SỤP ĐỔ

Hoàng Long Hải

ING.643Nhìn xa hơn, sự sụp đổ của Miền Nam VN bắt nguồn từ giữa thế kỷ trước. Năm 1945, 46 để kích thích tinh thần chống Pháp xâm lăng Nam Bộ, trong dân chúng có câu hát “Người Việt Nam, xin đừng quên, hơn tám mươi niên…” Bài hát ấy cũng hơi xa. Gần hơn, trong “Gia Tài của Mẹ”, Trịnh Công Sơn viết: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm đô hộ giặc Tây”. So ra bài nầy cũng không xa thời hiện tại nầy lắm đâu. Hơn thế nữa, ngay lúc nầy, chúng ta không mang trên lưng mình “Gia tài của Mẹ” đó hay sao? Gia tài đó, ngoài “một ngàn năm, một trăm năm”, ngoài “nội chiến từng ngày” mà còn cả hậu quả của cuộc chiến tranh tàn khốc nhứt trong lịch sử chiến tranh của người Việt Nam, kể từ ngày lập quốc.

            Từ giữa thế kỷ trước, khi chống Pháp xâm lược, người Việt Nam có oằn người trước cây thánh giá của Giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã hay không? Nếu đọc lại sử, chỉ kể từ khi Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh, thời kỳ cấm đạo Thiệu Trị, Tự Đức và các “Phong Trào Cần Vương”, “Phong trào Văn Thân – Bình Tây Sát Tả”, người Việt Nam đổ không ít nước mắt và máu vì “thằng Tây xâm lược”, vì “những tên thực dân mặc áo thầy tu”.

            Thực dân Pháp khi xâm lăng nước ta, họ phải cõng trên lưng “Đế quốc Vatican”, núp dưới cái áo chùng đen, với danh nghĩa “khai hóa các dân tộc bán khai”, đem “ánh sáng tin mừng” cho các dân tộc mọi rợ.

            Một cách sơ lược, hai thế lực “phản động”: Thực dân Pháp cùng “đế quốc Vatican” câu kết với nhau trong cuộc xâm lăng nước ta, ở thế kỷ 19.

            Vậy thế kỷ 20 như thế nào?

            Sau khi Thế giới Chiến tranh thứ hai chấm dứt, Pháp trở lại “tái chiếm Đông Dương”. Tái chiếm Đông Dương có nghĩa là lấy lại thuộc địa của Pháp mà họ đã bị mất vì Nhựt đảo chính Pháp 9 tháng 3 năm 1945. Bọn Pháp cai trị ở Việt Nam bị Nhựt cho vào tù.

            Khi đứng lên “cướp chính quyền” 19 tháng 8 năm 1945, người Việt Nam không phân biệt nam, phụ, lão, ấu, chính trị, tôn giáo, đảng phái. Những ngày tháng 8 năm 1945, được coi như một điểm son trong lịch sử, bởi vì lúc ấy, Cộng Sản Việt Nam chưa dám lộ hình.

            Nhưng chỉ trong tháng 8 năm ấy mà thôi. Sau thời gian ngắn ngủi khoảng một tháng ấy, sự phân hóa đã manh nha: phân hóa chính trị, đảng phái, tôn giáo. Không phải nói, ai cũng biết. Nguồn gốc của sự phân hóa ấy bắt nguồn từ chủ nghĩa Cộng Sản mà Cộng Sản Việt Nam bắt đầu thực hiện ở nước ta, dưới cái áo giả “chủ nghĩa dân tộc” để đánh lừa quần chúng.

            Cũng trong trường hợp đó, bọn Thực dân Pháp khi tái chiếm Đông Dương, lại một lần nữa, cõng trên lưng cái thánh giá của Đế quốc Vatican. Trong dân chúng Việt Nam, sự mâu thuẫn lương giáo đã có, nay vết thương dân tộc bị Thực dân và Cộng Sản cắt khoét sâu hơn.

            Thế lực xâm lăng bây giờ, lại đông hơn: Có ba. Đó là Thực dân Pháp, Đế quốc Vatican núp đằng sau mũi súng của Thực dân Pháp và “can thiệp Mỹ”.Tại sao Mỹ lại dính líu vào đây?

            Tháng 2 năm 1945, khi tham dự hội nghị Yalta với Stalin, Sir Wilston, tổng thống Mỹ Roosevelt còn chủ trương “Chính sách Ủy trị” (trusteeship) cho Đông Dương. Chính sách nầy nhằm ngăn chặn các nước thực dân cũ trở lại chiếm thuộc địa của họ, sau khi chiến tranh thế giới chấm dứt.

Hội nghị Yalta tháng 2/ 1945. Hội nghị chia chác nhau thế giới Từ trái sang phải: Winston Churchill, Franklin Roosevelt, Joseph Stalin. Xa bên trái là ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav Molotov, Tướng Alan Brooke, Đô đốc Andrew Cunningham, Tướng Charles Portal (phía sau Churchill), Tướng Marshall và Đô đốc William D. Leahy (phía sau Roosevelt).

Hội nghị Yalta tháng 2/ 1945. Hội nghị chia chác nhau thế giới
Từ trái sang phải: Winston Churchill, Franklin Roosevelt, Joseph Stalin.
Xa bên trái là ngoại trưởng Liên Xô Vyacheslav Molotov, Tướng Alan Brooke, Đô đốc Andrew Cunningham, Tướng Charles Portal (phía sau Churchill), Tướng Marshall và Đô đốc William D. Leahy (phía sau Roosevelt).

Theo chính sách nói trên, Đông Dương sẽ được cai trị bằng một “Hội Đồng Ủy Trị”, do Mỹ cầm đầu cùng chính phủ 3 nước Đông Dương và một vài nước kế cận như Trung Hoa (Dân Quốc), Phi, v.v…

            Tuy nhiên, tháng 5/ 1945, Tổng thống Mỹ qua đời khi đang tại chức. Phó tổng thống Harry Truman lên thay. “Chính sách Ủy trị” bị hủy bỏ. Mỹ ủng hộ Thực dân Pháp quay trở lại chiếm Đông Dương.

             Nhiều người cho rằng ông Truman không có tinh thần Tự do, cởi mở hướng về các dân tộc nhược tiểu, bị trị như vị tiền nhiệm. Hơn thế nữa, khi Đức thua trận, Nhật đầu hàng thì chiến tranh lạnh Nga Mỹ nảy sinh. Truman không đủ khả năng đối đầu với Stalin trong chiến tranh lạnh, phải nhờ Tây Âu hỗ trợ, trong đó có Pháp. Trong ý nghĩa đó, Mỹ phải giúp Pháp quay lại Đông Dương. Lập trường Truman hoàn toàn trái ngược với Tổng thống Roosevelt. Do đó, “Chiến tranh Đông dương Lần thứ Nhất” (1946-54) bắt đầu. Nếu không có Mỹ “can thiệp”, cuộc chiến tranh nầy không kéo dài như thế.

            Bấy giờ, Việt Minh lộ rõ là Cộng Sản trá hình, việc người Pháp trở lại Đông Dương, cỏng thêm đế quốc Vatican trên lưng, và “can thiệp Mỹ” có lý do chánh đáng: “Chống Cộng Sản vô thần”.

