TÀI & ĐỨC & BẢN-CHẤT CỦA ÔNG
NGÔ ĐÌNH DIỆM
Theo Ông LÂM LỄ TRINH
(Cựu Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ trong chính-phủ Ngô Đình Diệm [1957-1960]):
“ … Hồi tưởng dĩ vãng, người viết không thể quên được thái độ khinh thường của hai ông Diệm, Nhu đối với Sihanouk mà họ xem như một chính trị gia thời cơ, non nớt, thích múa rối, hết bị De Gaulle đến bị Mao giựt dây. VNCH phải trả một giá đắt về nhận định thiếu thực tế ấy…”
(Trích từ bài-viết “Cuộc Đấu Trí Sihanouk – Ngô Đình Nhu”)
…..
Theo Ông NGUYỄN HỮU HANH
(Cựu Cố-Vấn Kinh-Tế, Tài-Chánh của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm;
Cựu Tổng-Giám-Ðốc Ngân-Hàng Quốc-Gia Việt-Nam [1955-1962]):
“ … Ông Diệm có nhiều nhược điểm, ảnh hưởng rất mạnh đến việc chọn người cộng sự hay nhân viên chánh phủ. Ông thích được khen, ông thích nghe những lời nịnh bợ. Ông thích người ta nói đến những công việc của ông làm, nhất là những dự án “ruột” của ông. Ông không hề biết thực tế bên ngoài, ông không có một ý niệm về đời sống của dân chúng, nên những người làm việc với ông phần nhiều hay nói láo với ông, che giấu sự thật, làm cho ông không thấy rõ thực tế ở đời và mất sự xét đoán về người và về công việc.
Ông không tin người, nên ông hay chọn người làm cho ông trong số những người đồng hương đồng xứ với ông, bà con bạn bè thân thuộc với ông, hoặc là bà con bạn bè với những người bạn xa bạn gần của ông.
Ông là người rất mộ đạo Thiên Chúa, nên ông hay chọn người có đạo Thiên Chúa và ông tin họ hơn những người không có đạo.
Ông tin những người có vào Đảng Cần lao của ông Nhu hơn là người thường, nên ông hay chọn người là đảng viên Đảng Cần lao.
Khi chọn người để đưa vào chánh phủ hay thăng thưởng công chức ông đặt nặng ba điều đó* hơn là công việc làm hay công tâm. Vấn đề chuyên môn không cần thiết lắm, vấn đề đạo lý, vấn đề tư cách con người, ông ít để ý đến, mặc dầu ông là người rất có tư cách, một nhân vật rất có đạo lý, chịu rất nhiều ảnh hưởng Khổng gíáo. Cho nên chung quanh ông và trong chính phủ, ít có người tài giỏi, và phần nhiều chỉ có những người bà con thân thuộc của ông, những người có đạo Thiên Chúa và những người vào Đảng Cần lao, những người mà ông có thể tin được. Những người này chỉ biết nịnh bợ ông; họ che mắt ông, họ giấu sự thật, làm cho ông mất hết sự xét đoán, và khó lòng cho ông biết bề trái bề mặt ở đời…
… Ông làm việc rất nhiều, cả ngày lẫn đêm, bởi ông chẳng có trò giải trí nào, không chơi môn thể thao nào, không có món tiêu khiển bất cứ kiểu nào. Môn giải trí duy nhất của ông là đi thanh tra các dự án xây dựng mới, các vùng kinh tế mới, các khu định cư mới, những gì mà ông tin rằng ông đã làm vì quyền lợi dân chúng. Bởi vì ông rất nôn nóng nhìn thấy những việc này tiến triển nhanh chóng, nên những viên chức có trách nhiệm thường gian lận và nói dối ông. Một ngày nọ, khi tôi đi thăm vùng đồng bằng sông Cửu Long, dân chúng trong vùng đã chỉ tôi xem những cái cây mới mà viên tỉnh trưởng bắt họ trồng trong một dự án tái định cư để ông Diệm đi thanh sát. Theo lời đề nghị của các bô lão địa phương, người tài xế của tôi đã nhổ thử một cây lên cho tôi xem: đó là một cành cây mới cắt được cắm xuống đất ướt! Ở nông thôn người ta biết tôi rất gần gũi với Tổng thống và tôi dám nói sự thật với ông, vì vậy họ không ngần ngại tiết lộ các trò gian lận và những cuộc trình diễn dỏm của đám tỉnh trưởng và quận trưởng.
… Nhưng nhân dân trong các làng quê thường rất nghèo, và những người tình nguyện chỉ có thể bỏ công việc đồng áng của mình một vài ngày thôi. Biết rằng ôngDiệm thích nhìn thấy một số lượng lớn người tình nguyện không đòi tiền công làm việc tại các dự án mới, các viên tỉnh trưởng thường bắt dân làng làm việc ròng rã hàng tháng trời không tiền, thậm chí không hỗ trợ thức ăn hay chỗ ở. Thế rồi họ nói dối với Diệm, tâu với ông rằng hàng trăm người ông nhìn thấy trên công trường đều là dân tình nguyện. Một ngày kia tôi tới thăm Sóc Trăng nơi đang xây dựng một sân bay địa phương. Khi tới đó vào giữa buổi trưa, tôi trông thấy mấy trăm người dân đang ngồi ăn bữa cơm trưa đạm bạc của họ và nghỉ ngơi ở hai vệ đường; họ nằm la lết trên đất, có người có chiếu, có người không. Tò mò muốn coi tận mắt cái dự án này và nói chuyện với dân chúng, tôi dừng xe và bước ra ngoài nói chuyện với mấy người nông dân. Một vị bô lão địa phương đi theo tôi trong chuyến thanh tra này nói với những người đang đứng quây quanh tôi rằng họ có thể nói thật hết với tôi, vì tôi là cố vấn của Tổng thống Diệm và tôi luôn luôn báo sự thật cho ông hay. Thế rồi một vài người nông dân đến bên cạnh tôi, và trong khi mắt đảo quanh coi có mật thám hay không, ngập ngừng nói với tôi rằng họ bị ép phải tình nguyện làm việc theo lệnh viên tỉnh trưởng, rằng họ phải bỏ mọi công việc đồng áng, phải rời gia đình, tự đem theo thức ăn để đến đây làm việc mà không có lấy một xu tiền công, thức ăn hay chỗ ở, trong thời gian ít nhất là một tháng mỗi lần.
Khi tôi quay trở về Sài Gòn và báo cáo chuyện này với Tổng thống Diệm, ông nổi trận lôi đình và biểu người phụ tá gọi viên tỉnh trưởng Sóc Trăng ngay lập tức. Tôi không biết chuyện gì xảy ra sau khi tôi rời Dinh Độc Lập, nhưng ngày hôm sau khi tôi trở lại, ông Diệm nói với tôi rằng những người nông dân mà tôi gặp đã nói láo, thật ra mọi người đều sung sướng được tình nguyện xây dựng phi trường cho tỉnh nhà. Tôi nói gì bây giờ với ông ta? Người của ông nói dối ông và phản bội ông bởi vì ông thích nghe những câu chuyện êm tai; họ biết rõ điều ấy và sẵn sàng bịt mắt ông.
Một lần khác tôi tới thăm một vùng kinh tế mới gần Mỹ Tho; tôi nhìn thấy một dãy hàng cây ăn quả dọc lộ có vẻ như sắp chết héo. Tôi dừng xe lại, bước tới coi. Một người nông dân tiến tới phía tôi và hỏi nhỏ tôi có muốn coi mấy cây hay không. Anh ta nhổ lên một cây và đưa cho tôi: đó là một cái cành được cắt khỏi cây và cắm xuống đất. Anh ta lập tức biến mất, rõ ràng sợ bị nhìn thấy nói chuyện với người lạ. Sau này tôi được biết là những việc như vậy xảy ra rất thường xuyên, bởi vì các viên tỉnh trưởng và quận trưởng đều muốn tỏ cho Diệm thấy là họ đã mở mang các dự án mới một cách mau chóng, họ muốn được ông Diệm đánh giá cao, muốn “ghi điểm”, và thăng chức. Tôi nghe nói một lần ông đến thăm một dinh điền mới với một ông trung tá, trách nhiệm về dinh điền này, ông cầm lên xem một cành cây có trái; bỗng nhiên cành cây rơi xuống đất, ông biết là cành cây mới được cắm. Ông quay lại nhìn ông trung tá, mặt ông đỏ bừng; ông hét lên, ông cầm cây ba ton của ông, đánh vào người ông trung tá. Ông này quì xuống lạy xin tha tội, mặt tái mét và nước mắt rưng rưng; vài ngày sau ông trung tá bị cách chức và đày đi nước độc.
Ông Diệm rất ngây thơ. Ông dễ tin người, đặc biệt là với những ai biết cách nói láo khi phụ trách những dự án “cưng” của ông. Ông là một loại thầy tu kín suốt đời. Ông chỉ ở trong nhà, trong văn phòng, và trước đây là trong tu viện, không bao giờ ra ngoài trà trộn với người dân. Ông không bao giờ lấy vợ, chỉ sống với anh em của mình. Ông không biết gì về cuộc sống và cũng không có một ý thức nào về trị giá tiền bạc. Có một lần, để thưởng cho một người giúp việc đã phục vụ ông ngày đêm, ông cho phép người này ra phố xả hơi và giải trí. Ông cho anh ta 2 đồng bạc để hớt tóc. Thế nhưng vào lúc ấy, giá hớt tóc cao hơn nhiều.
Một vị bộ trưởng của ông muốn tỏ cho ông thấy là anh ta nghèo khổ và thanh liêm như thế nào, đã nói với ông rằng anh ta chỉ có 2 cái áo sơ-mi! Diệm tin anh ta! Vậy nhưng vị bộ trưởng này sau khi thoát khỏi Việt Nam sau cuộc đảo chánh 1963 đã sống một cuộc đời xa hoa suốt 40 năm mà không cần phải làm việc! Chỉ với số tiền mà anh ta đã tích luỹ được sau mấy năm làm bộ trưởng! Diệm không có ý thức gì về thực tại. Ai cũng có thể lừa ông nếu biết được điểm yếu của ông, biết ông thích những gì và muốn nghe những gì….
… Năm 1962 TT Diệm gởi một phái đoàn do tướng Kim cầm đầu qua Nhật. Cũng vào lúc đó ông Diệm gởi tôi tới Tokyo để thăm dò với chính quyền Nhật về việc mở rộng hợp tác kinh tế tài chánh. Ông đã phạm một sai lầm khi không nói cho tướng Kim biết là tôi có một nhiệm vụ riêng biệt. Tướng Kim không biết gì về lãnh vực kinh tế tài chánh và cứ nghĩ rằng tôi nằm trong phái đoàn của ông. Khi tôi từ chối không đi cùng với đoàn của ông, thì ông tức giận tôi. Đây là cung cách làm việc đặc trưng của ông Diệm. Ông luôn luôn làm theo ý kiến riêng mà không chia sẻ với bất cứ ai trong chính phủ.
