TOÁN HỌC VIỆT NAM TRONG CÁC THÀNH TỰU KHOA HỌC KỸ THUẬT
Tạ Ngọc Liễn…..
Ở nước ta thời xưa, toán học không có truyền thống lớn. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVII, một người Anh tên là Dampier (Dampiơ), sau một thời gian sống tại Việt Nam đã nhận xét: “Người Việt Nam rất giỏi số học, hình học và thiên văn học”.
Ngày nay, dựa vào tài liệu khảo cổ học vào lịch sử ngôn ngữ, vào khảo sát cấu trúc các công trình kiến trúc cổ còn lại…, ta thấy rõ người Việt Nam xưa ắt phải giỏi tính toán, và toán học đã được ứng dụng vào đời sống khá tài tình. Trong toán học, số học là môn phát sinh trước, lâu dài nhất : Nếu đứng ở góc độ số học để khảo cứu những cánh sao, tia sáng Mặt trời, đàn con chim, chiếc thuyền… khắc vẽ trên mặt, trên thân các trống đồng Đông Sơn, chúng ta sẽ tập hợp được nhiều sự kiện toán học nằm trong đó, cung cấp cho ta một bức tranh đẹp đẽ về trình độ nắm vững và sử dụng số học của tổ tiên ta thời cổ đại. Nghiên cứu các hoa văn trên đồ gốm tìm được Phùng Nguyên, gò Bông, Xóm Rền… chúng ta thấy các dạng hoa văn rất phong phú : hình chữ S, có loại dài, loại vuông, loại nối ngang lưng nhau ; hình chữ X, chữ A ; hai đường song song uốn khúc đều đặn, liên tục ; hình tam giác xếp ngược chiều nhau, hình tam giác cuộn. Qua đấy, không thể nghi ngờ gì được khi nói rằng người Việt Nam 3-4 nghìn năm trước đây đã có những nhận thức hình học và tư duy chính xác khá cao. Từ hình dáng, kích thước các trống đồng loại cổ nhất ở Việt Nam, chúng ta hiểu, để tạo được những mặt tròn đường kính to nhỏ khác nhau, những mặt phẳng, những góc độ chính xác ấy, các nhà chế tác trống đồng thuở đó phải có số pi (…..), cùng các loại thước, compa, ê-ke và kỹ năng tính toán diện tích, thể tích các hình chữ nhật, tam giác, lập phương, hình trụ, hình tròn cũng như việc sử dụng các con số, các loại thước phải đạt trình độ cao.
Lần đọc các bộ biên niên sử, chúng ta biết ở nước ta, thi toán được đưa vào chương trình khoa cử từ thế kỷ thứ XI (đời Lý, năm 1077). Thời nhà Hồ không những bắt buộc chương trình thi toán mà còn áp dụng rộng rãi toán học vào kinh tế, sản xuất : dùng toán học đo lại tổng số ruộng đất toàn quốc, lập thành sổ sách điền địa từng lộ, phủ, châu, huyện. Năm 1506, nhà nước tổ chức kỳ thi toán có 30 nghìn người dự thi. Kết quả 1519 người trúng tuyển, trong đó có 144 người giỏi, có 25 người rất giỏi. Nói chung ở nước ta thời xưa, cứ khoảng 10 đến 15 năm lại một lần mở khoa thi toán, hỏi về các phép bình phân và sai phân. Truyền thống này được duy trì lâu dài. Thế kỷ thứ XVIII, cứ 12 năm lại tổ chức một lần thi toán. Ví dụ, kỳ thi toán năm 1762 có 120 người trúng tuyển.
Trong số các nhà toán học giỏi của nước ta thế kỷ thứ XV – XVI, Lương Thế Vinh và Vũ Hữu là những người nổi bật, được đương thời tôn làm “thần toán”.
Ông từng nói : “thần cơ diệu toán vạn niên sư”. Nghĩa là: ai tính toán giỏi là thầy muôn đời. Tác phẩm của Lương Thế Vinh để lại có ‘Đại thành toán pháp’.
Vũ Hữu, người cùng thời với Lương Thế Vinh, đỗ Hoàng giáp năm 1463. Vũ Hữu làm quan Thượng thư 5 bộ. Ông là một nhà toán học tài năng, viết cuốn ‘Lập thành toán pháp’ và đặt ra phép do tính ruộng đất phổ biến trong cả nước.
