Trầm tư của một tên tội tử hình (thứ ba)
Trầm tư thứ ba – Về hoà bình
…..
Đạo Phật, muốn vươn lên để thành minh đạo, tất phải gặp nhiều vấn đề thuộc về xử thế, mà vấn đề trọng đại hơn hết là vạch lối cho tín đồ mình xử sự với chiến tranh, trong hai hình thức mới của nó: chiến tranh nguội ở từng địa phương và chiến tranh nóng ở khắp toàn thế giới. Tuy là hai song vốn là một: cả hai đều do sự phân hoá thế giới thành hai khối tương phản nhau và mỗi bên đều muốn biến cả thế giới theo khuôn mẫu của mình. Bây giờ chiến tranh không còn là sự tranh giành quyền lợi nữa, như nước thắng trận vừa rồi bỏ tiền của ra mà nuôi các nước đã thua. Mà bây giờ, chiến tranh trở nên sự dùng quân lực mà ép buộc nước khác theo thế lý tưởng của mình. Và như vậy, đối với kẻ bại trận, lý tưởng không ưa mà phải thờ, lý tưởng đáng mến yêu lại phải xa lìa, còn đối với cả đôi bên thì tang tóc, tàn phá, nghèo khổ, truỵ lạc… Đích thị chiến tranh, trong hình thức mới này, là cái khổ to hơn tất cái khổ khác mà Thích Ca Mâu Ni đã phác hoạ.
Sau trận đại chiến thế giới thứ nhất, thì đã bắt đầu, sau trận đại chiến thế giới thứ hai, thì phồn thịnh hơn, ở các xứ Âu châu, người ta khổ về chiến tranh và tổ chức lại thành đoàn thể để đề cao hoà bình. Lắm đoàn thể này trở nên những phong trào quốc tế và huy động được khá đông. Nó đã giác được cái khổ này trước hơn số đông của tín đồ đạo Phật, và sau mấy chục năm hoạt động, ắt có nhiều kinh nghiệm. Người xướng ra minh đạo, nếu tìm được lối giải thoát chung cho nhân loại khỏi cái khổ lớn này, ắt được hàng triệu những hưởng ứng, và nhờ đó minh đạo sẽ có một số người cảm tình rải rác khắp bốn phương trời.
° ° °
Đồng thời với cái khổ lớn này, xuất hiện những điều kiện để dập tắt nó: ấy là những phát minh về vi trùng học, về hoá học và nhất là về vật lý học. Những phát minh này giúp cho các cường quốc chế tạo được lắm thứ khí giới vô cùng lợi hại, gần như tuyệt đối, hễ tung ra thì giết chóc hàng triệu người, tàn phá trọn những thành phố rộng lớn, làm hại mùa màng và làm cuộc chiến tranh thế giới thứ ba có tính cách là kéo lui lịch sử loài người vài ba thế kỷ là ít.
Cái viễn đồ này làm cho lắm người giựt mình và những nhà cầm quyền các cường quốc phải suy nghĩ lại rất nhiều, trước khi quyết định dùng biện pháp quân sự để giải quyết sự tranh chấp với nhau. Đó là cái tâm trạng làm cho cái biện pháp ahima, mà Gandhi rút trong đạo Phật ra để chủ trương cuộc đấu tranh giải phóng cho Ấn Độ, được nhiều người nhắc tới khi phải xử sự với nhau trên trường quốc tế. Do đó mà nhiều người tin rằng cuộc chiến tranh nóng, toàn diện, bằng khí giới vi trùng, hoá học, nguyên tử và nhiệt hạch tâm (thermo-nucléaires) giữa khối Đông và khối Tây sẽ không thể nào xảy ra, vì cả đôi bên đều sợ sự tiêu huỷ. Nhưng kết luận này có hơi vội vã: sự khả hữu của chiến tranh thứ ba tuy có giảm bớt nhiều, song không phải là mất hắn. Loài người phải hoạt động nhiều lắm mới tránh được cái tàn phá tập thể này.