            Kẹt là ở những người Quốc gia chống Pháp tái xâm lăng nhưng cũng chống Việt Minh Cộng Sản.

            Hoàn cảnh nầy được ông Bùi Diễm mô tả lại trong cuốn sách của ông “Trong gọng kìm lịch sử” khi ông trốn Việt Minh vào ở vùng Bùi Chu – Phát Diệm.

            Thế kẹt của họ là không thể theo Việt Minh. Dù có theo cũng bị Việt Minh giết, thủ tiêu, khủng bố như Việt Minh  đã từng làm với các lãnh tụ đảng phái Quốc Gia như Trương Tử Anh, Hoàng Đạo, Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, Khái Hưng… Không theo Việt Minh thì họ không có đất… sống. Nơi họ có thể núp bóng tạm thời được là các vùng có Đạo như Bùi Chu, Phát Diệm ở Bắc, các làng đạo ở miền Trung, vùng Cao Đài Hòa Hảo ở Nam Bộ. Cũng không thể trú ngụ ở vùng nầy lâu dài, họ phải về sinh sống ở các vùng “Pháp tạm chiếm”, như Hà Nội, Huế, Saigon, các thành phố lớn ở Trung – Nam – Bắc do Pháp chiếm đóng. Đó là nỗi khổ tâm lớn đối với họ. Chống Tây rồi lại “mang tiếng” theo Tây.

            Số người trong trường hợp nầy càng ngày càng đông, khi Việt Minh lộ rõ bộ mặt Cộng Sản thì họ thấy “thừa”, vì “thừa” nên bỏ Việt Minh mà về:

Hớt Tóc

Tuổi già thêm bệnh hoạn
Kháng chiến thấy thừa ta
Mối sầu như tóc bạc
Cứ cắt lại dài ra.

(1952)

            Ông Phan Khôi thấy đơn giản chỉ có thế: “Kháng chiến thấy thừa ta”. Ông thấy “thừa” vì có những lý do riêng giữa Ông Phan và Hồ Chí Minh. Chưa bao giờ Phan Khôi có một lời “khen” chớ đừng nói là ca ngợi như Hồ muốn mọi người phải làm thế. Ấy là chưa kể Phan Khôi “chơi khăm” Hồ Chí Minh ít nhất là hai lần.

Sau khi Việt Minh cướp chính quyền ở Quảng Nam, ngại để ông Phan ở xa, Hồ Chí Minh bèn “mời khéo” Phan Khôi ra Hà Nội. Kẹt là các em ông Phan Khôi đều là cán bộ Cộng Sản nồng cốt mà Hồ Chí Minh đang trông cậy. Đó là Phan Bôi, Phan Thao, Phan Mỹ, Phan Mạch. Ông Phan Khôi cũng kẹt, đành phải ra Hà Nội theo lời mời của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi ra tới nơi, Phan Khôi lại tới ở chung nhà với Khái Hưng, một người ông Phan Khôi rất yêu mến. Khái Hưng lại ở trong nhóm Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo, chống Hồ Chí Minh.

Khi chiến tranh bùng nổ (12/ 1946), Phan Khôi phải lên chiến khu. Ông chỉ có một việc làm, ấy là dịch truyền đơn ra tiếng Pháp. Đến khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội theo Hiệp Định Genève 1954, ông Phan về theo. Trong một bữa tiệc người ta mời ông, ông cầm miếng thịt gà cười nói: “Mấy năm nay tao mới gặp mặt mày.”

            Ông Phan Khôi theo Việt Minh, Việt Minh không dùng ông, nên ông thấy thừa.

            Tuy nhiên, với những người yêu nước, muốn tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập nhưng không theo Việt Minh được, cũng thấy mình “thừa”, và thấy buồn. Đó là nỗi buồn lớn của những người yêu nước. Họ yêu đất nước, yêu dân tộc, đau với nỗi đau chung của dân tộc “Một trăm năm nô lệ…” Họ muốn chống Tây nhưng họ phải làm gì được bây giờ đây hay chỉ thấy mình “thừa”.

            Đối với lịch sử, ngay thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến nầy, người Cộng Sản thấy công họ lớn lắm. Đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bời cõi, – chỉ là ở Bắc vĩ tuyến 17 -, nhưng tội của họ thì cũng lớn lắm, kể không hết được.

            Tuy nhiên, cả ba sức mạnh: Thực dân Pháp, Vatican và “can thiệp Mỹ”, không đánh bại được Việt Minh.

Tại sao?

Tại Việt Minh khéo léo núp dưới “cái áo dân tộc”. Nói đúng ra, Pháp thua, Vatican thua, “can thiệp Mỹ” cũng thua luôn, không phải “thua Việt Minh” mà thua dân tộc Việt Nam.  Không núp dưới cái áo dân tộc, thử hỏi Việt Minh làm được cái gì?

Ở điểm nầy, cần phân biệt rõ ràng như thế!

Rồi Mỹ bỏ Pháp.

Người Pháp không kham nỗi cuộc chiến tranh Đông Dương. Họ yếu kém về nhiều mặt. Khi họ bị Việt Minh “kéo” tới Điện Biên Phủ, “dần cho một trận” thì đành thúc thủ.

Nếu Mỹ không can thiệp vào trận đánh ấy, chắc chắn Pháp sẽ thua. Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault qua Mỹ cầu cứu. Ít ra, nếu Mỹ chịu cho các pháo đài bay oanh tạc vùng chung quanh lòng chão Điện Biên Phủ, tiêu diệt các đại pháo của Việt Minh, quân Pháp có thể cố thủ được.

Thế mà Mỹ không làm!

Bấy giờ, Thượng nghị sĩ Johnson chính là người kịch liệt chống lại việc Mỹ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. (Sau nầy, khi làm tổng thống, lại chính ông là người cho đổ nửa triệu quân Mỹ vào Nam Việt Nam).

Pháp thua, hiệp định Genève ký kết, không có chữ ký của Bedell Smith, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, trưởng đoàn và Bác sĩ Trần Văn Đỗ, ngoại trưởng chính phủ Quốc Gia VN. Cộng Sản cho rằng ngay từ đầu, Mỹ và Việt Nam Quốc Gia đã có âm mưu phá hiệp định khi không chịu ký. Phía Mỹ và Quốc Gia thì chủ trương không ký nhưng vẫn tôn trọng.

Trưởng đoàn đại diện của Quốc gia Việt Nam, bác sĩ Trần Văn Đỗ, tuyên bố không ký vào Hiệp định Genève với lý do hiệp định gây chia cắt Việt Nam và đẩy Quốc gia Việt Nam vào thế nguy hiểm. Đại diện phái đoàn Quốc gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của (Quốc gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư lệnh Pháp đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam… chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.

Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối ký và không công nhận Hiệp định Genève nhưng ra tuyên bố họ“sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực vi phạm Hiệp định là điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc tế”.