Những chuyện như vậy đã làm cho tôi thất vọng, làm cho tôi mất dần niềm tin nơi ông và góp phần vào việc tôi từ chức năm 1962 sau này.”
(Trích từ cuốn hồi-ký “Brushing the World Famous” [“Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới”])
*Lê Xuân Nhuận cho biết có 4 [không phải chỉ 3] “tiêu chuẩn” để Diệm tin dùng: đồng Đoàn, đồng Đảng, đồng Đạo, đồng Địa (gọi là 4-Đ) – “Về Vùng Chiến-Tuyến” (hồi-ký, Văn Nghệ, 1996).
Theo Ông ĐỖ THỌ
(Cựu đại-úy, Tùy Viên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm):
“ … Tổng Thống Diệm phổ biến văn thư xuống các Bộ, chính quyền địa phương bãi bỏ chữ ‘Ngài’ trong đơn từ, kiến nghị gửi cho Tổng Thống.
“Thế mà bọn ‘nịnh thần’ vẫn khư khư giữ lấy chữ ‘Ngài’, ‘Cụ’ khi chỉ đến Tổng Thống Diệm.
“Ngoài ra bọn chúng đứng trước Tổng Thống thì khúm núm, vò tay, gãi đầu, Tổng Thống vừa tra điếu thuốc lên mồm là vội vàng qùi mộp, cúi đầu, bật quẹt cho Tổng Thống châm lửa. Không những bọn nịnh hót làm cử chỉ đó với Tổng Thống Diệm mà còn làm với ông Cẩn, ông Nhu. Một đứa thấy đồng bọn làm như vậy thì bắt chước làm theo. Ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn thấy thế thành thói quen. Bận sau người khác không làm như thế thì thấy xúc phạm. Vì thế bọn nịnh hót đã làm‘hư’ Tổng Thống. Và cái cốt cách quan lại phong kiến tràn ngập cá tính Tổng Thống Diệm như “Ngài Thượng Thư Diệm” của triều đình Huế.
“Các Tư Lệnh Vùng, Tư Lệnh Sư Đoàn đủ mọi binh chủng, Bộ Trưởng, Chủ Tịch các phong trào ủng hộ chế độ đều đến Huế trước khi bước qua thềm năm mới. Nếu vị nào không đến Huế chúc thọ cụ Cố vì muốn hưởng xuân với gia đình trong mấy ngày tết bị tức tưởi lo âu sợ ông Cố Vấn Chỉ Đạo để ý thì toi cuộc đời. Thành thử không mấy ai dám vắng mặt. Và đến khi chúc thọ thì tức khắc là bộ mặt nịnh hót quyết liệt.
“Những lúc như thế này tôi được thấy Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng IV, tướng Trần Văn Đôn, tướng Đỗ Cao Trí, tướng NLL, tướng TTĐ, tướng TTX, Đại Tá NVY, đại tá TVĐ, đại tá Lê Quang Tung, đại tá Huỳnh Hữu Hiền, đại tá Đinh Sơn Thung, trung tá Huỳnh, trung tá Kỳ Quang Liêm, tướng Nguyễn Khánh.
“Tất cả đều bái lạy Cụ Bà chúc thọ, sau khi Tổng Thống Diệm, Đức Cha Ngô Đình Thục, ông Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và toàn gia đình… đã lạy xong Cụ Bà.
“Trong khi ấy một số Bộ Trưởng cũng nối gót ra Huế. Tôi thấy có mặt ông Nguyễn Đình Thuần, Ngô Trọng Hiếu, Nguyễn Lương, Bùi Văn Lương, Cao Xuân Vỹ, và nhiều nhân viên mật vụ từ Saigon ra.”
(trích từ “Nhật Ký Đỗ Thọ”, các trang 30-31)
“Những kẻ đáng chết là ông bà Ngô Đình Nhu, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống kiêm Phụ Tá Quốc Phòng Nguyễn Đình Thuần, Nguyễn Lương, Trương Vĩnh Lễ(Chủ Tịch Phản Đảo Chánh năm 1960), Trương Công Cừu, Bùi Văn Lương, Ngô Trọng Hiếu. Tướng lãnh thì có Nguyễn Khánh, Huỳnh Văn Cao, Lê Như Hùng,Nguyễn Huỳnh. Về phía Quốc Hội Hà Như Chi… Phong Trào Liên Đới Phụ Nữ thì lắm mệnh phụ đáng chém.”
(Trích từ “Nhật Ký Đỗ Thọ”, trang 278)
Theo Ông LÊ CHÂU LỘC
(Cựu Sĩ-Quan Tuỳ-Viên của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm):
“Tôi nghĩ rằng Tổng Thống Diệm quá hiền từ, nên đã có những người lợi dụng điều đó để mưu tư lợi. Nếu có trách thì trách những “nịnh thần” lợi dụng vị thế một thời được Tổng Thống tin cẩn, đã bày đặt ra chung quanh Tổng Thống những hình thức tiếp xúc phong kiến lỗi thời, ví dụ vào gặp Tổng Thống phải xưng hô Cụ – con, khi cáo từ phải đi dật lùi ra cửa. Cũng có người đã trông thấy có kẻ qùy, lạy Tổng Thống trong dịp lễ, Tết.
Đừng nghĩ rằng Tổng Thống không biết sự thật, thường bị các nhân viên chung quanh lường gạt để thủ lợi. Tổng thống đã dùng những chuyến đi thị sát để tìm hiểu sự tình, thăm dò tin tức giá cả qua bà bếp, nhân viên của nhà may Chya v.v.”
(Trích từ bài-viết “Pháo thủ Lê Châu Lộc nói chuyện về Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm” phổ biến trên Net – [ChinhNghiaViet] Wednesday, June 3, 2009 8:48 PM)
Ý Chính: Tức là TT Diệm có “tìm hiểu sự tình, thăm dò tin tức giá cả qua bà bếp, nhân viên của nhà may…”
Theo Ông Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC
(Giáo-Sư, cựu Dân-Biểu VNCH):
“cụ Ngô … Người trí mà không đủ thủ đoạn để bọn tiểu nhân như đám khố xanh khố đỏ giết chết thì chưa được gọi là người trí trong khi đang nắm quyền lực.
Điều này thật quan trọng. Cụ phải hiểu VC có cả quốc tế CS giúp đỡ người và võ khí, miền Nam chỉ có Hoa Kỳ, phải cần Hoa Kỳ để cân bằng lực lượng. Người Mỹ đòi đổ quân vào, cụ không thể từ chối phắt một cách quá cứng rắn vì làm bẽ mặt người Mỹ mà phải từng bước, khéo léo, sao cho có được sự yểm trợ hết mình của Mỹ vừa giữ được quốc thể, danh dự của mình. Như thế mới là vẹn toàn. Cụ không hiểu rằng lực lượng của miền Nam còn thô sơ, yếu kém không cách chi đối chọi với cả khối CS quốc tế đổ người và vũ khí tối tân vào, nếu không có Hoa Kỳ giúp đỡ. Cụ đã để người Mỹ hiểu lầm rằng cụ cứng đầu nhưng thực ra đôi bên chưa có sự thông cảm sâu xa.
Cờ Phật giáo … Đúng ra Cụ phải hóa giải nó ngay và lấy được lòng kính phục của Phật tử …Vụ cờ Phật giáo là một sai lầm chết người của chính phủ cụ mà anh em cụ không nhìn ra ngay để nó trở nên chứng ung thư giết hại cả một chế độ Từ dân, Vì dân và Cho dân.
Khi nghe VC, báo chí đối lập tuyên truyền để hạ uy tín cụ, cụ phải gặp riêng anh chị em trong gia đình như bà Nhu, GM Ngô đình Thục, ông Ngô đình Cẩn v.v…yêu cầu những người này giúp cụ hóa giải những tin độc hại bằng chính hành động của họ, sửa đổi nếu lỗi lầm…
cụ Ngô còn một số nhược điểm cần phải có những Cố Vấn già dặn kinh nghiệm, khôn ngoan và trung kiên giúp cụ giải tỏa bế tắc.
dĩ nhiên cụ Ngô đình Diệm còn nhiều khuyết điểm mà chính cụ cũng như thuộc cấp gần cận cụ phải nhắc nhủ khéo để mọi khuyết điểm được sửa sai đúng lúc, đúng chỗ. (TD: Có những quận, tỉnh trưởng đã lừa dối cụ về sự trù phú cấp thời của Ấp Chiến lược trong khi đó chỉ là giả tạo…”
(Trích từ bài-viết “BỐN MƯƠI BA NĂM MIỀN NAM LẠC HƯỚNG” của Trần Đình Ngọc phổ biến trên Net – [HOATUDO] Monday, November 24, 2008 8:36 PM
Theo Ông NGUYỄN VĂN LỤC
(Nhà Văn, Nhà Báo):
“… Thần quyền và thế quyền là thế đối đầu, và lịch sử đã chứng minh được rằng tôn giáo nào như Công giáo ở một số thời kỳ đang ‘hưng thịnh’ lại chứng tỏ rằng nó đang mục rữa, đang sa đọa. Cái mạnh của nó bề ngoài lại là cái yếu nhất của nó. Thời kỳ ông Diệm đã loáng thoáng những chiếc bóng áo chùng đen làm cho chế độ ấy mất đi uy tín không phải là ít.
“Đến nỗi tôi nghĩ rằng, nếu ông Diệm đừng có mang cái nhãn hiệu công giáo thì số phận ông đã không đến nỗi như thế.
“Cái thế của ông không có, một lúc nào đó, trước sau ông cũng sẽ hành xử bất cập, cộng thêm đám bầy tôi cả công giáo lẫn Phật giáo đẩy ông ngã xuống.
“Lấy trường hợp như ông Nhu là kiểu người làm chính trị tách ra khỏi ảnh hưởng tôn giáo, khác hẳn với ông Diệm. Và đó là cái yếu của ông Diệm, cái dở của ông ấy, cái ngây thơ của ông ấy.”
(trích từ bài “Twenty years and twenty days miền Nam Việt Nam”)
“Cụ Đoàn Thêm nhận xét: ‘Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh’.”
(Trích từ bài-viết “2 tháng 11, 1963 – Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu” – Tuần báo Thời Báo, số 825 – Nov. 10-2007, trang 37)
Ý Chính: Tức là ông Diệm không có nhận xét sâu sắc về người và việc.
Theo Ông VĂN BIA
(Cựu chủ-bút Báo “Hoa Lư” của chủ-nhiệm Ngô Đình Diệm [1947-1948]):
“… Nửa đường, Ngô Tổng Thống tạt vào một ngôi nhà phía bên trái kế bên đường, là nhà của thầy giáo Ngôn có người con tên Hiếu, một tu xuất dòng Chúa Cứu Thế như tôi. Hai cha con đã bị Pháp bắt đem ra cầu Xe Lửa bắn chết từ hồi đầu Kháng Chiến.
Tổng Thống vào khu vườn trước nhà, ngắm cây trái và rờ vào một trái bưởi. Bà chủ nhà hái gọt đem ra mời Tổng Thống. Một hầu cận chận lại không cho Tổng Thống bóc ăn, mà đi hái trái bưởi khác, dùng dao găm xẻ lột vỏ tại chỗ đưa cho Tổng Thống.