Bởi vì, và ở đây ai cũng phải đồng ý, từ hồi dứt chiến tranh thế giới thứ hai đến bây giờ, cuộc chiến tranh nguội không khi nào ngớt, cho đến đổi người ta quen với nó và cho nó là cái nếp sống hiển nhiên của thời này. Khởi lên là sự thức tỉnh của các thuộc địa cũ ở Á châu và Phi châu, đến khi các cuộc chiến tranh giải phóng này thành công, thì các nước mới ấy lần mò tìm con đường của mình. Chừng ấy, mỗi bên, Đông và Tây, đem cái lý tưởng mình mà quyến rũ, nội chiến bùng nổ, hai đại cường quốc đem binh tiếp viện cho phe mình: ấy là chiến tranh nguội đã hiện trọn hình của nó. Mà nếu cuộc chiến tranh nguội này làm nghiêng hẳn đòn cân lực lượng của đôi bên, thì ngòi lửa của chiến tranh nóng châm rồi: hai bên sẽ trực tiếp đánh nhau và thuyết ahimsa trở nên vô hiệu.
° ° °
Vậy thì, cái nguyên nhân của chiến tranh thế giới thứ ba là lý tưởng Đông Tây tương tranh, mà cái duyên khởi của nó là chiến tranh nguội ở mấy vùng mà hai bên tranh giành ảnh hưởng. Do sự nhận xét đó mà có nhiều người kèm cái thuyết trung lập cho các nước nhỏ vào cái chủ trương cộng tồn của hai khối lớn. Thuyết trung lập vì vậy mà phát triển mau lẹ và đã được thẩm xét trên thứ bực quốc tế trong Hội nghị Genève (1960).
Trung lập chế của các nước nhỏ là điều kiện tất yếu chớ chưa phải là điều kiện sung mãn: nó chỉ qui định sự bang giao của các nước này mà chẳng ảnh hưởng được lịch trình biến đổi ở trong. Do đó mà thỉnh thoảng, trong xứ ấy lại mất thăng bằng, nội chiến nổ bùng ra, đốt ngòi cho chiến tranh nguội nữa. Muốn tránh sự mất thăng bằng này, cần phải nghiên cứu lại vì sao mà nó có và phương pháp nào để tránh.
Những nước nhỏ thường là những nước hậu lạc, hoặc là những nước văn minh xưa mà trải qua mấy trăm năm đồi truỵ. Nó kém về đủ phương diện kinh tế, xã hội, chánh trị, văn hoá. So sánh ra, phần đông chỉ gần bằng các nước Âu châu khi vừa có cách mạng công nghiệp, và trong khoảng mấy chục năm phải rượt theo kịp khúc đường mà các nước ấy đã đi trong gần hai trăm năm. Để vượt tới với tốc độ này, khối Tây phương không bày cho họ được phương pháp nào, mà quần chúng của họ lại thấy gương nước Nga, nhờ phương pháp độc tài mà trong không đầu năm mươi năm, rượt theo kịp các cường quốc. Thế nên, mặc dù Nga không nhúng tay vào, như trong trường hợp nước Tàu, quần chúng này cũng tự động mà làm cách mạng. Ấy là nguyên nhân là mất thăng bằng. Huống chi Tàu, vì muốn tranh làm bá chủ với Nga trong một khối cộng sản, lại can thiệp một cách tích cực để thúc đẩy các cuộc cách mạng ấy.