Phía Mỹ cũng nêu rõ quan điểm tiếp tục cố gắng đạt được sự thống nhất thông qua những cuộc tuyển cử tự do được giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm chúng diễn ra công bằng

Cuối cùng, do âm mưu của các cường quốc, ngoại trừ Mỹ, nước Việt Nam bị chia hai ở vĩ tuyến 17. Gần một triệu người di cư vào Nam. Chính phủ Mỹ viện trợ trực tiếp cho chính quyền miền Nam về kinh tế và tài chánh, kiện toàn Quân đội Miền Nam, với danh xưng mới là  Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa của chính thể Việt Nam Cộng Hòa vừa được ông Ngô Đình Diệm thành lập.

Tuy được đa số dân chúng ủng hộ, nhưng chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn chưa phải là một chính phủ của dân, vì dân bởi vì những cuộc bầu cử Tổng thống, Quốc hội đều gian lận, và chế độ Miền Nam, mặc dù có danh xưng là Cộng Hòa, nhưng vẫn là một chính phủ độc tài, độc đảng (Cần Lao) cai trị.

Quan trọng hơn, vẫn là cái bóng “đế quốc Mỹ” và “đế quốc Vatican” ở đằng sau chế độ nầy. Cả hai cái bóng nầy chính là hai thế lực đưa ông Ngô Đình Diệm về cầm quyền. Tuy ông Ngô Đình Diệm được tiếng là người chống Tây, yêu nước, nhưng ông không phải từ dân chúng mà ra, cũng giống như các thủ tướng chính phủ Quốc gia trước đó, như tướng Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Hữu, Bửu Lộc… Các ông từ bên Tây, bên Mỹ về cầm quyền.

Đối với người Việt Nam, điều nầy rất quan trọng. Sau “một trăm năm nô lệ giặc Tây”, với mặc cảm bị trị, bị bóc lột, bị đàn áp, tù đày và giết chóc, người Việt Nam “kỵ” người Tây Phương“mắt xanh mũi lõ”, dù đó là người Mỹ, không phải người Pháp, và “kỵ” với cả các ông cố đạo người Tây. Đó cũng là một lý do tại sao người Việt Nam thấy “gần gũi” với người Nhật hơn, tuy người Nhật tàn ác cũng không kém mấy ông Tây thực dân.

Viết tới đây, tôi nhớ tới một câu đồng dao, mô phỏng theo điệu kèn Tây (clairon), tôi biết từ khi còn rất nhỏ: “Một ngàn ba mươi vạn ông Tây, mụ ăn mày xách cái bị đi xin.” Tại sao đem 1triệu 300 ngàn “ông Tây” mà ví với “mụ ăn mày”. Hễ có nhiều người Tây thì VN có nhiều ăn mày chăng? Có nghĩa là Tây bóc lột người VN chăng? Cái ấn tượng thuở ấu thơ không dễ phai mờ.

Cũng quan trọng là người Mỹ đến Việt Nam, với danh nghĩa làm cố vấn cho quân đội miền Nam, nhưng người Mỹ vẫn là người da trắng, mắt xanh mũi lõ như người Pháp. Đối với số đông người Việt Nam, tuy họ vui mừng vì người Pháp bị buộc phải rời khỏi Việt Nam, nhưng họ lại có ấn tượng không mấy tốt đẹp về người Tây Dương từng nô lệ dân Việt Nam gần một trăm năm, và chỉ mới đây, lính Tây có nhiều hành động hung ác như đốt nhà, hiếp dâm phụ nữ, giết dân lành…

Tuy nhiên, đối với một số người Việt Nam, vì cuồng tín tôn giáo, vì đặt quyền lợi tôn giáo lên trên quyền lợi của Tổ Quốc, hoặc ngay cả quyền lợi của riêng họ, hay giai cấp thống trị của họ, thì Tây cuốn gói về Tây mà với người Mỹ, họ thiếu lòng tin tưởng, vì người Mỹ vốn có tinh thần Tự do Dân chủ truyền thống của Cách Mạng Mỹ. Việc thiếu tin tưởng và lo sợ người Mỹ đã khiến Giám mục Phạm Ngọc Chi phải giải thích, trấn an: “Cha giám mục Phạm Ngọc Chi đã dạy cho tui là khi người Da trắng còn hiện diện ở Việt Nam thì họ còn cần đến những người Công giáo như chúng ta” (tr 313, “Đảng Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh do Mẹ Việt Nam, xuất bản, 1993).

Người Âu Mỹ, súng đạn của Âu Mỹ, trang bị quân đội theo kiểu Âu Mỹ, và thế lực mạnh mẽ của đạo Thiên Chúa La Mã và chế độ độc tài… là những yếu tố làm cho dân chúng thấy xa rời với chính quyền Miền Nam, làm cho dân chúng cảm thấy họ vẫn là người bị cai trị, chưa phải là người “làm chủ đất nước” của mình.

Thời Đệ Nhị Cộng Hòa có chỉnh sửa đấy. Người dân thôn quê bỗng thấy vui và ấm lòng khi thấy những toán cán bộ mặc áo đen, đến tận nhà của họ, cùng ăn cùng ở cùng làm, sửa nhà, lợp mái, cuốc đất, làm vườn, chăm sóc người già, dạy dỗ cho trẻ em…. Và họ hát những bài ca rất gần gũi với người dân quê: “Chiếc áo màu đen là mầu dân tộc…” Âm nhạc cũng đến với họ, phim kịch cũng đến với họ, cơm áo, tiền cứu trợ cũng đến với họ, “tôn”-ximăng cũng đến với họ… Nhưng tất cả không ở lại lâu. Trước khi trời tối, cán bộ, quân lính đều trở về xã, về quận, hoặc ngủ qua đêm trong đồn, còn dân chúng thì ở lại đó, trong nhà mình, trong thôn mình và chờ… Việt Cộng tới hỏi tội, khủng bố, tình nghi “hợp tác với địch” giết, hoặc bắt đem đi không có ngày về…

Chỉ có một cái ở với họ lâu nhưng sau tháng Tư /1975 trở thành vô dụng. Đó là tờ “chứng khoán của người cày có ruộng” rằng ruộng họ đang cày là ruộng của họ, không còn là ruộng của chủ điền.

&

Người Mỹ cũng không “dài hơi” hơn người Pháp. Điều 4 trong thông cáo Thượng Hải tháng 2/ 1972 là: Thỏa thuận cùng phối hợp hành động để phát triển sự hợp tác và trao đổi khoa học kĩ thuật, văn hoá, thể thao, thương mại giữa hai nước.(Tàu và Mỹ – tg).

Việc Mỹ bắt tay với Trung Cộng, và sẽ tiến tới bắt tay với Cộng Sản Hà Nội: Giả sử như tôi có thể ngồi đối diện với bất cứ ai là người lãnh đạo Bắc Việt Nam, và giá như hai bên có thể thương thuyết một cuộc ngưng bắn và trả lại tù binh cho chúng tôi, thì tất cả quân đội Mỹ sẽ được triệt thoái khỏi Việt Nam trong vòng sáu tháng kể từ ngày đó. Chính Tổng thống Nixon viết lại trong hồi ký của mình, trong những ngày viếng thăm Trung Cộng từ 21 tới 28 tháng 2, 1972, đã nói với Chu Ân Lai như thế.