Hôm ấy Tổng Thống luôn luôn được hầu cận bao vây kín mít chung quanh chặt chẽ đến mức có thể nói là không còn chỗ trống để thọt tay vô lọt được
hình ảnh Ngô Tổng Thống đi kinh lý họ đạo Tân Qui tóm lượt phản ảnh con người và chế độ của ông. Ông có muốn trực tiếp thân thiện với dân chúng cách mấy, cũng không nhận được những gì dân muốn cho ông thấy hay hưởng. Nhóm người vây quanh ông chọn lựa những gì họ muốn cho ông thấy hay hưởng mà thôi.”
(Trích từ cuốn hồi-ký “Những Ngày Chung Sống với Chí Sĩ Ngô Đình Diệm”)
Theo Ông VIỆT THƯỜNG
(Ký-Giả):
“… Cái sáng suốt và nhiệt tình của nhà ái quốc Ngô Đình Diệm theo thời gian mà bốc hơi, chỉ còn lại cái hình hài của quan ‘Tuần vũ Phan Thiết’, vừa cố chấpcủa người ‘quá mộ đạo’, vừa hợm hĩnh về giòng họ và thành tích, chỉ tin vào quan hệ máu thịt và địa phương cũng như cùng tôn giáo. Cái sai lầm nữa là ông Ngô Đình Diệm dựng ra đảng Cần-Lao Nhân-Vị có cái gì đó hao hao giống cơ chế tổ chức và xử dụng như của đảng cộng sản. Tổng Thống họ Ngô đã không lợi dụng thành tích đạt được để mở rộng dân chủ, thu hút nhân tài của đất nước v.v… mà lại khép lại như mô hình cộng sản nhưng lại không đủ qủy quyệt tàn nhẫn như cộng sản. Đáng ra phải đặt cho mình làm cái nhiệm vụ lãnh tụ của cả nước Việt Nam (như Line) thì ông Diệm đã lược bớt đi chỉ giành lại cho mình những cái rất ‘khiêm tốn’ là lãnh tụ của giáo dân, là một thứ ‘tù trưởng’ của ‘bộ lạc Ngô, Trần’. Chính sách đối ngoại của ông Diệm có nhiều sai lầm khi làm mất tình hòa hiếu với ông hoàng Xi-Ha-Núc, khiến Hà-nội lợi dụng để dùng mảnh đất Mỏ Vẹt của Cam-Bốt cũng như cảng Kôm-Pông-Xôm của Cam-Bốt để xâm lăng miền Nam… Xung quanh ông Diệm có rất nhiều người giỏi, nhưng ông không dùng…
… anh em ông Diệm, Nhu tuy làm cuộc phế truất Bảo Đại, nghĩa là ‘phản thực’ rồi lại ‘phản phong’, nhưng từ máu thịt của gia đình họ Ngô là quan lại, cho nênanh em ông ta rất khinh người…”
(Trích từ bài-viết “Chuyện 30 Năm Về Trước”)
Theo Ông BÙI TÍN
(Cựu đại-tá, Phó Tổng Biên Tập báo “Nhân Dân của CSVN”):
“… Nhưng cũng trong thời gian chấp chính, ông Ngô Đình Diệm cũng đã phạm những sai lầm nặng nề: để cho người trong gia đình tham gia ngày càng sâu vào việc nước, từ anh ông là giám mục NĐ Thục, đến em ông là NĐ Nhu, NĐ Cẩn, và đặc biệt là cô em dâu ngổ ngáo Trần Lệ Xuân, tạo nên hình ảnh gia đình trị độc đoán kiểu phong kiến.
“… từ năm 1960, chế độ Ngô Đình Diệm bước vào thời kỳ khủng hoảng.
Lẽ ra phải tỉnh táo đối phó, sửa chữa sai lầm, bổ khuyết những thiết sót, thì chính quyền Ngô Đình Diệm lại trở nên kiêu ngạo, tự phụ và chủ quan, độc đoán hơn.
“… Một bằng chứng mà ai cũng thấy được là vào tháng 11/1960, sau khi dẹp được cuộc đảo chính của một số sỹ quan dù, đáng lẽ phải xem xét lại những khiếm khuyết trong cách quản trị xã hội và những chính sách đối nội và đối ngoại thì gia đình Ngô Ðình Diệm lại chủ quan, tự đắc hơn nữa và thế là để đến giữa năm 1963 nổ bùng ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng cả đối nội và đối ngọai, dẫn đến kết liễu bi đát của chế độ Ngô Ðình Diệm.
“… Trong thời kỳ khủng hoảng nói trên, Ngô Đình Diệm vẫn một mực giữ niềm tin ở sứ mệnh thiêng liêng trong vai trò lãnh tụ trời sai xuống để cứu dân, ông sống trong hoang tưởng mình là một vĩ nhân châu Á, tự cho VN dưới quyền ông đang làm mẫu mực về chiến đấu chống CS vô thần và xây dựng xã hội mới ở châu Á. Ông phạm thêm sai lầm liên tiếp: bỏ ngoài tai những khuyên can và yêu cầu từ bỏ vai trò cố vấn của NÐ Nhu, nhất là từ bỏ sự can thiệp nhố nhăng của cô em dâu LệXuân, tự cô lập mình, gây thù oán với giới Phật giáo chiếm đa số dân cư, còn nể nang ông anh NÐ Thục khi ông này được đưa về làm giám mục địa phận Huế, và tổ chức quá lố lễ ‘Ngân khánh 25 năm phong giám mục’ của ông Thục như một quốc lễ, còn ra lệnh cấm cắm cờ Phật giáo, làm nổ ra cuộc chống đối quy mô rộng và cuộc tự thiêu của Thích Quảng Đức, làm chấn động dư luận trong, ngoài nước.”
(Trích từ bài-viết “Ông Ngô Đình Diệm và Hậu Quả…” – Paris, tháng 10/2003)
Theo Ông TÚ GÀN
(Ký-Giả – nhà văn Lữ Giang, cựu Thẩm-Phán Nguyễn Cần):
“… MỌI SỰ GẦN NHƯ TIỀN ĐỊNH
“Ông Diệm mới về chấp chánh ngày 7.7.1954, ngày 20.8.1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã họp và đưa ra Quyết Nghị số NSC 5429/2, thành lập một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government) và Diệm phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và truất phế Bảo Đạimột cách hợp pháp. (Diem must broaden the governmental base, elect an assembly, draft a constitution and legally dethrone Bao Dai).
“Cứ thế chính phủ Hoa Kỳ đã đẩy chính phủ Ngô Đình Diệm đi theo…
“Để có một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government), Washington đã hướng dẫn ông Diệm thành lập một chế độ độc đảng theo kiểu Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Trung Hoa Dân Quốc Dân Đảng lấy “chủ nghĩa Tam Dân” của Tôn Nhật Tiên làm căn bản để xây dựng đất nước, Miền Bắc lấy chủ nghĩa cộng sản làm kim chỉ đạo, còn miền Nam lấy cái chủ nghĩa gì bây giờ?
“Cuối cùng, bộ tham mưu của ông Nhu quyết định lấy “chủ nghĩa nhân vị” (personalism). Nhưng “chủ nghĩa nhân vị” là chủ nghĩa như thế nào?
“Lúc đó ở Pháp mới chỉ có khái niệm triết học về thuyết nhân vị, nó chưa được xây dựng thành chủ thuyết chứ đừng nói thành một chủ nghĩa khoa học như Léninsim, Stalinism hay Maoisms, làm sao đem ra áp dụng được? Nhưng mặc kệ, cứ thành lập môt cái đảng mang tên là “Cần Lao Nhân Vị Đảng” để kết họp các anh em lại, còn đường lối và phương pháp hành động sẽ bàn sau…
“Tướng Lansdale, người cố vấn hình thành các toán chiến đấu dân sự cho miền Nam, rất thắc mắc về chuyện lập cái chế độ độc đảng này. Nhưng ông Reinhardt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng Hòa [1955–1957], đã nhỏ nhẹ nói với Tướng Lansdale: “một quyết định về chính sách của Hoa Kỳ đã được định rồi (a U.S. policy decision had been made). Về sau, trong bản phúc trình ngày 17.1.1961, Tướng Lansdale có ghi rõ: “Đảng Cần Lao không phải là ý kiến của nhà Ngô; “trước tiên nó được đề xướng bởi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ” để loại bỏ cộng sản ra khỏi đất nước (the CLP was not their idea; it ”was originally promoted by the U.S. State Department” to rid the country of communists).
“Đại Sứ Elbridge Durbrow, người thay thế Đại Sứ Reinhardt, cũng đã mô tả rõ: “Tổ chức Cần Lao đã gần như theo mô thức của một đảng Cộng Sản, với các chi bộ, cán bộ, v.v., và cũng có thể so sánh với Quốc Dân Đảng của Trung Hoa.”
“Nhưng ông Diệm, ông Nhu và ông Cẩn không có khả năng xây dựng tại miền Nam một đảng gióng Trung Hoa Quốc Dân Đảng được. Trái lại, một số tay chân bộ hạ đã lợi dụng tổ chức này để lộng hành và tranh giành nhau quyền lợi… gây xáo trộn trong quân đội…
“Việc thành lập cơ quan mật vụ cho chính phủ Ngô Đình Diệm cũng do Mỹ đề xướng. Ông Trần Kim Tuyến cho biết chính ông McCarthy, Trưởng trạm CIA của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn đã soạn thảo sẵn văn kiện tổ chức rồi đưa cho ông Nhu và ông Nhu chuyển cho Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để làm Sắc Lệnh thành lập “Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội”… Người đầu tiên làm Giám Đốc là Đốc Phủ Sứ Vũ Tiến Huân, sau đó mới đến ông Trần Kim Tuyến…
“AMERICA’s MANDARIN!
“Ngoài trở ngại về sự khác biệt giữa chủ trương và đường lối của chính phủ Hoa Kỳ và VNCH, ông Diệm còn gặp một khó khăn khác khá quan trọng đối với Mỹ, đó là phương pháp làm việc của ông.
“Lúc nhỏ ông Diệm có học chương trình Pháp (trường Pellerin, Huế) và sau đó học Trường Hậu Bổ. Nhưng ông đã một thời làm quan lại cho triều đình Huế nên chịu ảnh hưởng phương thức làm việc của giới quan lại rất nhiều. Do đó, khi làm Tổng Thống của một chế độ cộng hòa, người ta thấy ông vẫn chưa bỏ được phong thái của một Tuần Vũ hay một Thượng Thư. Vì thế, làm việc với ông quả thật gặp nhiều khó khăn…
“Ông Diệm đã làm việc theo cung cách của một quan thượng thư, một nhà hành chánh hơn là một nhà lãnh đạo chính trị. Cả ông Diệm lẫn ông Nhu đều không thích ủy quyền… Trong cuốn ‘Fire in the Lake’, Frances Fitzgerald, nhận xét: ‘Tổng Thống… không thể tách chuyện quan trọng ra khỏi chuyện tầm thường.’…
“Năm 1955, khi Tướng J. Lawton Collins được cử làm đại sứ toàn quyền của Tổng Thống Eiseinhower tại Việt Nam, đã bày tỏ ý muốn chính phủ Ngô Đình Diệm làm việc theo “teamwork”, tức mọi người cùng làm việc với nhau như một toán hay tổ (team)… Nhưng ông Diệm không bao giờ chấp nhận lối làm việc đó.