Để tránh sự mất thăng bằng do biến thiên nội tại này, phương pháp không phải là dùng ngoại viện để đàn áp các phong trào dân chúng bằng quân sự và chánh trị. Làm như thế chỉ tổ chế dầu thêm cho chiến tranh nguội dễ nổ bùng ra mà thôi. Cái phương pháp phù hợp hơn hết là vạch cho quần chúng một lối tiến tới mau lẹ, thoả mãn được sự thèm khát đi mau của chúng, còn đem thêm cho chúng những điều mà chế độ cộng sản không sao cho họ được. Lối tiến tới ấy không phải là cái văn minh của Tây phương cung cấp được, mà cũng không thể bắt chước theo các nước cộng sản mà có được. Nó là đường lối ở giữa, thu nạp được cái hay của mỗi bên, rồi tài bồi thêm những sở kiến của mình. Ta gọi nó là “trung đạo”. Nó giúp cho các nước nhỏ giải thoát được nạn chiến tranh nguội, đồng thời giúp cho cả nhân loại xô dang ra xa cái hoạ chiến tranh thứ ba, cũng như cái trung đạo xưa của Thích Ca Mâu Ni giúp cho cá nhân giải thoát cái khổ nhỏ vậy.
° ° °
Trung đạo tách dang xa đường lối buông lung của tư bản chủ nghĩa, cái này làm cho bần phú cách biệt, kẻ nghèo làm vật bị bóc lột và áp bức của nhà giàu, làm cho bình đẳng và bác ái trở nên những tiếng trống rỗng, làm cho công bình mất hẳn, và do đó bao nhiêu bất bình nổi lên, gây xung đột, mầm móng của chiến tranh nội loạn. Trung đạo cũng tách dang xa đường lối độc tài chà đạp tự do và nhân phẩm của con người, ngăn đón sự phát triển của cá nhân về bề cao để san phẳng bề dưới. Vì vậy, mà đi ở giữa, trung đạo sẽ là một xã hội chủ nghĩa nhân đạo.
Bởi là nhân đạo, xã hội chủ nghĩa này không bóc lột thợ thuyền và nông dân tận xương tuỷ để tích luỹ theo lối sơ khai số tư sản cần thiết hầu kiến thiết kỹ nghệ một cách cấp tốc. Vã lại có kỹ nghệ nhiều thì nước chỉ mạnh về võ lực, mà bởi các thị trường thế giới đều đầy nghẹt hàng hoá rồi, sự kỹ nghệ hoá Á châu và Phi châu chưa phải là lối hay để giải quyết các khó khăn về kinh tế. Hiện nay nạn đói kém, nhất là ở Tàu và Ấn Độ, đương giày vò cả tỉ người, thì điều mà nhân loại đòi hỏi cấp bách hơn cả, là cuộc cách mạng nông nghiệp ở Á châu và Phi châu. Áp dụng đến triệt để máy móc trong nghề canh tác, áp dụng hoá học để làm cho mùa màng tăng lên gấp đôi gấp ba, áp dụng sinh vật để chọn lựa giống tốt hơn, áp dụng tất cả khoa học để chế tạo các đồ dùng từ nông sản, thêm vào sự khai thác những rừng hoang minh mông ở Đông Nam Á và Phi châu… đó là một chương trình cách mạng nông nghiệp sẽ tiêu thụ được bao nhiêu sản phẩm kỹ nghệ của Tây phương cũng như của Đông phương và sẽ cung cấp thức ăn cho bao nhiêu người đói kém cũng như nó sẽ làm giàu cho hàng tỉ khách hàng của các nước kỹ nghệ. Có số khách hàng này trước, sự kỹ nghệ hoá các nước Á Phi sẽ đi sau chẳng muộn. Ấy là, thay vì sự người bóc lột người, một sự tân khai thác thiên nhiên. Lấy vốn ở đâu mà chi phí cho cuộc cách mạng nông nghiệp này? Câu hỏi này là một cái thử thách cho thuyết viện trợ mà các cường quốc cao rao trong mười mấy năm nay. Nếu viện trợ mà không có ý nghĩa thầm kín nuôi cuộc chiến tranh nguội, thì đây là dịp để viện trợ cho các nước yếu đó.