            Trong tiến trình “chạy làng” của Mỹ, nhắm bộ La-Mã không biết gì cả hay sao? Nếu người Mỹ “bắt tay” với Cộng Sản Hà Nội thì những người theo đạo Thiên Chúa La Mã, ngày trước đã vào Nam “tỵ nạn Cộng Sản”, vậy khi Cộng Sản chiếm miền Nam, họ còn có nơi nào để tiếp tục tỵ nạn nữa hay không?

Về phía Vatican, họ biết người Mỹ đang âm mưu cái gì chứ, hay chính phía Mỹ hội họp và thông báo cho Vatican biết lập trường và đường lối của Mỹ ở miền Nam sẽ theo chiều hướng nào?

Đối với dân chúng miền Nam, người Mỹ có thể “đem con bỏ chợ” chứ với Vatican, họ không thể làm như thế được. Đọc bài viết “Liên Minh Thần Thánh” (Holy Alliance), người ta biết nội dung cuộc họp giữa Tổng thống Reagan và Giáo hoàng Giăng-Pôn II như thế nào, và kết quả của nó là cả hai vị đều bị mưu sát, thoát chết trong gang tấc, rồi chế độ Cộng Sản Ba Lan sụp đổ. Việc sụp đổ ở Ba Lan “như một nhát dao đâm thấu trái tim Cộng Sản”, khiến Thế giới Cộng Sản sụp một cái ầm trong một sớm một chiều, làm cho cả thế giới vừa kinh ngạc vừa thích thú, vui mừng.

            Giữa Vatican và Hoa Thịnh Đốn không mấy khi không bàn luận với nhau về các vấn đề lớn trên thế giới. Ông Ngô Đình Diệm khi trở về Việt Nam cầm quyền lãnh đạo đất nước, cũng nặng cả hai vai: một bên là “đế quốc Mỹ”, một bên là “đế quốc Vatican” cả hai cùng mở đường cho ông Diệm cầm quyền.

            Cũng từ đó mới có việc đòi hỏi “hòa hợp hòa giải”, “chống chế độ của Tổng thống Thiệu” không phải là cách chuẩn bị để sống chung với Cộng Sản hay sao? Vậy thì để “lập công”, hãy đòi lật đổ chính phủ Saigon. Cách thức đó, không nằm ngoài ý nghĩa đích thực của “Phong trào chống tham nhũng” của linh mục Trần Hữu Thanh và hơn ba trăm tu sĩ của Giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã ở Việt Nam? (1)

            Đây là nỗi đau khổ của người miền Nam chống Cộng, bảo vệ Tự do, và dĩ nhiên, người cay đắng nhứt là Tổng thống Thiệu. Ông Trần Phú Trắc, cháu gọi Tổng thống Thiệu bằng cậu ruột, nói chuyện với anh em chúng tôi, tù cải tạo, khi còn ở trại Z30-A như thế nầy: “Ông Thiệu nói “mình đi với Mỹ giống như “bộ binh tùng thiết”, khéo thì nó che đạn cho mình, lớ ngớ khi nó “de” lui, nó cán lên mình.”

            Thời điểm nầy là lúc Mỹ “de” M-113, và nó đã cán lên Quân đội và Dân chúng miền Nam.

&

            Rồi Mỹ bỏ chạy, các linh mục, giám mục ở lại, nếu không đi tù cải tạo, nếu chịu sống yên ổn với Cộng Sản Hà Nội, thì họ phải “giảng kinh thánh bằng ngôn ngữ Mác”. Thế là xong hay sao?

&

            Thật ra, người Mỹ đâu có đơn giản như vậy. Tham vọng của đế quốc Mỹ không giống như tham vọng của Đế quốc La Mã ngày trước hay sao? Thế tại sao họ đặt tên tòa nhà Quốc hội Mỹ là Capitol giống tên Capitoline Hill của Đế quốc La Mã.

            Do đó, bây giờ, khi người Mỹ quay trở lại Đông Nam Á, không lý không chuẩn bị quay trở lại Việt Nam, không thiết lập liên minh nầy hoặc liên minh kia với Việt Nam? Họ không cần đổ vào miền Nam nửa triệu quân như năm 1967, 68, nhưng thế lực, sức mạnh kinh tế tài chánh của Đế quốc Mỹ sẽ hiện diện ở Saigon, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế…

            Trong viễn tượng đó, vai trò Vatican thì sao?

            Nhiều người biết rằng, – nhờ thông báo hay tiên đoán -, cùng với thế lực của Đế quốc Mỹ là thế lực Đế quốc Vatican, và họ đang “đón gió” chờ cơ hội như đã từng có trước 1975 vậy: Vực lại tinh thần Vatican đã từng có ở Việt Nam, như trước khi Cộng Sản cai trị. Các hoạt động đó là “Phục hưng Tinh thần Ngô Đình Diệm”, in ấn sách báo, truyền hình, phát thanh, ủng hộ, tổ chức cho những tên vô học phùng má trợn mắt vu vạ người nầy người kia Cộng Sản, tội đồ dân tộc, nhằm đánh phá các thế lực, những cá nhân, nhất là bên phía Phật giáo, tất cả những cái gì có thể là trở ngại cho con đường trở về nắm quyền cai trị Việt Nam như đã từng có từ sau hiệp dịnh Patenôtre 1885.

            Sau khi Cộng Sản Hà Nội sụp đổ, – dĩ nhiên nó phải sụp đổ -, Dân tộc ta, rồi ra sẽ phải chịu áp bức của những ngoại bang nào: Thực Dân Pháp còn ngo ngoe trở lại nữa hay không? Mỹ không thể không quay lui khi họ đặt trong tâm chiến lược trở lại vùng Đông Nam Á, trong đó, Việt Nam, kể về dân số chỉ đứng đằng sau Indônêsia. Thế lực Vatican cũng không thể rời xa, như trước kia, họ đã từng “liên minh” với Pháp và Mỹ. Và còn nữa, Đế quốc Trung Hoa đang âm mưu, không phải để “một ngàn năm đô hộ” mà đồng hóa người Việt thành Hán tộc như chúng đã làm với 99 Việt của Bách Việt.

            Hơn 150 năm qua, kể từ khi ngoại bang xâm lăng, can thiệp vào VN, cho tới bây giờ, dân tộc VN chưa bao giờ thoát khỏi thân phận nhược tiểu với nhiều cay đắng, trước âm mưu thâm độc của các thế lực thống trị ngoại bang.

Hoàng Long Hải

Phụ lục (Về phong trào chống tham nhũng năm 1974-75

Ngày 6-6-74, Đại-Sứ Martin, khi sắp về Mỹ, đoan chắc với Thiệu là Hoa-Kỳ không giúp “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” của Linh-Mục Trần Hữu Thanh trong việc chống Thiệu (mặc dù nhiều nguồn tin quả-quyết như thế). Trung-Tướng Đặng Văn Quang [Cố-Vấn Quân-Sự, Phụ-Tá An-Ninh & Tình-Báo của Thiệu] yêu-cầu Polgar nhắc Martin thúc-giục viện-trợ kinh-tế cho Việt-Nam, và hứa sẽ [nhượng-bộ] trả tự-do cho Trần Ngọc Châu [người của CIA, cựu Tỉnh-Trưởng Kiến-Hòa, cựu Dân-Biểu, bị Thiệu cầm tù về tội liên-lạc với VC] để làm vui lòng Quốc-Hội Hoa-Kỳ.