“Người Mỹ, ông Ngô Đình Nhu cũng như các viên chức cao cấp trong chính phủ đã phải chịu đựng khá nhiều phiền hà khi làm việc với ông Diệm vì cái lối làm việc thiếu khoa học của ông. Đây cũng là một nguyên nhân đưa đến sự thất bại của ông.
“VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA
“Với một vài nét đại cương chúng tôi vừa trình bày trên, độc giả cũng có thể nhận thấy rằng người Mỹ đã tốn khá nhiều công sức và tiền của để xây dựng nên chế độ Ngô Đình Diệm: Từ việc truất phế Bảo Đại, bầu cử quốc hội, soạn thảo và ban hành hiến pháp, cải cách ruộng đất… đến việc thành lập một chế độ độc đảng (Cần Lao Nhân Vị Đảng) và cơ quan mật vụ (Sở Nghiên Cứu Chính Trị)… để có một chính quyền mạnh có thể đương đầu với cộng sản, các chuyên Hoa Kỳ đã làm việc rất vất vã với chính phủ Ngô Đình Diệm…”
(Trích từ bài-viết “Trả lại sự thật cho lịch sử” – Saigon nhỏ ngày 26.10.2007)
Theo Ông VŨ KHÁNH THÀNH
(Ký-Giả):
“Tôi muốn kể lại về một người cũng có liên quan đến ông Phạm Xuân Ẩn. Đó là bác Sĩ Trần Kim Tuyến (1925-1995)
“Ông kể chuyện Đảng Đại Việt Hà Thúc Ký chống đối mạnh, ông Hà Thúc Ký bị bắt, Tổng Thống Diệm gọi Bác Sĩ Tuyến vào báo cáo cho Tổng Thống biết. Tổng Thống Diệm gắt gỏng nói với ông Tuyến ‘giết hắn đi!’ Hôm sau B Sĩ Tuyến vào gặp Tổng Thống việc khác, Tổng Thống hỏi Hà Thúc Ký thế nào rồi? Sau TTDiệm nhắc đến thân sinh ông Hà Thúc Ký và Đảng Đại Việt cũng là Đảng chống Cộng, hãy tha cho ông Ký. Bác sĩ Tuyến kể cho tôi chuyện này nói rằng với những người khác, họ có thể thủ tiêu ông Hà Thúc Ký, nhưng tôi biết tính Cụ Diệm, tôi biết người và việc phải làm, để trình cụ sau.”
(Trích từ bài-viết “Trần Kim Tuyến và Phạm Xuân Ẩn” của Vũ Khánh Thành, gửi đến đài BBC từ London, qua email của “hatien” <vanctngvuyen@yahoo.com phổ-biến vào Fri, 21 Sep 2007 03:28:39 -0700 ‘PDT’)
Ý Chính: Tổng-Thống của một nước Cộng-Hòa, có Hiến-Pháp, có Tư-Pháp nằm ngoài Hành-Pháp, mà đã hấp-tấp tự ý ra lệnh miệng cho Trưởng Cơ-Quan Tình-Báo thuộc quyền thủ-tiêu đối-lập chính-trị của mình (“giết hắn đi!”) trong lúc ngoài miệng thì vẫn đề-cao chủ-nghĩa “Nhân Vị”.
Theo Linh-Mục CAO VĂN LUẬN
(Cộng-sự-viên thân+tín của cố TT Ngô Đình Diệm, cựu Viện Trưởng Viện Đại-Học Huế):
“ … Ông Diệm đặc biệt chú ý đến việc thành lập củng cố và phát triển đại học Huế… Ông có thể sai lầm về chính trị, nhưng những nỗ lực phát triển văn hóa, điển hình là thành lập và mở mang đại học Huế, thì tôi thấy cần phải công tâm và nhận định rằng ông Diệm đã có công đáng kể…
“Những năm 1956-1961 là những năm cực thịnh của chế độ Ngô Đình Diệm. Lúc bấy giờ Việt cộng chỉ bắt đầu khuấy phá một vài nơi, và phần lớn chỉ là những sự phá hoại, giật mìn, đánh lén những đồn bót hẻo lánh. Tuy nhiên lúc này ông Diệm đã chú ý đến mối đe dọa của cộng sản, cho nên một mặt ông tung ra phong trào tố cộng, mặt khác bắt đầu thực hiện kế hoạch ấp chiến lược.
“Uy quyền ông Diệm quá lớn nhưng thuộc hạ chẳng mấy ai là người tài giỏi hay có tư cách vững chãi, cho nên mọi quyết định ông Diệm đưa ra chẳng bao giờ có ai cản trở hay can gián.
“Chung quanh chiến dịch tố cộng thời bấy giờ, tôi nhận thấy nhiều lạm dụng, lộng quyền, vu khống, oan ức.
“Nhưng bởi vì tôi không nắm đầy đủ mọi sự kiện, lại không có thẩm quyền gì, nên không thể đưa ra ý kiến trái ngược nào với ông Diệm hoặc ông Nhu. Tôi nghe nói lại một vài nơi ở thôn quê, cách thức tố cộng đã học đòi lối tố khổ, đấu tố của cộng sản.
“Các giáo sư trong Viện đại học Huế, cũng được phân phát những tài liệu học tập tố cộng, nhưng vì tôi không đặc biệt quan tâm, cho nên họ cũng hội họp bàn bạc lấy lệ, không có tính cách bắt buộc ai cả.”
(Trích từ cuốn hồi-ký “BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940–1965” của Linh-Mục Cao Văn Luận)
Ý Chính: Đang viết về “Ông Diệm và văn hóa giáo dục” (Chương 37) thế mà LM Luận lại đề cập đến chuyện tố cộng học đòi tố khổ, đấu tố của cộng sản; điều đó chứng tỏ là nạn “lạm dụng, lộng quyền, vu khống, oan ức” quá lớn, khiến ông bức xúc, đã nhiều năm qua sau cuộc Cách-Mạng lật Diệm mà ông vẫn còn nôn nóng viết ra.
Theo Ông TRẦN TÚ UYÊN
(Ký-Giả trên mạng):
[Thao Luan] Re: Ong Diem khong the can thiep vao quyen xu an cua toa an vi la che do dan chu: Tam Quyen Phan Lap Subject này là của… một kẻ không biết gì
Monday, June 30, 2008 6:19 PM
From: “Trần Tú Uyên” <ttuuyen@gmail.com>
To: ThaoLuan@yahoogroups.com
“ … Tôi không phục Tướng Lê Quang Vinh là vì ông ta không biết thức thời về hợp tác với ông Diệm để chống “kẻ thù chung là Cộng Sản Xâm Lăng”. Tôi cũng không phục ông Diệm là vì không có đủ tài trí để thu phục Tướng Lê Quang Vinh để phải giết chết một tướng tài cùng chí hướng chống Cộng như ông Lê Quang Vinh.”
Theo Ông LÊ TÙNG MINH
(Nhà Văn):
“Năm 1958, khi làm tỉnh trưởng Bến Tre, Phạm Ngọc Thảo đã nổi danh là ‘Tỉnh trưởng sát cộng sản’ – bắt được ‘tên cộng sản nằm vùng’ nào là giết bỏ, không chùn tay súng (?) Nhưng, sự thật thì không đúng như vậy! Phải nói: PNT là ‘Tỉnh trưởng sát những người từ trong hàng ngũ Việt Cộng về cộng tác với Chính phủ Quốc gia, tiêu diệt bọn cộng sản nằm vùng!’ PNT ra lệnh giết họ với lý do thật là hợp lý rằng: ‘Hắn là tên cộng sản giả đầu hàng để ngầm đánh phá nội bộ của chính quyền quốc gia. Bắn bỏ đi để trừ hậu hoạn (!)’. Chính vì lẽ đó mà một số người trong hàng ngũ cộng sản nằm vùng ở Bến Tre muốn về với Chính phủ Quốc gia, đều phải hoảng sợ, không dám ra ‘chiêu hồi’ tại tỉnh Bến Tre, khi PNT còn làm tỉnh trưởng! PNT hành động như thế, vừa được cấp trên khen là ‘thẳng tay diệt trừ Cộng Sản’, vừa bảo toàn được ‘lực lượng giải phóng’ của Bến Tre!”
(Trích từ bài-viết “Từ PHẠM NGỌC THẢO Đến PHẠM XUÂN ẨN – Cùng Ôm Khối Hận Đời Mang Theo Xuống Tuyền Đài!” – New England-USA – Ngày 20-02-2007)
Ý Chính: Chỉ là cấp Tỉnh Trưởng mà ra lệnh giết người, (“bắn bỏ”, “giết bỏ”), “không chùn tay súng” (dù là quân địch đã ra hàng rồi), huống chi là cấp cao nhất – Tổng Thống). Điều đó chứng tỏ chính quyền Ngô Đình Diệm tàn ác và phi pháp đến độ nào.
Theo nhóm LÝ TRẦN LÊ NGUYỄN
(Ký-Giả trên mạng – Paris):
“Tướng Ba-Cụt Lê Quang Vinh bị bắt ngày 13.4. 1956.
“Do Thượng Lệnh của TT Diệm, Toà án Quân Sự măc dù đã có Tòa Án Dân Sự (cả Sơ Thẩm lẫn Thượng Thẩm) xét xử rôi được triệu tập tại Cần-Thơ ngày3.07.1956.
“Ngày 04.07.1956 Toà án Quân Sự tuyên án tử hình.
“Ngày 13.07.1956 Tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh bị hành quyết chém đầu!
“Từ lúc bị bắt cho đến lúc bị hành quyết đúng 03 tháng!
“Từ lúc bị kết án tử hình cho đến lúc bị hành quyết là 09 ngày!
“Một Chế độ Pháp trị thật sự, điều đó không thể xảy ra trong một thời gian ngắn ngủi như vậy!
“Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
“Lập pháp, Tư pháp đều phải sắp hàng đứng sau Hành Pháp, đó là sự thật:
“Sau Hiến Pháp còn có Tôi ( lòi TT Ngô Đình Diệm )”
(Trích từ bài-viết của Nhóm LyTranLeNguyen / Paris 2008/6/30 lytran lenguyen <lytranlenguyen75@ yahoo.fr>)
Theo Luật-Sư HOÀNG DUY HÙNG
(nhà văn, nhà báo):
“ … Dù cho Tổng-Thống Diệm… đã đạt được nhiều thành-quả, ông cũng đã vấp phải nhiều lỗi-lầm góp phần vào sự suy-sụp của triều-đại dòng họ Ngô.