THIÊN VĂN LỊCH PHÁP
Thiên văn là môn khoa học có liên quan mật thiết với toán học, đặc biệt là với lịch pháp. Qua biên niên sử, chúng ta thấy từ hàng nghìn năm trước, người Việt Nam đã bền bỉ tiến thành công việc quan sát bầu trời và ghi lại khá chính xác các hiện tượng thiên văn như nhật thực, nguyệt thực, sao chổi, sao sa, kèm những nhận xét về mặt trời, hệ thống hành tinh… Các hiện tượng động đất, khí tượng, thủy văn cũng được theo dõi, ghi chép năm, tháng, ngày xảy ra bão lụt, hạn hán, sấm sét… Cơ quan Nhà nước lập ra để nghiên cứu thiên văn ở thời Trần có Thái sử cục lịnh, thời Lê Có Thái sử cục, thời Lê-Trịnh có Tư thiên giám, sau đó là Khâm thiên giám. Các cơ quan thiên văn này đồng thời là nơi làm lịch. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, phần Lễ nghi chí, thì dưới thời Lê, nhiệm vụ của Tư thiên giám là “trông coi công việc đo độ số thiên thể, báo thời tiết và làm lịch”. Về cách làm lịch, cũng qua Phan Huy Chú ghi chép : hàng năm các nhà lịch pháp tính lịch năm sau. Tháng 6 viết thành 2 bản, 1 bản trình vua để xin tiền mua giấy, mực in. Vua xem xong giao cho Trung thư giám chép lại sạch đẹp rồi trả về Tư thiên giám, đối chiếu với nguyên bản mà đem in. Tới tháng chạp dâng lịch lên triều đình duyệt y. Ngày 24 tháng chạp làm lễ tiến lịch rất long trọng. Sau nghi lễ, lịch được ban cho các quan và phổ biến trong nhân dân. Sử sách còn lưu tên tuổi một số nhà thiên văn, lịch pháp giỏi của nước ta, trong đó Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán là những người tiêu biểu nhất.
Đặng Lộ, quê huyện ở Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông cũ, nay thuộc hà Sơn Bình. Ông làm chức Hậu nghi lang ở Thái sử cục lịnh. Đời Trần Minh Tông (1314-1329), ông chế ra một dụng cụ thiên văn gọi là Linh lung nghi, bao gồm trục Vũ trụ, các vòng xích đạo và kinh tuyến để quan sát thiên văn. Với Linh lung nghi, “ông thảo sát thiên tượng không việc gì không đúng”. Đặng Lộ còn đổi lịch Thụ thời (của nhà Nguyên) thành lịch Hiệp kỷ, một loại lịch Việt Nam.
Trần Nguyên Đán (1320-1390), ông ngoại Nguyễn Trãi. Trần Nguyên Đán rất thông thạo phép làm lịch. Ông đã soạn cuốn ‘Bách thế thông khảo’ (còn gọi ‘Bách thế thông kỷ thư’), khảo cứu những ngày nhật thực, nguyệt thực, thời tiết trong năm, triền độ các ngôi sao từ những thế kỷ trước Công nguyên đến thế kỷ thứ XIV.
Y HỌC
Trong các thành tựu khoa học – kỹ thuật của Việt Nam thời xưa, y học là lĩnh vực xuất sắc, không chỉ trên kinh nghiệm thực tế phòng chữa bệnh bằng nhiều phương pháp khác nhau mà cả trên bình diện lý luận. Điều này đã được ghi nhận trong nhiều tác phẩm y học, dược học của nước ta, tiêu biểu nhất là các công trình Tuệ Tĩnh, như Nam dược thần hiệu, Hồng Nghĩa giác tư y thư, và của Lê Hữu Trác, như Y tông tâm lĩnh. Với Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa giác tư y thư, Tuệ Tĩnh đã tập hợp lại thành những kinh nghiệm phòng bệnh, chữa bệnh của dân tộc qua ngót 200 chứng bệnh, ngót 400 bài thuốc, đồng thời đề cập những lý luận cơ bản về âm dương, ngũ hành, về kinh lạc, tạng phủ. Còn Lê Hữu Trác, bằng độ Y tông tâm lĩnh đồ sộ, ông đã tổng kết, ở một trình độ trác việt, nền y học cổ truyền dân tộc với tất cả tính khoa học sâu sắc, tính nhân đạo cao cả của nó. Tác phẩm của Lê Hữu Trác là một cái mốc lớn, đánh dấu bước phát triển cao về lý luận, về thực tiễn trong lịch sử y học Việt Nam từ thế kỷ thứ XIV đến thế kỷ thứ XVIII.
NÔNG HỌC
Một trong những thành tựu của nước Việt cổ đại đã được ghi nhận có ý nghĩa văn hóa nhân loại và kỹ thuật về lúa nước. Qua các nền văn hóa khảo cổ phát hiện được : hình bông lúa trên trống đồng, những lưỡi cày bằng đồng thau chứng minh từ hồi Hùng Vương xa xôi ở nước ta đã phát triển một nền nông nghiệp trồng lúa nước với kỹ thuật biết dùng cày. Theo một số thư tịch cổ, như Hậu Hán thư thì ở Việt Nam thế kỷ thứ I, phân bón đã được sử dụng, nông nghiệp đã thâm canh, lúa đã cấy hai mùa. Trung Tu Hóa – một nhà nghiên cứu người Trung Quốc trong bài viết những văn văn hóa phẩm từ Việt Nam truyền sang Trung Quốc, cho biết sách Tế dân yếu thuật (đời Bắc Ngụy, thế kỷ thứ VI) liệt kê được 30 loại thực vật đặc sản ở Việt Nam, có mặt ở Trung Quốc, trong đó lúa nước (thủy đạo) là lương thực chính. Trong nền nông nghiệp Việt Nam cổ đại, lĩnh vực sinh vật học cũng đã được quan tâm. Tổ tiên ta từ rất xưa đã sớm đặt vấn đề bào vệ cây cối, diệt trừ sâu bọ có hại bằng những biện pháp có tính chất sinh vật học, như dùng kiến để giết sâu phá hoại cam.
Tạ Ngọc Liễn