Thượng-Nghị-Sĩ Hoàng Xuân Tửu, Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện, bèn đại-diện Đảng Đại-Việt tham-gia “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” của Linh-Mục Trần Hữu Thanh.

Đảng Đại-Việt muốn lợi-dụng “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” là tổ-chức đang mạnh-dạn xuống đường chống-Thiệu, để cùng làm đồng-minh, ở cấp cao.

Tất-nhiên, có qua thì có lại, “Phong-Trào” cũng có người xâm-nhập Đảng Đại-Việt, để cùng làm đồng-chí, ở cấp cao.

Phong-trào này chỉ là nhất-thời; nhưng chính-đảng kiaĐại-Việtthì là trường-kỳ.

Khi “Phong Trào” cởi bỏ cái lốt áo nhất-thời, thì sẽ còn lại một đại-khối hơn 300 bộ áo chùng đen và hằng triệu tín-đồ làm chủ, trong lúc các chính-khách [Đại Việt] trở thành thiểu-số dân ngoại.

Khi các lãnh-tụ chính-đảng về già, lớp trẻ lên thay, các cán-bộ mới, chính gốc giáo-dân, sẽ lấn giành làm lãnh-tụ, trong Đảng Đại-Việt trường-kỳ.

Trong viễn-cảnh đó, Chủ-Tịch Hà-Thúc-Ký đã đi sai/hỏng một nước cờ*.

——-

*Trong buổi lễ giỗ đầy năm của cố lãnh-tụ Đảng Đại-Việt Cách-Mạng, và giới-thiệu cuốn hồi-ký “Sống Còn Với Dân Tộc” của họ Hà, được tổ-chức tại Hội-Đường HomeTown America Community, số 1955 Đường Quimby, Thành-Phố San Jose, USA, vào ngày Thứ Bảy, 10-10-2009, có sự hiện-diện của Bà quả-phụ Hà Thúc Ký, cựu Đại-Sứ Bùi Diễm, Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh, các Tiến-Sĩ Lê Đình Cai và Đỗ Hùng, các đại-diện Hệ-Phái Nguyễn Tôn Hoàn, cựu Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình, v.v… khi được mời lên phát-biểu, tôi đã ngỏ lời ngắn-gọn, trong đó có đoạn đại-ý:

 

“Năm 1960, tôi bị đày đi khỏi Huế vì Đệ-Nhất Cộng-Hòa nghi tôi là Đại-Việt. Năm 1974, lúc định đưa tôi ra Huế lại, Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình chất-vấn tôi có theo một đảng nào không, tức là Đệ-Nhị Cộng-Hòa cũng nghi tôi là Đại-Việt. Năm 1992, tôi qua Mỹ, các bạn cũ rủ tôi đi họp, vì cũng tưởng tôi là Đại-Việt.

“Nhưng, trong một năm rưỡi sau-rốt của tôi tại Khu I, cũng là một năm rưỡi cuối-cùng của VNCH tại Miền Trung, tôi đã dập tắt mọi mưu-toan gây rối của mọi đảng, kể cả Đảng Đại-Việt, và mọi hội đạo, kể cả Hội Đạo Kitô. Đối với tôi, Đảng Đại-Việt không nguy-hại bằng Phong-Trào Kiến-Tạo Hòa-Bình.”

 

Khi bế-mạc, Thiếu-Tướng Nguyễn Khắc Bình đến vỗ vai tôi mà nói: “Toa không phải là Đại-Việt, nhưng toa có máu Đại-Việt!”

 

Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc

Phong-Trào Chống Tham-Nhũng

Nói đến “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”, tưởng cần nhắc lại một số hoạt-động nổi bật của giới Kitô-Giáo trong và ngoài Việt-Nam Cộng-Hòa.

Trong thời-gian diễn ra Hội-Nghị Paris (từ 1968 đến 1973), Giáo-Hoàng Phaolô VI đã nhiều lần “nhân đạo” kêu gọi chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam.

Tháng 12-1969, Giám-Mục Phạm Ngọc Chi, Phó Chủ-Tịch Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam, qua Hoa-Kỳ, đã tuyên-bố với báo-chí Mỹ: “Miền Nam [Việt-Nam] đồng-tình với chính-sách ‘Việt-Nam-Hóa Chiến-Tranh’ của Tổng-Thống Nixon.”

Tháng 9-1972, Đại-Hội lần 2 của tổ-chức “Kitô-Hữu Quốc-Tế” gồm 20+ nước họp tại Quebec (Canada), với đề-tài giải-phóng các dân-tộc Việt―Lào―Campuchia, đã “tố-cáo các cuộc xâm-lăng và ném bom vô-nhân-đạo của Mỹ, khẳng-định quyền tự-quyết, tự-do được sống hòa-bình của nhân-dân Việt-Nam.”

Tức là việc Mỹ chuẩn-bị rút lui đã được Kitô-Giáo Việt-Nam, giáo-dân mấy chục nước khác, và nhất là Giáo-Hoàng Phaolô VI tán-đồng, không còn đánh nhau với Cộng-Sản nữa.

Ngày 20-9-1970, Linh-Mục Phan Khắc Từ, Tuyên-Úy Thanh Lao Công Sài-Gòn, qua Châu Âu, đã tuyên-bố tại Thành-Phố Firenze (Ý, nơi có Tòa Thánh Vatican): “Kinh-nghiệm trước mắt cho chúng tôi xác tín rằng Giáo-Hội [Kitô] tại Việt-Nam hôm nay là một công-cụ hữu-hiệu của người Mỹ.”

Tháng 3-1971, Linh-Mục Nguyễn Viết Khai tuyên-bố: “Từ chính-quyền trung-ương xuống cho tận anh Trưởng Ấp, người Miền Nam không được phép giải-quyết vấn-đề của mình mà không có người nước ngoài xen vào.”

Tháng 11-1971, Linh-Mục Trương Bá Cần, Tuyên-Úy Thanh Lao Công toàn-quốc, tham-gia vụ đình-công tại Hãng Pin “Con Ó”, bị Cảnh-Sát bắt, đã viết: “Giáo Hội của tôi không biết chọn, nhất là chọn để chống lại những kẻ đang nắm quyền-hành trong xã-hội này… Giáo Hội của tôi cũng đã biết lựa chọn, nhưng không biết lựa chọn người nghèo khổ…”

Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đồng-ý với lời cáo-buộc và chiêu-bài của đối-phương.

Nhưng, sau Hiệp-Định Paris 27-1-1973 [chấm dứt chiến-tranh Việt-Nam], thì Bắc-Việt gia-tăng nỗ-lực và quyết-tâm tiến-chiếm Miền Nam.

Ngày 19-9-1973, Tổng-Giám-Mục Sài-Gòn Nguyễn Văn Bình đọc diễn-văn khai-mạc “Năm Thánh”: Chúng tôi hy vọng rằng những cuộc giết chóc và hận thù sẽ thực- sự chấm dứt trên mảnh đất này và đồng thời có được quan hệ hai chiều giữa Bắc và Nam, trong lúc đất nước tạm thời còn phân chia.”