Tiến tới trong con đường của xã hội chủ nghĩa nhân đạo thì tất nhiên nhẹ về oai trị bằng quân đội, công an, cảnh sát mà nặng nề về đức trị bằng luân lý và đạo đức. Vậy cần một văn minh tu sĩ để rèn luyện, uốn nắn, hun đúc người cho càng ngày cao quí đẹp đẽ hơn. Cái văn minh tu sĩ này cũng tuyển trạch giùm cho xã hội những cán bộ chánh trị, kinh tế. Các tăng già xưa, sống bằng khất thực như trong Phật giáo tiểu thặng, sống bằng tự sức mình làm như trong Phật giáo đại thặng, không thể cung cấp các loại cán bộ này được. Phải có những cán bộ mới, lấy sự sáng suốt mà mình nuôi sống mình đồng thời dìu dắt cho quần chúng sống nữa. Một cán bộ là một tu sĩ thêm một chuyên môn, chừng ấy đạo và đời nhất thống rồi, đạo ấy mới thật là xử thế. Đã có lúc tăng già đảm bảo được sự giáo huấn và nền y tế của nhiều nước ở Á châu, thì cũng đến lúc cái tăng già mới của minh đạo cung cấp được cán bộ cho mọi ngành hoạt động.
° ° °
Điều cốt yếu là nhịp phát triển kinh tế đo bằng mức sống trung bình của dân chúng và sức sản xuất theo đầu người, và nhịp phát triển của xã hội chủ nghĩa của những nước theo trung đạo đây phải được mau lẹ hơn của những xứ tương đương bên phía cộng sản. Thiếu điều kiện này, quần chúng ắt bị phương pháp độc tài thu hút mà mầm nổi loạn không dập được.
Điều nên cố gắng kế đó là tận dụng những tự do, do sự nhân đạo đảm bảo, mà thu nhập những cái hay về khoa học, về văn chương, về nghệ thuật của cả đôi bên Đông Tây mà làm một cuộc tập đại thành, để xây dựng một cái văn hoá mới. Có cuộc cách mạng văn hoá này, những nước theo trung đạo mới quyến rũ người lại, những phần tử bên Đông cũng như bên Tây, theo đường lối của mình.
Việc thứ ba là năng gặp gỡ nhau, cũng như ở Bandoeng, để vạch một đường lối chung về chánh trị ngoại giao quốc tế mà chủ đích là tránh nạn chiến tranh nguội và chiến tranh nóng, để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau và để giúp đỡ lẫn nhau. Trong việc giúp đỡ này, phần quan trọng hơn hết là thoả thuận một chương trình di cư, để cho những nước rộng đất mà thưa dân mở cửa đón rước số người thặng dư ở các nơi có hoạ nhân mãn và đói lạnh. Kế đến là việc trao đổi cán bộ trong mọi ngành hoạt động, những cán bộ len lỏi trong dân gian được và ít đòi hỏi như các cán bộ do sự viện trợ hiện hành.
Nếu có nhiều nước nhỏ như vậy mà ở chung một vùng, như những nước nhỏ ở Đông Nam Á, nhiều nước ở Phi châu, thì nên tổ chức lại thành Tổng liên bang, để xây những viên đá đầu của cái xã hội đại đồng. Được nhiều cái tổng liên bang trung lập như vậy thì cái viễn đồ đặt thế giới trên thế chân vạc mới có cơ thành tựu được.
Chiến tranh nội loạn ở các xứ nhỏ dứt, thì chiến tranh nguội không có cơ khởi nhúm lên được. Chiến tranh nguội không nhúm lên được, thì sự tương tranh giữa hai khối Đông Tây có thể gom về hình thứ đơn giản hơn hết của nó là thử thách với lịch sử coi chế độ nào thích ứng hơn mà tồn tại. Để gom như vậy, cần phải thuận ước nhiều điều như là sự không dùng tinh lực nguyên tử để chế khí giới, tài giảm binh bị và hạ bớt ngân sách chiến tranh, giải quyết ổn thoả một số vấn đề làm cho đôi bên găng nhau, tôn trọng trung lập chế của các nước nhỏ… Những bước đầu này khai mào cho những thi thố có tính cách bền vững hơn, như là giảm bớt chủ quyền của các cường quốc và nhượng một mớ quyền hạn cho Liên hiệp quốc, khoáng đại, để đi tới một chính phủ liên bang thế giới gồm có sự giải tán các quân đội quốc gia, để thay thế bằng một đội quân cảnh sát quốc tế, lập những cơ quan quốc tế để thi hành những kế hoạch tài chánh, kỹ nghệ, nông nghiệp, văn hoá chung cho cả loài người.
