơn người trừ thủy quái.
Khác với rước nước là “rước lửa” gồm 20 nam nữ ở Hội Trường Yên (Ninh Bình). Nam thắt lưng đỏ, nữ thắt lưng xanh chạy kiểu tiếp sức. Người rước tường từ trên núi Mã Yên theo các bậc đá chênh vênh để xuống núi. Người ta lấy lửa từ mộ vua Định trên núi. Lửa đuốc tỏa suốt ngày hội, như ngọn lửa Olympic, múa quanh kiệu rước.
Hội Gióng có phường Tùng Chọa, một đội múa trào tiếu, vui nhộn. Sau tiếng pháo đùng, các tướng Hiệu cờ và quân lính tạo thành một đám rước lớn. Rước đi một quãng xa, để tỏ ý đuổi giặc đi xa, rồi rước trở về. Giữa sân đình, một ông hiệu cờ đứng im phăng phắc như nhập hồn vào cờ. Bỗng cả người và cờ nhảy bắn lên theo kiểu Thượng mã, sau đó quỳ xuống, múa cờ lệnh như một cơn xoáy lốc tung hoành trước giặc Ân. Một người đàn ông đóng vai bị giặc bắt. Mũ trên đầu ông bay mất. Thế là giặc bị chém đầu. Còn các tướng khác do nữ đóng vai được khoan hồng. Đám rước lại đi và tan dần.
Hội đền Bà vào ngày Rằm tháng giêng, 3 năm một lần lễ nhỏ và 15 năm một lần đại lễ. Rước đền Bà là cuộc rước rất quy mô. Lý thú nhất là cuộc rước qua sông Hồng. Thuyền như lá tre, từ thượng lưu Cổ đô, ngã ba Hạc trở về, từ hạ lưu Bá Giang, Vân Cốc, Hát Môn… lên. Vài chục chiếc thuyền lớn được cột với nhau và lát tre vầu phẳng phiu để có thể ngự hàng chục chiếc kiệu. Hàng trăm người chèo thuyền rước kiệu. Hàng trăm chiếc thuyền nan đi hai bên thuyền kiệu. Pháo nổ, trống khua. Công chúa Ngọc Hoa về thăm vua cha và tổ tiên. Đêm buông xuống, nàng lại về núi Tản. Đèn sáng hàng dặm dài. Mọi người tranh thủ chui qua kiệu để lấy khước…
Rước nói chung đều biểu hiện tinh thần chiến đấu và sản xuất, tưởng nhớ cha ông. Hình thức Rước rất đa dạng, hấp dẫn với sự tham gia của tất cả các lứa tuổi, các giới. Rước mang đậm màu sắc với dân tộc và văn hóa.
Đoàn Dự