Ngày 10-1-1974, sau cuộc Hội-Nghị toàn-thể hàng giáo-phẩm, các Giám-Mục Miền Nam đã công-bố một bản tuyên-ngôn “tha thiết kêu gọi hai chính phủ Bắc và Nam cùng đồng loạt, vì tình thương dân tộc, mà ngưng mọi hoạt động gây chiến và mọi chiến dịch bôi nhọ và thù ghét lẫn nhau.”

Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam [Cộng-Hòa] không đề-cập đến việc Bắc-Việt vi-phạm Hiệp-Ước, mà chỉ muốn Miền Nam bắt tay làm hòa với Miền Bắcđối-nghịch lập-trường “4 Không” của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Giáo-Hội Kitô-Giáo Việt-Nam ở Sài-Gòn ra “Thư Chung” phát-động cuộc tranh-đấu “chống tham nhũng”, chống Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu. Họ đòi Thiệu phải từ-chức, vận-động trưng-cầu dân-ý buộc Thiệu phải ra đi.

Lời kêu gọi đó đã dấy lên liền một “Phong-Trào” gọi là “Chống Tham-Nhũng”.

*

Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” do Linh-Mục Trần Hữu Thanh cầm đầu, các LM Đinh Bình Định và Nguyễn Học Hiệu cùng Bác-Sĩ Nguyễn Thị Thanh phụ-lực, qua một bản “Tuyên Ngôn” được sự bảo-trợ của 301 linh-mục khác, kể cả “Tuyên-Úy Công Giáo”, ra mắt tại Giáo-Xứ Tân Việt, Sài-Gòn, từ năm 1973, là một tập-hợp tương-đối lớn, có nhiều tín-đồ nhất, và tại nhiều địa-phương nhấtso với Nhóm các linh-mục cộng-sản nằm vùng và thân-Cộng tại Sài-Gòn.

Phong-Trào” được sự tham-gia của các nhân-vật ngoài Kitô-Giáo, như Thượng-Nghị-Sĩ  Hoàng Xuân Tửu và Dân-Biểu Nguyễn Văn Kim cùng nhiều DB thuộc Đảng Đại-Việt của Hà Thúc Ký và phía Dương Văn Minh; DB Đặng Văn Tiếp phía Nguyễn Cao Kỳ; DB Nguyễn Văn Cử chống Diệm và phía Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng; DB Vũ Công Minh phía Hòa-Hảo; DB Đỗ Sinh Tứ phía quân-đội; Bác-Sĩ Nguyễn Tuấn Anh; Luật-Sư Đặng Thị Tâm; Nhân-Sĩ Nguyễn Trân; v.v…

Linh-Mục Thanh được báo-chí ngoại-quốc tặng cho danh-hiệu “Hiệp Sĩ của Người Nghèo”.

Sau đó, “Phong-Trào” công-bố các bản “Cáo Trạng” trong các cuộc biểu-tình, xuống đường rầm-rộ dữ-dội và liên-tục của các tín-đồ do các linh-mục lãnh-đạo có khi có hàng chục ngàn người tham-dự tại Huế, Đà-Nẵng, Quy-Nhơn, Nha-Trang, Cam-Ranh, Sài-Gòn, Mỹ-Tho, Cần-Thơ, v.v…

Cuối năm 1974, nhất là đầu năm 1975, những cuộc biểu-tình chống-chính-phủ của nhóm Linh-Mục Trần Hữu Thanh, có sự tham-gia của một số chính-khách, lãnh-tụ đảng-phái, cộng với việc Hội-Đồng Giám-Mục Việt-Nam phổ-biến “Thư Chung”, kêu-gọi các Nhà Thờ toàn-quốc “chống tham nhũng”, thúc-đẩy giáo-dân xuống đường rầm-rộ, liên-tục… đã khiến cho các binh-sĩ ngoài tiền-tuyến chán-nản, mất tinh-thần, và ảnh-hưởng tai-hại đến sự sống-còn của đất-nước.

Bên cạnh “Phong-Trào” của LM Trần Hữu Thanh, còn có các Nhóm tay sai và thân-Cộng, là các LM Trương Bá Cần, Thanh Lãng, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm “Đối Diện” của 11 linh-mục phản-chiến Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v… trong mấy tháng cuối-cùng, đã lợi-dụng các buổi thuyết-giảng tại các Nhà Thờ để công-khai tuyên-truyền cho “người anh em bên kia”.

(Điển-hình là Phan Khắc Từ, từ năm 1969 đã đi dự đại-hội Thanh Lao Công Thế-Giới có xu-hướng thân-Cộng được Mạc-Tư-Khoa đỡ đầu, tại Liban. Ở Pháp thì đến hội-ý với Nguyễn Thị Bình, Trưởng Phái-Đoàn thương-thuyết của “Mặt Trận Giải Phóng”; tham-gia đình-công; biểu-tình đòi công-bằng cho giới lao-động; cùng sinh-viên và công-nhân đòi hòa-bình cho Việt-Nam. Sau này về nước thì dính vào Mặt Trận Nhân-Dân Tranh-Thủ Hòa-Bình, Phong Trào Học-Sinh Sinh-Viên Đòi Quyền Sống, Phong-Trào Chống Tăng Học-Phí, Chống Độc-Diễn; đóng vai “linh-mục hốt rác” gây sự chú ý của dư-luận; dùng Nhà-Thờ Vườn Xoài làm nơi chế-tạo bom xăng cho phong-trào đốt xe Mỹ trên đường phố; cùng công-nhân đình-công để gây trở-ngại cho các cuộc hành-quân; tiếp tay CS dựng lên Ủy-Ban Bảo-Vệ Quyền-Lợi Lao-Động Miền Nam; rồi lại giả-danh từ-thiện hoạt-động trong tổ-chức trá-hình của CS là Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói…)

Chủ-Tịch Thượng-Nghị-Viện Trần Văn Lắm lên án Tổng-Thống Thiệu “lạm quyền, tham nhũng”.

Một số lãnh-tụ đảng-phái và tôn-giáo, như Phan Bá Cầm (Hòa-Hảo), Trần Quang Vinh (Cao-Đài), Hà Thế Ruyệt (Duy-Dân), Thượng-Tọa Pháp-Tri và các Ông Ngô-Văn-Ký, Nguyễn Văn Lục, Xuân Tùng (Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng) thành-lập “Trận Tuyến Nhân Dân Cách Mạng”, kêu-gọi TT Nguyễn Văn Thiệu từ-chức và các phe liên-hệ “chấm dứt chiến-tranh, giải-quyết vấn-đề Miền Nam bằng phương-thức hòa-bình”.

Nhóm “Sóng Thần” thì tổ-chức “Ngày Ký-Giả đi Ăn Mày” rồi tiếp theo là “Ngày Công-Lý và Báo-Chí Thọ-Nạn” vào tháng 10-1974.

Các Tuyên-Úy Công-Giáo thì tổ-chức Đại-Hội tại Thủ-Đô. Họ rao giảng với giáo-dân quân-nhân rằng “cộng-sản cũng là con-cái của Chúa”, rằng “Công-Giáo và CS có thể sống chung hoà-bình”…

Bản “Cáo Trạng số 1” được ghi là ký tại Huế vào ngày 8-9-1974, khi được tung ra tại Nhà Thờ Tân-Sa-Châu, Sài-Gòn, có báo bảo là “làm lung-lay ghế Tổng-Thống Thiệu.”