“1/ Diệm quá sức tín-cẩn các anh+em và thân-nhân của mình đến nỗi dân-chúng gán cho chính-quyền của ông là “gia-đình-trị”. Thí-dụ, ông Ngô Đình Nhu và vợ ông này là Trần Thị Lệ Xuân, đều là Dân-Biểu Quốc-Hội, nhưng ông Nhu không bao giờ tham-dự một buổi họp nào của Quốc-Hội! Mặc dù Nhu và vợ chỉ là cố-vấn trong chính-quyền Diệm, nhưng quyền-lực của họ đã vượt lên trên mọi người, chỉ trừ có Diệm mà thôi. Nhu và vợ gần giống như “thủ-tướng” trong chính-quyềnDiệm. Nhu là một người thông-minh, song không thích-hợp trước công-chúng vì ông ấy nói-năng không lưu-loát. Cũng giống như Diệm, Nhu quá tự-tin, và nhiều người cho rằng đó là thói kiêu-ngạo. Trong lúc đó thì Bà Nhu là một phụ-nữ đầy tham-vọng, tuy nhiên, đối với nhiều người, bà ấy không có khả-năng giao-thiệp, khiến gây nên nhiều sự chống-đối nhằm vào chính-quyền Diệm… (xem Mục “Ngô Đình Nhu”)
Ngay chính thân-phụ của Bà Nhu là ông Trần Văn Chương cũng được bổ-nhiệm làm Đại-Sứ tại thủ-đô Hoa Thịnh Đốn, và thân-mẫu Bà Nhu là bà Chương cũng là Đại-Sứ tại Liên Hiệp Quốc…
Một thí-dụ khác, là ông Ngô Đình Cẩn, người không chính-thức giữ một chức-vụ gì trong chính-quyền, nhưng lại là “lãnh-chúa” của Miền Trung Việt-Nam… Thế nhưng ông ấy cũng đã lạm-dụng quyền-hành tỉ như chiếm giữ độc-quyền trong nhiều lãnh-vực kinh-doanh, bắt giam nhiều phần-tử đối-lập chính-trị mà không hề xét xử… (xem Mục “Ngô Đình Cẩn”)
Sau cùng, nhưng không phải chỉ chừng ấy mà thôi, Tổng-Giám-Mục Ngô Đình Thục dựa vào chính-quyền Diệm để tổ-chức các đại lễ tiệc Ky-Tô-Giáo tại thành-phốHuế, nơi mà đa-số dân-chúng là Phật-Tử hoặc thờ-cúng tổ-tiên, với hy-vọng là Tòa Thánh Vatican sẽ công-nhận các hoạt-động cùa mình và tấn-phong mình làm vịHồng-Y đầu tiên của Việt-Nam. Năm 1959, Diệm ký sắc-lệnh cho phép Tổng-Giám-Mục Ngô Đình Thục khai-thác gỗ tại khu rừng Định Quán thuộc Tỉnh Long Khánh… (xem Mục “Ngô Đình Thục”)
“2/ Diệm bổ-nhiệm bác-sĩ Trần Kim Tuyến làm Giám-Đốc Sở Nghiên-Cứu Chính-Trị và Xã-Hội. Trong thực-tế, sở này là một cơ-quan tình-báo nhắm mục-đích giúp Diệm và Đảng Cần-Lao củng-cố thế-lực trong chính-quyền. Đối với nhiều người, cơ-quan tình-báo này là một sở “khủng-bố”, vì đã lạm-quyền bắt-bớ và giam-cầm người dân mà không buộc tội gì cả. Nhiều lãnh-tụ chính-trị đã bị cơ-quan tình-báo này bắt-bớ và bí-mật giam-cầm suốt nhiều năm trời, tỉ như Hà Thúc Ký, là Thủ-Lãnh của Đại-Việt Cách-Mạng-Đảng, Phạm Thái, là một trong các lãnh-tụ của Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng. Các lãnh-tụ chính-trị khác thì bị bí-mật thủ-tiêu, như trong trường-hợp ông Nguyễn Bảo Toàn. Cảnh-trạng đó càng thảm-hại hơn, khi, vào ngày 6 thang 5 năm 1959, Tổng-Thống Diệm ban-hành một loạt các đạo Luật gọi là Luật 10/59 cho phép bắt giam bất cứ kẻ nào bị nghi là cộng-sản mà không cần thủ-tục chính-thức buộc tội. Các đạo luật này đã gây bất-bình cho các nhà hoạt-động nhân-quyền khắp nơi trên thế-giới. Dựa vào các đạo luật này, một số đảng-viên Đảng Cần-Lao cũng đã trả thù các kẻ thù của mình bằng cách giản-dị cáo buộc họ là “nghi-can cộng-sản”. Hẳn là, trong nhiều trường-hợp, cộng-sản đã đứng đằng sau giựt dây và khích-động quần-chúng, đặc-biệt là Phật-Tử, đứng lên chống-đối chính-quyền Diệm, do tính cứng-rắn của ông cũng như do các hành-động bất-lương của đám thuộc-hạ của ông.
“3/ Diệm là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo; đáng lẽ ông nên đối xử tế-nhị hơn với giới Phật-Tử để tránh những sự hiểu lầm giữa hai tôn-giáo. Dưới thời Bảo Đại, đã có một đạo luât, là Luật số 10, xem Giáo-Hội Phật-Giáo như là một “hội” trong lúc xem Giáo-Hội Ky-Tô-Giáo như là một “tôn-giáo”. Điều này thật rất bất-công, vàDiệm, với tư-cách là Tổng-Thống, đáng lẽ đã hủy-bỏ đạo luật này để tránh những sự xung-đột không cần-thiết giữa hai tôn-giáo ấy…
“4/ Diệm và người nhà của ông không có một chính-sách hữu-hiệu để lôi kéo sự hợp-tác của các đảng-phái quốc-gia khác… Đảng Cần Lao vừa mới được thành-lập và nó vẫn còn quá non trẻ so với các đảng quốc-gia khác như Đại Việt và Quốc-Dân Đảng. Các đảng ấy đã có một quá-trình dài hoạt-động cách-mạng rồi, nhiều người trong họ đã hy-sinh cho chính-nghĩa và nền độc-lập của tổ-quốc. Các đảng ấy không có may-mắn cầm nắm quyền-lực trong chính-phủ, do đó, họ không thể phát-triển hoạt-động của họ dễ-dàng như Đảng Cần-Lao, và, đương-nhiên, nếu các lãnh-tụ Đảng Cần-Lao không đối-xử với họ một cách khôn-ngoan và tế-nhị, thì sự bất-mãn sẽ nổ bùng dễ-dàng… Từ đó, không có bao nhiêu đảng-viên của các đảng-phái quốc-gia khác muốn hợp-tác với chính-quyền Diệm.
“5/ Diệm tín-nhiệm các giám-mục và linh-mục Ky-Tô-Giáo một cách sâu rộng đến độ ông luôn luôn tin dùng những người nào mà các giám-mục và linh-mục giới-thiệu. Cộng-sản nhận thấy đó là một khe hở, cho nên họ đã phái nhiều điệp-viên xâm-nhập vào hoạt-động bên trong chính-phủ Diệm, qua đường dây này, thí dụVũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, v.v…
“6/ Đảng Cần Lao (xem Mục “Đảng Cần Lao”)
“Diệm tin-tưởng vào anh+em và quyến-thuộc của mình cũng như cầm quyền một cách độc-tài và thiếu linh-động… ông không tin-cậy bất-cứ người nào bên ngoài gia-đình của ông…”
(Trích và phỏng-dịch từ tác-phẩm “A Common Quest For Vietnam’s Future, a brief of Vietnam War, the First and Second Republic of Vietnam” [Cùng Tìm Tương Lai cho Việt Nam, tóm lược Chiến Tranh Việt Nam, hai nền Đệ-Nhất và Đệ-Nhị Cộng-Hòa] của Hoàng Duy Hùng)
Theo nhà thơ HÀ THƯỢNG NHÂN
(Cựu Trung Tá Phạm Xuân Ninh, nguyên Tổng Giám Đốc hệ thống Truyền Thanh Quốc Gia thời Đệ I Cộng Hòa):
Trong một dịp lễ giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông đã viết mấy bài đăng trong Đặc San ngày lễ nói về một số đức tính của Tổng Thống. Trong đó có bài viết về vấn đề “kỳ thị tôn giáo” như sau:
“Một hôm, một vị Linh Mục đến Đài Phát Thanh đề nghị với tôi cho chuyển mục “Tiếng nói Công Giáo” sang tầng số A, tức là tầng số Quốc Gia. Tôi trả lời rằng, làm như thế bắt buộc phải cho tiếng nói của các tôn giáo khác cũng được hưởng một quy chế tương tự. Điều đó không thể thực hiện được. Ít hôm sau tôi được giây nói của ông Nguyễn Đình Thuần bảo: Tổng Thống đã chấp thuận cho “Tiếng nói Công Giáo” được phát thanh trên tầng số A. Tôi thưa là việc đó rất quan trọng, phải có công văn minh xác, chứ tôi không thể thi hành theo khẩu lệnh. Ông Thuần gửi văn thư tới. Vị Linh Mục hôm trước cũng tới. Tôi nói: Để tôi xin trình diện Tổng Thống rồi mới quyết định. Ông Thuần gọi tôi vào tỏ ý bất bình vì tôi ngoan cố bất tuân thượng lệnh. Tôi trình bày lý do và xin phép ông cho tôi trình thẳng Tổng Thống. Ông gắt lên: “Anh muốn làm gì đó thì làm”.
Ngay khi tôi gặp Tổng Thống đã hỏi: “Tại răng các Cha làm việc đạo đức mà lại cấm?”
Tôi thưa rằng: Trong nước có nhiều tôn giáo khác nhau. Nếu nay lại để cho Công Giáo được đãi ngộ đặc biệt thì lòng dân sẽ bất bình, nghĩ là Tổng Thống là Công Giáo nên quá thiên về đạo giáo của mình. Chúng tôi thiết nghĩ Đạo Chúa là Đạo Tình Thương, vậy thì dùng mục “Tiếng Vọng Tình Thương” rồi muốn nói gì thì nói. Tổng Thống ngồi lặng một lúc rồi gật đầu:
“Anh về bàn lại với các Cha. Đừng quá sốt sắng về việc đạo mà xảy ra chuyện kỳ thị tôn giáo” .
Tôi ra về trình lại với ông Thuần. Ông Thuần ngạc nhiên hỏi: “Anh nói gì mà Tổng Thống lại đổi ý như vậy?” Tôi nói: Thưa việc này mới nhìn có vẻ tầm thường, nhưng suy nghĩ kỹ thì là cực kỳ nghiêm trọng. Vấn đề tôn giáo là một vấn đề vô cùng phức tạp. Rất nhiều vị tu hành vì quá sốt sắng với việc đạo, mà làm hại đến uy tín của chế độ.
Ông Thuần tỏ ý khen ngợi tôi đã dám thẳng thắn nói lên sự thật, nói lên ý kiến đúng đắn của mình.
