SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHÂU Á CÓ NGUỒN GỐC TỪ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NHO GIÁO
Sự bùng nổ của những đất nước như Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore đã đi đến hình thái tư bản bằng cách dựa trên những nguyên lý cổ của lòng vị tha và sự phát triển xã hội bền vững.
Tác giả: Robert D.Kaplan
Cuốn sách “The Governance of China” (Quản lý nhà nước Trung Quốc) của chủ tịch Trung Quốc – Tập Cận Bình đã được xuất bản và dịch ra dưới nhiều thứ tiếng trên thế giới vào mùa thu qua(trong đó có cả tiếng Anh). Một trong những yếu tố nổi bật của cuốn sách này đó là: Ông Tập Cập Bình đã dựa trên”sự hiểu biết tinh thông” của Khổng Tử để giải thích những quan điểm chính trị, xã hội của riêng mình. Ông đã trích dẫn một câu nói súc tích của bậc thầy cổ đại này để minh họa cho quan điểm của mình đó là: “Khi gặp được một người đức hạnh, chúng ta nên suy nghĩ làm sao để có thể tốt như họ. Trái lại, khi gặp phải một người có phẩm chất không tốt thì chúng ta nên xem xét lại bản thân”. Và rõ ràng là ông đang hành xử theo Khổng Tử khi ông viết rằng Trung Quốc luôn “phát triển đất nước của mình thông qua việc nghiên cứu các tính chất của sự vật, điều chỉnh những suy nghĩ của mình với sự chân thành, tu luyện đạo đức bản thân, quản lý gia đình … và bảo vệ hòa bình dưới Thiên Đàng.”
Không đề cập đến những nghi vấn về sự chân thành trong việc trích dẫn những ý tưởng phi cộng sản thời cổ đại của chủ tịch Tập Cận Bình, chỉ bàn đến giá trị của Nho giáo, thì không có gì nghi ngờ khi những giá trị Nho giáo mà ông Bình dẫn chứng là nền tảng của một trong những câu chuyện về sự thành công rực rỡ trong kinh tế, văn hóa và xã hội trong vài thập kỷ qua. Vượt qua những khó khăn và khuyết điểm của châu Á (và những thành tựu ấn tượng trong cùng kỳ ở những nơi khác, chẳng hạn như Canada, Scandinavia và Israel), chúng ta đã và đang sống từ những năm cuối của Chiến tranh Lạnh với những giá trị của Nho giáo. Sự trỗi dậy của “con hổ” Thái Bình Dương trong những năm 1970 đã bắt đầu tạo nên những nguyên tắc tổ chức địa lý của nền kinh tế thế giới cho châu Á. Các quốc gia như Trung Quốc và Việt Nam không thể loại trừ chủ nghĩa cộng sản một cách chính thức, cũng không thể chuyển sang một hình thức chủ nghĩa tư bản hỗn loạn hay là vẫn giữ được sự ổn định khi mà họ không có lòng khoan dung thiết yếu và không tôn trọng sự phân quyền, phân cấp cũng như trật tự xã hội được thể hiện trong Nho giáo.
Nho giáo được mô tả như là một triết lý chứ không phải là một tôn giáo. Nó vừa cạnh tranh vừa bổ sung cho các tôn giáo ở châu Á, chẳng hạn như Phật giáo và Đạo giáo. Chúng ta có thể nói châu Á là Nho giáo, nhưng nếu nói rằng những cảm nhận về Nho giáo giúp định hình châu Á thì lại không chính xác.
Sự tăng trưởng của châu Á trong thời kỳ chúng ta đang sống (được tạo nên bởi việc giữ cho xã hội bền vững – một quan điểm trong Nho giáo) đã có những tương tác qua lại với chủ nghĩa tư bản hiện đại. Chúng ta thấy được sự tăng trưởng năng động, một chế độ cửa quyền giác ngộ ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore – tất cả trong số đó đã phát triển thành hệ thống nghị viện ngoại trừ Trung Quốc. Có lẽ thể chế của Trung Quốc chưa buộc phải thay đổi như ở những nước trên, bởi vì Trung Quốc hạn chế được sự biến động dân chủ và giữ được sự bình yên tương đối, đây cũng là những gì mà chúng ta có thể thấy ở Hồng Kông.
Thật vậy, những người sáng lập của các quốc gia châu Á hiện đại chẳng hạn như Park Chung-Hee của Hàn Quốc, Chiang Kai-Shek của Đài Loan, Lee Kuan Yew của Singapore, tất cả họ đều rất có ý thức Nho giáo bởi vì họ định hình được sự khắc nghiệt trong việc tạo ra các xã hội hiện đại. Đối với Trung Quốc, quá trình chuyển đổi từ tham nhũng và sự thiếu hiệu quả sang hình thái mới đã và đang giúp đất nước này phát triển và tăng trưởng kinh tế đạt kỷ lục trong một phần ba thế kỷ qua, điều này không thể không nhắc đến sự đóng góp của những nét đặc trưng trong Nho giáo.