Các báo Time, Newsweek; các đài BBC, VOA đều loan tin.

Hậu-quả là Quốc-Hội Mỹ quá chán-ngán Chiến-Tranh Việt-Nam và mệt-mỏi vì đã yểm-trợ một đồng-minh có quá nhiều khuyết-điểm và thối-nát.

Tức là giới Kitô-Giáo Việt-Nam đã tiếp tay cho Hoa-Kỳ chấm dứt viện-trợ và phủi tay đối với Việt-Nam Cộng-Hòa.

Việc Mỹ cắt-giảm quân-viện đã làm tê-liệt hẳn khả-năng chiến-đấu của Quân-Lực VNCH, và từ đó làm suy-nhược tinh-thần kháng-cự, yếu-tố quan-trọng nhất trong bất-kỳ cuộc chiến-tranh nào.

*

Về phần Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu thì ông đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu tại chính-quốc Hoa-Kỳ, nhưng đã không được nghênh-đón long-trọng tại Thủ-Đô Hoa Thịnh Đốn. Năm 1968, Johnson (chủ-chiến, Dân-Chủ) chỉ tiếp Thiệu tại thành-phố đảo Honolunu, và chỉ để thảo-luận sách-lược hòa-đàm với Cộng-Sản. Năm 1969, Nixon (chủ-hòa, Cộng-Hòa) cũng chỉ tiếp Thiệu tại Đảo Midway, và cũng chỉ để thỏa-thuận về chính-sách Việt-Nam-Hóa và lịch-trình rút quân của Mỹ.

Thiệu lại đích-thân đi trực-tiếp cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô La-Mã, là một trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của thế-giới. Tuy nhiên, Giáo-Hoàng Paul VI, trong cuộc viếng-thăm lục-địa Á-Châu lần đầu-tiên, đã không ghé đến Việt-Nam là quốc-gia đang bị Cộng-Sản đe-dọa, nhất là Việt-Nam có tỷ-số giáo-dân đông thứ nhì tại lục-địa này. Thiệu đến Tòa Thánh, nhưng không được Giáo-Hoàng tiếp-kiến―dù Thiệu là một Tổng-Thống, một con chiên―vì lập-trường của Vatican về vấn-đề Chiến-Tranh Việt-Nam là chỉ bênh-vực Hà-Nội, chỉ muốn chấm dứt chiến-tranh dù Miền Nam có rơi vào chế-độ Cộng-Sản sắt máu. Đã thế, Giáo-Hoàng còn chỉ-trích Thiệu, lại còn tiếp-kiến cặp Nguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, trưởng phái-đoàn Cộng-Sản tại Hòa-Hội Paris.

Từ năm 1968, Giáo Hoàng Phaolồ Đệ-Lục đã lập ra “Ngày Quốc-Tế Hòa-Bình”, cổ-vũ Hòa-Bình bằng thương-thuyết tại Việt-Nam. Vatican xác-định lập-trường là chấm dứt chiến-tranh, quan-hệ tốt với Miền Bắc và Chính-Phủ Lâm-Thời Miền Nam. Chính Giáo-Hoàng trao-đổi công-điện trực-tiếp với Hồ Chí Minh.

Vào tháng 6-1971, đang lúc tên gián-điệp cộng-sản Vũ Ngọc Nhạ (kẻ được Linh-Mục Hoàng Quỳnh che-chở) bị Việt-Nam Cộng-Hòa cầm tù ở Côn-Đảo, mà Tòa Thánh và Giáo-Hoàng Phaolô VI lại tặng Bằng Khen và Huy Chương “Vì Hòa Bình” cho y.

Tức là Giáo-Hoàng Paul VI đã biến Vatican và nhiều Giáo-Hội địa-phương thành một guồng máy chính-trị, ngoại-giao, tình-báo khổng-lồ để giúp Hà-Nội tiến chiếm Miền Nam.

*

Thế mà Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng vẫn chưa thấy là Hoa-Kỳ sắp bỏ rơi Việt-Nam, không thay-đổi đường-lối chính-trị, vẫn cứ sử-dụng giải-pháp quân-sự, và không tin là Hà-Nội có đủ sức tấn-công đại-quy-mô.

Ông sửa-đổi Hiến-Pháp để làm Tổng-Thống thêm một nhiệm-kỳ năm năm nữa, khiến Đại-Tướng Thủ-Tướng Trần Thiện Khiêm phải ra mặt chống-đối, làm tình-hình chính-trị trong nước càng rối-ren thêm.

Ðầu tháng 2-1975, “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” phổ-biến tiếp bản “Cáo-Trạng số 2” tố-cáo TT Thiệu nhiều tội và hô-hào lật đổ bằng vũ-lực, khiến ông phải dùng biện-pháp mạnh, cho bắt giam nhiều chính-khách, trí-thức, lãnh-tụ đảng-phái, như các Thượng-Nghị-Sĩ Thái Lăng Nghiêm, Phạm Nam Sách, Nguyễn Văn Chức; các ông Hà Minh Lý, Trần Thúc Linh, và một số ký-giả trong đó có những nhân-vật nổi tiếng chống-Cộng như Mặc Thu, Lê Trần, Vũ Bằng, Đinh Từ Thức, Trương Cam Vĩnh, Ngô Đình Vận…

Để đối-phó với “Phong-Trào”, Thiệu vận-dụng nhiều đồng-đạo ủng-hộ mình.

Có sáu linh-mục, trong đó có cả Linh-Mục Hoàng Quỳnh, sáu đêm liền, thay phiên nhau lên đài truyền-hình bênh-vực và ca-ngợi Thiệu; ngoài ra, còn có các Nghị-Quyết, Quyết-Định, Đề-Nghị, có chữ ký của 70 Dân-Biểu ủng-hộ Thiệu.

Có cả Giám-Mục Lê Văn Ấn, đặc-trách Tuyên-Úy, Giám-Mục Nguyễn Văn Thuận, Linh-Mục Cao Văn Luận, đứng ra cãi giùm cho Thiệu.

Tình-hình gay-cấn đó, do “Phong Trào Chống Tham-Nhũng”* gây nên, đã tạo ra thế “nội công, ngoại kích”, quả là đã phá rối hậu-phương, làm lung-lạc tinh-thần binh-sĩ nơi tiền-tuyến, làm lợi cho Cộng-Sản, trong khi đó thì Bắc-Việt xua quân tấn-công Miền Nam…

Kết-Luận

Có người cho rằng “Phật-Tử Tranh-Đấu”, tức [số người hậu-thuẫn cho] Phái Ấn-Quang của Phật-Giáo Việt-Nam (về sau là Giáo-Hội Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất)

——-

*Năm kia, nhà văn Nguyễn Văn Lục có hỏi xin tôi tài-liệu về “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” của Linh-Mục Trần Hữu Thanh; nhân dịp, tôi đã giới-thiệu với anh nhà văn Nguyễn Lý Tưởng, cũng ở miền Nam Bang California. USA.