Tôi nghĩ, chỉ vì nhiều người muốn cho xong chuyện, nên tìm cách bưng bít sự thật, chứ Tổng Thống Diệm là người lúc nào cũng muốn nghe lẽ phải và sự thật.
Bọn người bưng bít sự thật chính là bọn phản bội. Nước mất phần lớn là vì bọn người ấy.”
Nguồn: “Dòng Họ Ngô-Đình – Ước Mơ Chưa Đạt” của Nguyễn Văn Minh
Nhưng đời có được bao nhiêu Hà Thượng Nhân? Và lỗi đâu phải là ở “nhiều người” “muốn cho xong chuyện”, mà là ở kẻ cầm quyền có sẵn định-kiến trong đầu“các Cha (bao giờ cũng chỉ) làm việc đạo đức”
Theo Tiến-Sĩ PHILIP E. CATTON
(Giáo-Sư phụ khảo về lịch sử tại Stephen F. Austin State University [MN, USA], tác giả “Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam” ):
“ … Sự nghiên cứu một cách thấu đáo của Philip Catton đã cung cấp cho chúng ta nhiều hơn hình ảnh phức tạp của ông Diệm về cả một nhà yêu nước nhiệt tình lẫn một kiến trúc sư thất bại trong việc canh tân hoá. Bằng cách đó, tác giả tỏa ra ánh sáng mới về một chế độ có nhiều tranh luận…
“Catton cho thấy rằng kế hoạch của ông Diệm cho Miền Nam Việt Nam đụng chạm với kế hoạch của Hoa Kỳ và tỏ ra không địch được với cộng sản Việt Nam.”
“Đặc biệt vào những khi tình hình đất nước xấu đi, người Mỹ thúc Diệm sửa chữa cái mà họ xem là khiếm khuyết của chính thể: sự lộn xộn trong bộ máy hành chính do Diệm không muốn san sẻ quyền hành, sự thiếu dân chủ và thiếu ủng hộ chính phủ trong dân chúng.
“Người Mỹ lo ngại rằng quá thừa sự chuyên quyền, mà không đủ nỗ lực chinh phục thêm người ủng hộ. Nhưng họ bực tức thấy Diệm vẫn cứ làm theo ý mình.
“Diệm tin rằng chỉ có bàn tay sắt mới giải quyết được các vấn nạn của miền Nam.
“Những căng thẳng này cũng có thể kiềm chế được nếu dự án dựng xây một miền Nam vững chắc đã diễn ra suôn sẻ. Trong trường hợp đó, hai bên sẽ cảm thấy lợi ích của mối quan hệ lớn hơn sự bực mình.
“người cộng sản bắt đầu tổ chức du kích chống lại chính quyền Diệm, bằng sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Du kích nhanh chóng kiểm soát nhiều khu vực quan trọng ở nông thôn miền Nam.
“Lại có những dấu hiệu cho thấy Diệm để mất ủng hộ trong những người chống cộng, cụ thể là vụ đảo chính bất thành tháng 11.1960.
“Trong không khí căng thẳng này, Khủng hoảng Phật giáo trở thành giọt nước tràn ly. Phản ứng bản năng của Diệm là không nhượng bộ. Ông còn nghi ngờ người Mỹ tìm cách phá ông khi cứ đòi ông nhượng bộ người biểu tình. Ông cũng lo việc Henry Cabot Lodge trở thành tân đại sứ Mỹ báo hiệu chính sách kém thân thiện với chính quyền miền Nam.
“Với nhiều viên chức Mỹ, khủng hoảng Phật giáo và việc Diệm khăng khăng không chịu nhượng bộ xác nhận sự phá sản chính trị và đạo đức của chính quyền. Họ lý luận để cứu miền Nam, phải thay chính phủ Diệm. Cuộc đảo chính tháng 11.1963 diễn ra vì Diệm để mất ủng hộ của Mỹ.”
(Trích từ bài-viết “Liên Minh Bất Hòa” [dựa vào Website BBCVietnamese.com ngày 17.9.2008] của ký giả Lữ Giang phổ biến ngày 23 Oct 2008)
Theo Giáo-Sư RONALD B. FRANKUM
(Tiến-Sĩ, dạy Khoa Lịch-Sử, Đại-Học Millersville):
“ … Diệm có viễn kiến riêng về giải phóng Việt Nam khỏi ngoại bang, chống nhà nước cộng sản, dù rằng đây là hai mục tiêu mâu thuẫn vì để mục tiêu sau thành công thì phải có hỗ trợ của một ngoại cường, Mỹ.
“Ban bệ của Diệm lại không có mấy người có kinh nghiệm quản trị, nhiều người thì nuôi dưỡng sự nghi ngờ chính quyền Sài Gòn.
“Rốt cuộc, việc Diệm không thể củng cố sự ủng hộ của dân chúng.
“Tổng thống Dwight D. Eisenhower và sau đó, John F. Kennedy, tìm cách kiềm chế ảnh hưởng cộng sản tại châu Á, và xây dựng một hình mẫu cho các nước khác noi theo.
“Vị đại sứ [Durbrow] cũng không tin Diệm có thể thắng cuộc bầu cử tháng Tư 1961 không phải nhờ gian lận mà nhờ uy tín, thành tích hoặc sự yếu kém của các ứng viên khác.
“Khi Durbrow ra đi tháng Tư 1961, quan hệ đặc biệt giữa Diệm và Hoa Kỳ đã bị đầu độc; nó đặt ra những khác biệt mà không người Mỹ nào, dù là Kennedy hay Johnson, có thể hàn gắn.
“Đến khi Kennedy đã có chỗ ngồi vững chãi tại Tòa Bạch Ốc, thí nghiệm Ngô Đình Diệm có vẻ chỉ tạo ra kết quả giảm sút. Sáu năm xây dựng quốc gia đã không đem lại một nhà nước mẫu mực mà Mỹ hy vọng có để chứng tỏ về một lựa chọn thay thế cộng sản ở châu Á.”
(Trích từ cuốn sách “Silent Partners: The United States and Australia in Vietnam, 1954-1968” [2001] qua BBCVietnamese.com)
Theo Ông HOÀNG NGỌC NGUYÊN
(Ký-Giả):
“Cực Điểm của Khủng Hoảng
“Những người có thể biết được biến động Phật Giáo và cuộc đảo chánh quân đội lật đổ chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm… nhưng những người đã biết hay đã sống trong những ngày đó cách đây 45 năm hẳn phải đồng ý với nhau rằng cuộc “cách mạng” đó hẳn hẳn phải xảy ra, và “cách mạng” đó phải thành công.
“Biến động Phật Giáo trong năm 1963 đã chỉ ra sự bế tắc của chế độ của ông Ngô Đình Diệm trong việc nhận diện và giải quyết những vấn đề ngày càng nghiêm trọng của miền nam. Những vấn đề này dĩ nhiên đã nổi lên từ lâu, ít nhất là từ năm 1960, khi nhóm nhân sĩ Caravelle vào tháng tư đưa ra một kiến nghị yêu cầu cải cách, và sáu tháng sau đó là cuộc đảo chánh của lực lượng nhảy dù của tướng Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông, nhưng được không ít giới dân sự ủng hộ. Ngày 27-2-1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom nhắc nhở cho những người ở Dinh Độc Lập nhận thức rằng những vấn đề đã được đặt ra vẫn còn nguyên vẹn không giải quyết. Những biến cố xảy ra năm sau đó, bắt đầu là ở Huế, rồi lan ra ở Saigon và một số tỉnh miền trung, là những diễn tiến có tính cách tất nhiên. Có một ít hy vọng về một khả năng thỏa hiệp giữa chính quyền và lực lượng tranh đấu của Phật Giáo qua các cuộc thương lượng vào tháng năm, tháng sáu, nhưng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm nói rằng “Sau Hiến Pháp còn có tôi”, và vụ tấn công vào các chùa Phật giáo xảy ra vào tối ngày 20-8, dường như tất cả đã bị mất hết đối với chính quyền ông Diệm.
“ … Trong nhiệm kỳ đầu, ông làm được công tác bình định và phần nào thu phục dân tâm, nhưng lại không làm được nhiệm vụ đoàn kết, là một nhiệm vụ cấp bách nhưng cũng rất khó khăn. Muốn đoàn kết, người ta phải đi ra ngoài và cúi xuống. Ông Diệm chẳng mấy khi đi ra ngoài, và ông thấy rất khó khăn khi phải cúi xuống. Chính quyền của ông là một chính quyền “thiểu số”, về mặt tôn giáo, địa phương và cả chính trị trong nghĩa tập họp các đảng phái chính trị. Sau khi bình định được những lực lượng quốc gia chống đối, ông chỉ nhìn thấy một mục tiêu duy nhất là Cộng Sản mà quên rằng ông không thể một mình chống cộng đuợc. Ông đã làm rất ít để giảm đi tính chất “thiểu số” nơi căn bản chính trị của ông, đó là tôn giáo, địa phương và đảng phái. Ngược lại, ông đi tìm sự ủng hộ mong manh từ những lực lượng được lập ra từ chế độ nhưng thiếu thực chất vì không đi vào được các thành phần trong dân chúng, như Phong trào Cách mạng Quốc gia, phong trào thanh niên thanh nữ Cộng hòa, chủ thuyết Nhân Vị và đảng Cần Lao của ông Ngô Đình Nhu. Chế độ của ông đã dành nhiều đặc ân cho thiểu số một cách lộ liễu qua uy thế và khả năng ban ơn mưa móc của hai ông Ngô Đình Thục và Ngô Đình Cẩn mà những người lãnh đạo cao nhất như ông Diệm, ông Nhu chẳng làm gì được, thì“cách mạng” 1-11 hẳn phải xảy ra.
“Cuộc “cách mạng” đó phải thành công, không chỉ vì chế độ của ông Diệm đã không cho thấy một lãnh đạo có khả năng đáp ứng được những thách đố của lịch sử, mà còn vì các tướng lãnh quân đội, một thời vâng dạ với hai ông Diệm và Nhu, nay phần lớn đã “thức thời”, tham gia Hội đồng Quân nhân Cách mạng đứng đầu là tướng Dương Văn Minh…
“Cuộc đảo chánh ngày 1-11 là cực điểm của cuộc khủng hoảng của Đệ nhất Cộng hòa. Ủng hộ ông Diệm hay chống ông Diệm, đối với nhiều người, một chương cũ đã khép lại và một chương mới chất chứa nhiều mong đợi, hy vọng của người dân đã được mở ra…”
(Trích từ bài-viết “45 Năm Trước Đi Vào Đường Hầm” của ký-giả Hoàng Ngọc Nguyên, trong mục “Nhận Định Thời Cuộc” [là một chuyên-mục của báo Saigon Nhỏ, nơi mà ký-giả Tú Gàn trước đó thường-xuyên đăng bài bênh-vực cố Tồng-Thống Ngô Đình Diệm cũng như đả-kích các cấp lãnh-đạo Phật-Giáo Việt-Nam Thống-Nhất] trên báo Saigon Nhỏ số 884 ra ngày 31-10-2008)
Theo Ông LÝ CHÁNH TRUNG
(Chính-Khách):
“ … Ông [Ngô Đình Diệm] đã tưởng mình có thể nhẩy vào vòng tay người Mỹ trong một giai đoạn ngặt nghèo rồi thoát khỏi vòng tay đó khi tình hình sáng sủa hơn, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng của ông.