Chừng nào đến thế giới đại đồng rồi thì mới hết sợ hoạ chiến tranh và loài người mới bước vào ngưỡng cửa của một ngươn thanh bình.
° ° °
May mắn cho cả loài người, nếu có thể tránh được nạn chiến tranh thế giới thứ ba. Như vậy nó sẽ khỏi bị bắt buộc đi lại khoảng đường đôi ba thế kỷ mà sự tàn phá xô lùi nó trở lại. Trong cái giả thiết mà một đôi nơi nhen nhúm được mầm mống của trung đạo và như vậy lách mình ra ngoài cuộc binh lửa, thì rủi có chiến tranh thứ ba nổ ra, sau cuộc chém giết và tàn phá rồi, những mầm mống ấy sẽ là những nơi nhen nhúm cho cái văn minh mới. Mấy dân tộc ấy sẽ dẫn đầu loài người trong một hai trăm năm và văn minh nọ sẽ lan tràn khắp địa cầu. Rủi hơn hết là minh đạo chưa xuất hiện, mà thế giới đại chiến đã nổ bùng, đâu đâu đều chịu cảnh tang tóc và tàn phá chung, thì một khi chiến tranh dứt rồi, cái ý bây giờ mới gieo ra, chừng ấy mới tràn lan ra được. Bởi nghĩ như vậy mà tôi mới viết bài trầm tư này.
Khi trầm tư, tôi muốn áp dụng lối tư duy của Phật vào một vấn đề mới, đem tứ thánh để làm khuôn, để dắt vào đó vấn đề chiến tranh và hoà bình của thời đại này. Tôi thấy cả hai đường lối của Đông phương và của Tây phương, đều đi ngang qua chiến tranh mới đến cái hoà bình trong ấy mình độc chiếm thế giới. Đường lối thứ ba, cái trung đạo, lấy hoà bình làm mục đích và cũng làm phương tiện, hạp với từ bi và bác ái mà cũng hạp với cao vọng của phần đông các tôn giáo, và vạch thuyết ahima một lối đi hợp lý. Làm như thế, trong đám rừng hình như thượng học, nó không cho mọc chen một cây nào mới để giành chỗ với những cội cũ. Nó không giành phần nắm chân lý với một tôn giáo nào hiện hành. Đặt một vấn đề nhận thật một cái khổ, rồi tìm phương giải thoát nhân loại khỏi cái khổ ấy, minh đạo sẽ có thể đồng minh với nhiều tôn giáo, nhiều phong trào hoà bình đang lan tràn khắp thế giới. Nó có tràn lan mau lẹ chăng là nhờ len lỏi theo lối ấy. Nhưng như thế, lắm phần hình như thượng trong Phật pháp cần phải chỉnh lại. Đó là sứ mạng của người khai đạo, của Maitreya thời nay. Thích Ca Mâu Ni thường ví cái pháp mình như cái bè để đưa người sang bờ bên kia. Hai ngàn năm trăm năm qua, bây giờ không còn chỉ vượt qua một con sông mà cần đưa cả loài người vượt qua cái biển cả đầy sóng to gió lớn. Nếu Maitreya tìm được phương pháp nào thích ứng cho trọng trách mới thì Thích Ca Mâu Ni là người hoan nghinh trước nhất. Nhưng một Maitreya có thể đem hoà bình lại chăng? Hay là hoà bình phải do tất cả loài người cố gắng mới đến được?
Đối với cái khổ tập thể, chỉ có lối giải thoát tập thể mà thôi.
Côn Sơn, tháng Chín 1962