(Thời-gian 1973-75 anh Tưởng chưa nắm vững, nhưng đến năm 1989, trong nước Việt-Nam Xã-Hội Chủ-Nghĩa, anh Tưởng đã trực-tiếp hỏi chuyện Linh-Mục Thanh nên biết rõ-ràng hơn.)

đã liên-tục chống-đối Chính-Quyền Việt-Nam Cộng-Hòa, khiến cho Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa sụp-đổ, rồi Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa cũng suy-tàn theo.

Nhưng, theo như tôi đã lược-dẫn trên, thì:

Phật-Tử Tranh-Đấu” đã chấm dứt hoạt-động từ ngày thành-lập Nền Đệ-Nhị Cộng-Hòa, cuối năm 1967. Mãi đến lâu sau Hiệp-Định Paris 1973 mới tái-xuất-hiện trong “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc”.

Cả phía “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” bên giới Phật-Tử, lẫn phía “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng” bên giới Giáo-Dân, đều tranh-đấu chống Thiệu để có được một Tổng-Thống trong-sạch.

Tuy nhiên, các điểm khác nhau là:

Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” chỉ họp tại Chùa, sinh-hoạt ôn-hòa, bất-bạo-động, không đòi lật Thiệu, chỉ chờ đến ngày bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm 1975 sẽ sử-dụng lá phiếu hợp-Hiến và hợp-Pháp của mình.

Phong-Trào Chống Tham Nhũng” thì rầm-rộ xuống đường, biểu-tình tuần-hành, đòi Thiệu từ-chức, và hô-hào dùng bạo-lực để lật đổ Thiệu tức-thời.

Phật-Tử Tranh-Đấu” mít-tinh ôn-hòa thì không xáo-trộn trật-tự công-cộng, tiến-hành trong vòng luật-pháp cho phép, và theo truyền-thống sinh-hoạt dân-chủ tại các nước Tự-Do.

Giáo Dân Tranh Đấu” thì triệt-hạ uy-tín và hiệu-năng quyền-lực của một Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội đang đứng trước họng súng của quân thù, lại còn đòi dùng vũ-lực để lật đổ một Tổng-Thống dân-cử, tức là xóa bỏ Hiến-Pháp, tức là trở thành nội-phản/nội-thù của Quốc/Dân.

Phía “Giáo-Dân Tranh Đấu” thì đòi trừng-phạt một cá-nhân tham-nhũngmà tổng-số vật-sản bị lạm-chiếm so ra không đáng bao lăm đối với tài-nguyên quốc-gia, lại vẫn còn đó, rồi sẽ lấy lại, chưa mất đi đâutrong lúc Phía “Phật-Tử Tranh Đấu” thì đặt “nợ nước trước thù nhà”, mọi người chung sức đồng lòng chống giặc trước đã, trước hết là để trì níu lại cái Cơ-Đồ Dân-Chủ đang trong cơ nguy bị vĩnh-viễn cướp mất đi.

Phần tôi, tôi đối-lập với chính-sách quân-phiệt của Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệucũng như với chế-độ độc-tôn của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm trước kianhưng tôi đã chọn trước tiên là làm tròn bổn-phận của một công-dân đối với Chính-Thể Cộng-Hòa.

Riêng về “Phong Trào Chống Tham Nhũng”, có ít nhất là ba vấn-đề quan-trọng hàng đầu mà phía “Giáo Dân Tranh Đấu” (“trả thù cho [cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm]”, theo lời trối-trăn của Diệm “Tôi chết thì trả thù cho tôi”) cố ý không đề-cập đến:

  1. Việc hạ bệ Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu:

a/ Họ muốn đảo-chánh quân-sự, nhưng không thuyết-phục được ai, nên không thành-công.

b/ Họ quyết hạ Thiệu, nhưng không tìm ra được một “ứng-viên” nào của “phe ta” xứng-đáng để lên thay Thiệu. Chỉ nhắm trước mắt mà không nhìn thấy xa hơntình-hình hậu-Thiệuthì tức chỉ là “không lấy thì khuấy cho hôi” mà thôi.

  1. Lý-do hạ Thiệu:

1) Thiệu là thủ-phạm, đã tấn-công Dinh Gia-Long, đưa đến cái chết của Diệm.

2) Nhưng, cái tội lớn nhất của Thiệu, là đã có Đảng Dân-Chủ, lan trong quần-chúng, len trong chính-quyền, luồn trong quân-ngũ, mà lại chỉ lo gia-tăng phe-cánh cho cá-nhân mình, chứ không chịu dùng nó [như một Đảng Cần-Lao tái-sinh] để “mở-mang nước Chúa”.

III. Mục-đích đích-thực của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”:

Danh-xưng thực-thụ của Nhóm này (cái đuôi mà họ cố giấu) là:

Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hòa bình”.

Toàn câu đã được ghi rõ phía dưới “Cáo Trạng số 1”, làm tại Huế, ngày 8 tháng 9 năm 1974.

Trong các hoạt-động sôi-động trước mọi người, họ cố tình nhấn mạnh mấy chữ “chống tham nhũng” mà lơ đi cái đuôi là mấy chữ “kiến tạo hòa bình”.

Thử hỏi: trong tình-thế dầu sôi lửa bỏng lúc bấy giờ, có ai còn có cách nào “kiến-tạo hòa-bình” khác hơn là tuân giữ “đức vâng lời”, tuân lệnh Đức Giáo-Hoàng và ngoại-bang Vatican, bỏ súng, bắt tay với cộng-sản, rước địch vào nhà?

*

Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.

Các ván cờ đó đã được các bên tham-dự xóa hết rồi.

Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” đã không còn “tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao hơn.

Cho nên Biến-Động Miền Trung là chuyện đã xưa rồi.

Mới nhất, gian-xảo nhất, và nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.

Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một ván cờ mớichung-kết và chung-quyết:

Đối-thủ chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng, “lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình.

Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa Thánh La-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.

(Nhưng quốc-gia Việt-Nam của Kitô-Giáo đâu được làm một chư-hầu. Chư-hầu là một nước nhỏ/yếu, tùng-phục một nước lớn/mạnh, để được tồn-tại, nghĩa là vẫn còn là một nước. Đằng này, chỉ một Dòng Chúa Cứu-Thế là một giáo-đoàn/chi-phái của Giáo-Hội Kitô, mà đã tự xem là một Quốc-Gia, và thu-tóm cả nước Việt-Nam làm thành một Tỉnh nội-thuộc củaNước họ rồi:

Nguồn:<http://www.cuuthe.com/dong/dongmain.html>

Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam.)

Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc giữa Bắc-Việt Xâm-Lược với Việt-Nam Cộng-Hòa.

*

Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).

Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri, có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng ai.

Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì không có “Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.

Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nayđã gần 40 năm quamà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu mà đã đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Phápvới Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyềnvà các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhânvới các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Hòanói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.

*

Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà phải gán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Namtức là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Hòa khi đang hấp-hốithì số người đó rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải là thành-phần cực-đoan trong Nhóm “Giáo-Dân Tranh-Đấucác linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũngdù là một bộ-phận nhỏcủa giới tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam.

Hoàng Long Hải

(Nam Sơn chuyển bài)

[Tác Giả] [Lãnh Vực]

Tìm Kiếm