Khi ông nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường: Không một con cờ nào có thể tự động đi một nước cờ cho riêng nó, dầu con cờ đó mang tên Ngô Đình Diệm, và không một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất là nước đó mang tên Hoa Kỳ.”
(Lý Chánh Trung, Những Ngày Buồn Nôn [Sàigòn: Đối Diện, 1971], tr. 137)
Theo Ông TRẦN PHONG VŨ
(Nhà Văn, Nhà Báo):
Trong cuộc phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, cựu Phụ Tá Đặc Biệt về Chính Trị của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu:
“Trần Phong Vũ (hỏi:) Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm cũng như Tổng Thống Thiệu, sự lãnh đạo đều có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Ðiều này có phải vì đầu óc độc tôn, tham quyền cố vị của lãnh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?”
(Trích từ loạt bài “Phỏng Vấn Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Văn Ngân” của Trần Phong Vũ – Friday, September 29, 2001)
Câu hỏi về tổng-thống của Đệ-Nhị Cộng-Hoà tự nó đã nói lên một nhận-định của ngưòi phỏng-vấn về tổng-thống của Đệ-Nhất Cộng-Hoà.
Theo Ông TRƯƠNG BẢO SƠN
(Nhà cách-mạng Việt-Nam Quốc-Dân-Đảng):
“… Văn Hóa Ngày Nay ra được 11 số thì đình bản, mặc dầu được độc giả khắp nơi hoan nghênh. Ôi chỉ vì nó được hoan nghênh quá xá mà chết non. Nguyên do như thế này:
Trước hết tập Văn Hóa Ngày Nay không được chế độ Ngô Đình Diệm cho phép xuất bản như một tạp chí mà chỉ là một giai phẩm phát hành không có định kỳ. Vì không có định kỳ nên Bộ Thông Tin kiểm duyệt cố tình để lâu mới trả bản thảo để in. Ông Hoàng Nguyên, chủ sự phòng kiểm duyệt đã nói với tôi rằng, ông tuy có nhiều cảm tình với chúng tôi, nhưng không thể làm trái lệnh cấp trên, là cản trở tờ Văn Hóa Ngày Nay ra đúng hạn kỳ (tỷ dụ như đúng ngày mồng một mỗi tháng) để độc giả nhớ ngày mua báo; hơn nữa bài vở phải kiểm duyệt kỹ, nhất là bài của Nhất Linh và Bảo Sơn.
Sau nữa, ngoài chế độ kiểm duyệt, phản quyền tự do ngôn luận này ra, chế độ Ngô Đình Diệm còn có một thủ đoạn hiểm độc nữa là nhà nước giữ độc quyền phát hành báo chí, kể cả giai phẩm. Ngô Đình Diệm đã có sáng kiến đặt ra Nhà Phát Hành Thống Nhất, bắt tất cả mọi báo chí phải đưa cho công sở này phân phối. Tập Văn Hóa Ngày Nay bán chạy như tôm tươi mấy số đầu, đã bị ế dần đi. Nhà Phát Hành độc quyền của chính phủ đã thi hành độc kế, không gửi đủ số báo cho các tiệm sách đã đặt mua. Chúng tôi khi buộc báo thành từng bó đã cố ý đánh dấu riêng, khi nhận báo từ Nhà Phát Hành trả về, thấy những dấu ấy vẫn còn y nguyên, tức là Nhà Phát Hành đã không làm đúng nhiệm vụ, đã giữ báo của chúng tôi trong kho, không phân phối đi. Có những tiệm sách đến điều đình mua thẳng báo với chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng chúng tôi phải từ chối, sợ bị chính quyền gài bẫy. Đã nghèo lại bị thua lỗ, chúng tôi đành đình bản tờ Văn Hóa Ngày Nay.
Mấy tháng sau, tôi đứng tên xin ra tờ Tân Phong, cũng chỉ được phép xuất bản như một giai phẩm không định kỳ, cuối cùng cũng chịu chung số phận như Văn Hóa Ngày Nay…”
(Trích từ bài-viết “Những Kỷ Niệm Riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” của Trương Bảo Sơn do nữ-sĩ Trương Kim Anh là ái-nữ của cố Trương chí-sĩ phổ-biến)
Theo ký-giả PHỤNG HỒNG
(Một cây bút chủ-lực của “Văn Nghệ Tiền Phong”):
“Fairfield, ngày 18.11.1993
“Kính ông Hồ Anh, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Văn Nghệ Tiền Phong,
“Tôi đọc bài “Ai Giết Tổng thống Ngô Đình Diệm” của Phụng Hồng (đăng ở trang 24, 25, và 92 của VNTP số 429), thấy có một đoạn (đoạn giữa, cột 4, trang 25) mà tôi chưa hiểu rõ ý, nên nêu ra đây để nhờ ông giải đáp cho…
“Tác giả Phụng Hồng viết:
<<1) Linh mục Cao Văn Luận đã viết: ‘Tôi còn nhớ một đoạn trong câu chuyện của ông đại sứ Đức: Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đâylinh hồn ông Diệm sẽ phảng phất nơi đây và sẽ gieo nhiều tai hoạ cho xứ sở mình’. Gieo nhiều tai họa cho xứ sở mình. Đúng lắm! Lời tiên tri của ông đại sứ Đức…
2) Cho đến thời điểm 30.4.75 mọi người phải bỏ nước ra đi, hoặc vào lò luộc người cải tạo mút mùa, hoặc vượt biên tìm đất sống, hoặc vùi thây trên biển Đông. Như thế là đủ chưa? Rồi đây oan hồn anh em các ông Diệm Nhu còn gây ra những đại hoạ nào khác nữa chăng? Và sẽ kéo dài đến bao giờ?>>
“Sau đây là những điểm tôi nhờ ông giải thích:
“1. Nhiều người tin rằng ma quỷ gieo tai hoạ cho con người. Linh hồn ông Diệm gieo nhiều tai hoạ cho xứ sở mình, vậy có phải là linh hồn ông Diệm đã trở thành ma quỷ, hoặc đã nhập bọn với ma quỷ hay không?
“2. Oan hồn anh em các ông Diệm Nhu đã gây ra những đại hoạ, rồi đây còn gây ra những đại hoạ nào khác nữa chăng? Và sẽ kéo dài đến bao giờ? Những đại hoạ ấy thì mọi người đều đã biết rồi. Nhưng, tại sao oan hồn anh em các ông Diệm Nhu không chỉ gieo tai hoạ cho một số ít trong tổng số nhiều người đã trực tiếp hoặc gián tiếp giết họ, mà lại gây ra những đại hoạ cho toàn dân, đặc biệt là cho toàn khối công chức, quân nhân, cán bộ, chính khách Việt Nam Cộng Hoà [là những người chỉ biết chiến đấu và hy sinh cho chính nghĩa quốc gia], trong đó gồm cả một số Ky Tô hữu và đồng chí của họ, là những người vốn trung thành với họ, mà nay cũng trở thành nạn nhân của những đại hoạ do họ gây ra?…
“Kính thư,
“LÊ XUÂN NHUẬN
“(California)”
(Trích từ bán-nguyệt-san “Văn Nghệ Tiền Phong” xuất bản tại Virginia, USA, số 432, từ ngày 16 đến ngày 31.1.1994, bài “Lời Tiên Tri của ông Đại Sứ” trang 50-51)
Theo số người hoài-Ngô này thì oan-hồn các ông Diệm & Nhu đã trở thành ma quỷ, gây đại-hoạ cho toàn dân Việt Nam.
Theo Ông NGÔ KHA
(Ký-Giả):
… Dưới nền Đệ Nhất Cộng Hòa, dù Hiến Pháp 1956 đã bộc lộ rõ ràng tính phi-dân-chủ của nó, nhưng thật ra, chính thực tế sinh hoạt chính trị Miền Nam trong những năm sau đó là đối-lập chính-trị bị đàn-áp, nhà tù chất đầy chính-trị-phạm, và quyền tự-do báo-chí bị thủ-tiêu, mới là những xác quyết không thể chối cải rằngchế độ Diệm là một chế độ phản dân-quyền. Những thuộc tính nổi tiếng khác của chế độ Diệm như Gia đình trị, Công an trị, Công giáo trị,… chỉ làm mạnh thêm và rõ thêm tính độc tài của gia đình cầm quyền họ Ngô mà thôi.
Chính vì chế độ độc tài đó đã kềm hãm, thậm chí còn tiêu diệt, sức mạnh phát triển quốc gia để đối đầu với miền Bắc, lại chẳng đem lại ấm no và tự do cho đồng bàoMiền Nam, nên chỉ trong 7 năm cầm quyền (từ khi ông Diệm làm tổng thống vào tháng 10/1956 đến khi chế độ của ông sụp đổ vào tháng 11/1963), người dân Miền Nam đã 7 lần chống đối lại chế-độ của ông:
1- Tháng 2/1957, hàng giáo phẩm Cao Đài đã ủng hộ cho một tín đồ tên là Hà Minh Trí mưu sát ông Diệm tại Hội chợ Xuân Tây Nguyên ở thành phố Ban Mê Thuột, với lý do là để trả thù cho tướng Trình Minh Thế và cho tín đồ Cao Đài bị đàn áp khiến Hộ pháp Phạm Công Tắc phải tị nạn qua Cam Bốt… Hà Minh Trí bị cầm tù đến sau 1963 mới được thả ra..
2- Tháng 5/1957, không chịu được nền độc tài gia đình trị và chính sách trả thù Quốc Dân đảng thông qua chiến dịch chống Cọng bừa bãi, Đại Việt Quốc Dân Đảng “thành lập chiến khu Ba Lòng tại vùng rừng núi phía Tây tỉnh Quảng Trị nhằm mục đích chống lại chế độ gia đình trị của Nhu-Diệm, đồng thời cũng là cơ hội dẹp tan các âm mưu cố thủ của Cộng Sản tại nam vĩ tuyến 17.” [Trích từ Website chính thức của Đại Việt Quốc Dân Đảnghttp://daivietquocdandang.org/2010/02/16/lichsudang-2/]… Một phần lớn các đảng viên bị bắt và tù đày. Từ đó, mâu thuẫn giữa đảng Đại Việt và chính quyền Ngô Đình Diệm không những không hàn gắn được mà càng lúc càng sâu sắc thêm.