Vậy Nho giáo chính xác là gì? “Confucius” là từ la tinh hóa của “Kong fuzi” – “Khổng Tử”. Khổng Tử là người sống vào khoảng 2.500 năm trước đây, ở nước chư hầu Lu miền bắc Trung Quốc trong suốt những ngày cuối cùng của triều đại nhà Chu. Hồi tưởng lại thời hoàng kim trong thời kỳ đầu của triều đại nhà Chu, Khổng Tử đã truyền lại cho các môn đệ của mình những gì mà học giả, dịch giả Raymond Dawson gọi là “biểu hiện tinh túy” của nền văn minh Trung Quốc.
Nhiều điều trong số những “biểu hiện tinh túy” đó đang được trình bày trong cuốn “The Analects” (“Luận ngữ”) – những chiết xuất trong trẻo của triết học, được viết bởi các môn đệ của Khổng Tử. Hai khái niệm quan trọng nhất được đề cập ở đây là “nhân đạo” và “đức hạnh”, hai phẩm chất này có nghĩa vụ cùng nhau định hình tâm lý của một con người và cùng nhau hỗ trợ tất cả các mối quan hệ giữa con người với nhau.
Không có gì là vô nghĩa và thừa thải trong những lời răn dạy này: Tất cả mọi người đều phải được định hình theo một tiêu chuẩn cao ngang bằng nhau, điều này dựa trên sự tôn trọng kinh nghiệm của các thế hệ đi trước. Như Khổng Tử nói: “Tôi yêu quý sự thật và tôi là một người ngưỡng mộ thời cổ đại.”
Trong Nho giáo, quá khứ không phải là một điều gì đó mà chúng ta có thể chê bai và xem nó là lạc hậu hay kém tiến bộ; quá khứ là một quá trình để chúng ta đúc kết kinh nghiệm, và hiện tại lấy quá khứ làm nền tảng. Đặc biệt, trong những lần biến đổi sâu sắc về xã hội và công nghệ, các nho sĩ vẫn tìm thấy bức thành tư tưởng tốt nhất để chống lại sự hỗn loạn trong truyền thống, đặc biệt là hỗn loạn trong sự nhân đức, lòng trung thành và lòng hiếu thảo.
Cuộc sống hậu hiện đại phương Tây thì trái lại, đôi khi được mô tả như là một sự suy đồi bởi mức độ sùng bái tuổi trẻ của nó. Nhưng đối với những người như tôi – những người có cơ hội quan sát cả hai nền văn hóa, thì rất khó để có thể cưỡng lại ý nghĩ rằng: Cùng một mức độ tiếp xúc với Nho giáo, thì có lẽ phương Tây ứng dụng những giá trị của Nho giáo hiệu quả hơn Trung Quốc – đất nước với “chính sách một con” chỉ vừa mới được nới lỏng gần đây đã dẫn đến một thế hệ trẻ em hư hỏng.
Nho giáo khuyến khích mạnh mẽ lòng khoan dung và không khuyến khích sự bất phục tùng cũng như sự ích kỷ – những điều không bao giờ tương đương với lòng can đảm. Nó nói đến việc bảo tồn sự cân bằng mong manh tồn tại giữa con người và giữa các tổ chức xã hội, chính trị bên trong đó. Theo như Khổng Tử: “Một người cao thượng sẽ có lòng cảm thông bao la và phi đảng phái. Một người hẹp hòi sẽ đảng phái và không có sự cảm thông”. Những người biểu tình ở Hồng Kông cho dù có yêu cầu thay đổi chính trị thì kỷ luật, tổ chức và cả những chuẩn mực nói chung vẫn rất Nho giáo.
Đối với phương Tây, những điều này nghe có vẻ giống như chủ nghĩa bảo thủ Burkean cổ điển, nó không khuyến khích sự thay đổi căn nguyên mà chỉ chấp thuận sự thay đổi và tiến triển theo từng giai đoạn. Edmund Burke đã kinh ngạc trước những điều tuyệt vời của cuộc Cách mạng Pháp, ông tin tưởng vào sự tiến hóa và sự thay đổi một cách từ từ của những chính sách xã hội hơn là những thay đổi đột ngột. Đông Á đã giác ngộ ra rằng chế độ cửa quyền phải được nhìn thấy trong tia sáng này như là một giai đoạn chuyển tiếp kinh tế hiệu quả chứ không phải là một kết thúc.
Thế giới như một tổng thể nằm trong quá trình chuyển đổi hỗn loạn, khi mà cấu trúc gia đình truyền thống và lối sống giao thoa với nhau trên mọi châu lục. Trong thách thức này, sự sống còn của xã hội và chính trị liên quan chặt chẽ với văn hóa, chính văn hóa là yếu tố có thể bảo tồn một nền tảng đạo đức để chống lại những thay đổi mang tính hủy hoại. Đông Á đã và đang là những câu chuyện thành công không thể phủ nhận trong bốn thập kỷ qua, thậm chí là giai đoạn tăng trưởng đỉnh điểm của nó bây giờ còn hơn cả vậy. Tôi đánh cược rằng Nho giáo sẽ tồn tại.
Ông Kaplan là tác giả của cuốn sách “Asia’s Cauldron (Vạc dầu châu Á): Biển Đông và sự kết thúc của một Thái Bình Dương ổn định.” Ông là thành viên cấp cao của Trung tâm an ninh Mỹ mới.
Nguồn: http://www.wsj.com/articles/asias-rise-is-rooted-in-confucian-values-1423254759
Người dịch: Thanh Tân – Cát Tường Quân
(Nam Sơn chuyển bài)