3- Tháng 4/1960, mười tám nhân vật tên tuổi của miền Nam… công bố một Bản Tuyên Ngôn chỉ trích và lên án ông Diệm đã không đem lại cho dân chúng một cuộc sống tốt đẹp, tự do… Những nhân vật nầy đã bí mật mời một số thông tín viên ngoại quốc và vài ký giả Việt Nam đến họp tại hội trường khách sạn Caravelle (vì vậy, nhóm nầy còn được gọi là “nhóm Caravelle”). Bản Tuyên ngôn… nhận định về 4 lãnh vực Chính trị, Chính quyền, Quân đội và Kinh tế Xã hội. Họ thẳng thắn cho rằng Quốc Hội chỉ là tay sai của chính phủ, bầu cử chỉ là trò bịp bợm, tình trạng tham những bè phái khắp nơi, các chính đảng quốc gia bị đàn áp, quân đội chỉ là một công cụ để củng cố chính quyền chứ không được dùng để chống Cọng, lấy “sự trung thành với một đảng để tùng phục mù quáng những kẻ lãnh đạo đảng làm tiêu chuẩn thăng thưởng”…
4- Tháng 11/1960, chỉ 7 tháng sau “Tuyên ngôn Caravelle”, trước những biện pháp chính trị thất nhân tâm của chính quyền Diệm và trước tình hình an ninhmiền Nam càng lúc càng tồi tệ (Đầu năm 1960, sư đoàn 21 bị tấn công và thiệt hại nặng nề ở Tây Ninh, cuối năm đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời), binh chủng Nhảy Dù (với các sĩ quan chỉ huy như Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng, Phan Trọng Chinh, Phạm Văn Liễu, Nguyễn Huy Lợi …) cùng nhiều nhân vật đảng phái quốc gia tập họp trong Liên Minh Dân Chủ và Mặt trận Quốc gia Đoàn kết đã phát động cuộc binh biến, đánh thẳng vào dinh Độc Lập, đòi ông Diệm cải tổ toàn diện cơ cấu lãnh đạo quốc gia để xây dựng lại chính nghĩa và nâng cao hiệu năng chiến đấu của quân dân miền Nam. Bị cô lập và bao vây trong Dinh Độc Lập, ông Diệm hứa sẽ đáp ứng những đòi hỏi đó nhưng thật ra ông chỉ kéo dài thời gian để chờ quân đội ở miền Tây về cứu ứng. Tin vào lời hứa đó nên quân Nhảy Dù ngưng chiến, và sau đó trở tay không kịp, bị thua nên cấp lãnh đạo cuộc binh biến một phần bị bắt đưa ra Tòa án kết tội phản loạn, một phần phải trốn sang tị nạn chính trị tại Cam Bốt.
5- Tháng 2/1962, hơn một năm sau “Đảo chánh Nhảy Dù”, hai sĩ quan của một binh chủng khác của quân đội lại hành động: Trung úy Phi công Phạm Phú Quốcvà Nguyễn văn Cử đã bay 2 chiếc Skyrider A-1 ném bom Napalm và bắn rocket vào dinh Độc Lập với mục đích tiêu diệt đầu não của chế độ ông Diệm (Ngoài ông bàNgô Đình Nhu ở và làm việc trong Dinh Độc Lập, hôm đó còn có TGM Ngô Đình Thục nữa). Trung úy Quốc là giòng dõi của cụ Phạm Phú Thứ, một nhà cách mạng khí khái ở Quảng Nam mà giòng họ Ngô Đình vừa ghen vừa ghét trong thời Nam triều. Còn trung úy Cử là con của cụ Nguyễn Văn Lực, một lãnh tụ của Đại Việt Quốc Dân Đảng… Trung úy Quốc nhảy dù và bị bắt. Còn Trung úy Cử thì bay qua Cam bốt tị nạn [cho đến] sau 1963.
6- Một năm sau, vào tháng 5/1963, chính sách kỳ thị Phật giáo của chế độ Diệm lên đến cao điểm với lệnh cấm treo Phật kỳ trong lễ Phật đản tại Huế và sau đó… giết 8 Phật tử tại Đài Phát thanh. Đây là giọt nước làm tràn sự bất công của chính sách tiêu diệt Phật Giáo một cách có hệ thống để Công giáo hóa miền Nam vốn bắt đầu từ năm 1956, khi lần đầu tiên Hoà Thượng Trí Thủ gửi văn thư chính thức phản đối Linh Mục Vàng, giảng sư của Trung tâm Nhân Vị Vĩnh Long, đòi cắm cây thập giá lên núi Ngũ Hành Sơn, nơi có Chùa Non-Nước ở Đà-Nẵng (Vị Linh mục tên Vàng nầy, vào năm 1960, còn nổi tiếng về chuyện xúi dục con chiên Nhà thờPhú Cam đòi lại chùa Thiên Mụ ở Huế với lời giải thích quái đản rằng chùa Thiên Mụ là nơi “Mẹ của Trời”, tức Đức Mẹ Maria, giáng trần nên phải trả chùa nầy lại cho Công giáo! – (Tâm Đức, Như Áng Mây Bay, USA 2010, trang 230.)
Kể từ năm 1956 đó cho đến suốt 7 năm còn lại, Phật giáo đã bị đối xử phân biệt, áp lực đổi đạo, đày đọa đi các vùng dinh điền trên cao nguyên, bị chụp mũ là Cọng sản, chùa chiền bị các cha xứ lấn chiếm tranh giành, công chức quân nhân Phật tử bị trù dập.
Xin ghi lại đây ba tình trạng kỳ thị Phât giáo tiêu biểu và trắng trợn mà ở miền Nam lúc bấy giờ ai cũng biết là: (a) Lễ Phật đản không được ghi trong danh sách ngày nghỉ quốc gia trong khi lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh, … của Công giáo thì lại được xem như quốc lễ. (Mãi cho đến năm 1957, Hội chủ Phật giáo phải làm đơn “xin”, chính phủ mới “cho” nghỉ ngày Phật Đản); (b) Khi Phật tử bị ép buộc vào sống trong các khu Trù mật, Dinh điền, Ấp Chiến lược của chính phủ, họ bị đủ mọi áp bức, nhất là áp bức kinh tế để đổi đạo đến nỗi có câu vè thật ai oán rằng “theo đạo có gạo mà ăn” [theo giáo có áo mà mặc]; (c) Nhưng quan trọng hơn cả là chính quyềnNgô Đình Diệm vẫn duy trì Dụ số 10 để khống chế Phật giáo trong quy chế của một Hội bình thường, trong khi Công giáo thì không bị ràng buộc, muốn tự do điều hành và sinh hoạt sao cũng được. Ông Diệm đã truất phế vua Bảo Đại, đã thành lập nền Cọng hòa, đã thủ tiêu tất cả luật lệ thời phong kiến thực dân Tây để lại, vậy tại sao lại duy trì Dụ số 10 cực kỳ bất công và nham hiểm của phong kiến và thực dân, nếu không phải là để đạp Phật giáo xuống cho Công giáo lên ngôi vị độc tôn tạiViệt Nam ?
Biến cố ở Huế sau đó trở thành cuộc đấu tranh cho nguyện vọng 5 điểm đòi bình đẳng tôn giáo.
Trước sự ngoan cố của chính phủ Diệm, ngày 11/6 Hoà thương Thích Quảng Đức tự thiêu để “trân trọng kính gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa” khiến cuộc đấu tranh của Phật Giáo lan rộng ra với sự hiện diện mạnh mẽ và đông đão của sinh viên, học sinh và đảng phái. Ngày 7/7, văn hào Nhất Linh tự tử để cảnh báo chế độ Diệm đang làm “tội nặng mất vào tay Cọng sản”. Khuya 20/8, ông Nhu ra lệnh cho Cảnh sát dã chiến và Lực lượng Đặc biệt của Đại tá Lê Quang Tung phát động chiến dịch Nước Lũ ào ạt tấn công chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang, Từ Quang, Therevada ở Sài Gòn và chùa chiền khắp toàn quốc, bắt Tăng Ni (riêng tại Sài Gòn là 1,400 vị) và Phật tử giam giữ, phản-bội Thông-Cáo Chung và vu-khống cho Phật-Giáo là tay sai của Việt-Cộng. Hệ quả tức thời của chiến dịch Nước Lũ là toàn bộ thành phần lãnh đạo Phật giáo bị triệt tiêu, phong trào đấu tranh của Phật giáo gần như bị tê liệt, nhưng chính vì vậy mà phong trào đã trở thành tiền đề văn hóa và sức bật chính trị cho ngày 1/11/1963 của Quân đội ba tháng sau đó.
7- Trong ba tháng sau chiến dịch Nước Lũ để dứt điểm Phật giáo, nhiều vị lãnh đạo trên thế giới, kể cả Đức Giáo-Hoàng Paul VI và các tổ-chức Công Giáo, đãlên án chế độ Diệm. TGM Thục đến Vatican nhưng không được Giáo hoàng tiếp, bà Nhu dẫn phái đoàn Quốc hội đi “giải độc” trên thế giới bị chống đối. Cuối tháng 9/1963, Tồ chức Liên Hiệp Quốc quyết định gửi phái đoàn đến Việt Nam để điều tra tình hình đàn áp Phật giáo. Sinh viên học sinh và đông đảo đồng bào thay thế Phật tử và Tăng Ni ào ạt xuống đường biểu tình … Những tin đồn về việc ông Nhu sẽ tổ chức đảo chánh (kế hoạch “Bravo”) để thay ông Diệm, nhất là tin về hai anh em ông Nhu-Diệm đang thỏa hiệp với chính quyền Cọng sản miền Bắc được truyền đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Trường học đóng cửa, quân nhân bị cấm trại 100%, nhu yếu phẩm bị đầu cơ tích trữ. Sài Gòn như bốc lửa …
Ngày 1/11/1963, quân đội phát động cuộc binh biến lần thứ ba để lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Và lần nầy họ thành công. Ngày hôm sau, 2/11, hai anh em ông Nhu và Diệm bị bắn chết. Toàn quân toàn dân trên 35 tỉnh thị miền Nam hân hoan vui mừng ngày Cách mạng.
*
Hai nhà làm văn hóa ở Sài Gòn đã mô tả lại tâm tình của người dân thủ đô trong những ngày đó như sau:
“Từ 7 giờ sáng ngày 2-11-1963, khi đài phát thanh Sài Gòn báo tin dinh Gia Long bị quân đội chiếm thì già trẻ lớn bé lũ lượt kéo nhau đi xem. Lời hò reo, tiếng cười vang với sắc diện tươi vui của mọi người chứng tỏ sự giải thoát gông cùm kềm kẹp của độc tài đã bóp nghẹt lòng dân trong chín năm trời đăng đẳng” (Bác sĩ Dương Tấn Tươi, Cười – Nguyên nhân và Thực chất, Sài Gòn 1968, tr.44 ).
Còn thi sĩ Đông Hồ thì: “Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công trong 9 năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở, mà phản ứng chỉ có chứng ấy thì tưởng quần chúng nhân dân Việt Nam năm 1963 này cũng đã tỏ ra hiền lành nhiều lắm, và cũng đã biết tự hạn chế, tự biết kềm hãm sức giận dữ hung hãn của mình rồi đó.” (Nguyễn Hiến Lê, Tôi Tập Viết Tiếng Việt, 1988, tr. 21).
(Trích từ bài-viết “CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM – Một chế độ Ngược lòng dân và Phản thời đại”)
Theo Ông BÙI DIỄM
(Cựu Đại-Sứ VNCH tại Hoa-Kỳ):