TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ VÀ GIÁ TRỊ VỚI VIỆT NAM
S.T.
Nho Học đề cao vai trò của văn hoá giáo dục, coi giáo dục học vấn là con đường quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển và làm nên bản sắc con người. Mặc dù những quan điểm của Khổng Tử về mục đích, chủ trương, nội dung, phương pháp được Ông đưa ra cách đây 25 thế kỷ nhưng hiện nay nó vẫn mang ý nghĩa thời sự.
Hiện nay, khi cánh cửa của nền kinh tế Tri Thức đang mở ra, hướng nhân loại vào kỷ nguyên khoa học và công nghệ, khi mà việc học tập thường xuyên, suốt đời trở thành hiện thực, việc nghiên cứu những quan điểm giáo dục của Khổng Tử là vấn đề hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đối với Việt Nam.
1. Sơ lược về cuộc đời của Khổng Tử:
Khổng Tử (551-479TCN) tên là Khâu, tự là Trọng Ni, ông là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Quốc cổ đại. Tổ tiên Khổng Tử là người nước Tống dời sang nước Lỗ. Ông được sinh ra ở nước Lỗ – nơi bảo tồn nhiều di sản văn hoá nhà Chu.
Khổng Tử được 3 tuổi thì bố mất. Là người thông minh, lớn lên trong thời loạn lạc, các nước chư hầu luôn gây họa binh đao, tranh giành quyền bính, chiến tranh liên miên hàng thế kỷ khiến trăm họ lầm than, điêu đứng, Khổng Tử ôm mộng kinh bang, tế thế, lập trí giúp nước, cứu đời, thực thi những hoài bão của mình. Song tới năm 35 tuổi, Khổng Tử không được vua các nước chư hầu tin dùng nên bèn về quê hương mở trường dạy học theo đúng lẽ xuất xử của bậc đại quân tử “Tiến vi quan, thối vi sư”. Học trò khắp nơi đến theo học. Họ kính cẩn gọi Ông là Tiên Sư, học trò của Ông đã có lúc lên đến 3000 người, trong đó có 72 người nổi tiếng trong lịch sử (thất thập nhị hiền), đây thật là một con số hiếm thấy trong lịch sử giáo dục thời cổ đại. Khổng Tử có 4 năm làm quan tại nước Lỗ với các chức vụ: Đại tư khấu, Nhiếp tướng sự. Nhưng vua nước Lỗ hoang dâm, mê đắm tửu sắc, không màng tới chính sự. Từ đó Khổng Tử đã nhìn thấy kết cục chẳng có gì tốt đẹp ở nhà vua, cho nên, Ông xin từ quan về quê dạy học và toàn tâm nghiên cứu, xác định lại các loại sách đời trước và viết bộ Xuân Thu nổi tiếng.
2. Tư tưởng giáo dục của Khổng Tử:
Hạt nhân tư tưởng mà Khổng Tử đề xướng và truyền bá trong các lớp môn sinh là “NHÂN”, chữ Nhân theo quan niệm của Ông mang một ý nghĩa rộng lớn, gắn bó chặt chẽ với ĐẠO – Đạo Đức – lòng yêu thương con người, yêu thương vạn vật. Theo Khổng Tử, gốc của Nhân là hiếu đễ lễ nghĩa, trung thực vị tha, xã thân cứu người như chính Khổng Tử đã nói: “Theo ta, người có đức Nhân là: Bản thân mình muốn đứng vững trong cuộc sống thì phải giúp người khác đứng vững trong cuộc sống. Mọi việc đều có thể từ mình mà nghĩ đến người khác, có thể nói đó là biện pháp thực hiện điều Nhân”. (Luận Ngữ-Ung dã). Nhân theo Khổng Tử còn là: “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Để thực hiện được Nhân, Khổng Tử cho rằng con người phải có Lễ. Lễ là các quy phạm đạo đức hợp thành một hệ thống qui tắc xử thế. Trong suốt cuộc đời làmThầy của mình, bên cạnh dạy chữ, bao giờ Khổng Tử cũng chú trọng vào dạy người, ở đây đề cao thuyết Đức trị.
Phần Học thuyết mà nội dung được Khổng Tử áp dụng vào lãnh vực giáo dục , mang tính nhập thế và tích cực, Ông đề xướng “thuyết Tôn Hiền”. Những tư tưởng ấy của Khổng Tử trong bối cảnh rối ren của xã hội đương thời rất khó thực hiện, song đó là những quan điểm có giá trị được thế hệ sau kế thừa, phát triển và đến nay vẫn còn đáng trân trọng về chủ trương, nội dung và cả phương pháp giáo dục.
2.1 Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử: là đào tạo, bồi dưỡng người “Nhân”, “Quân Tử” để làm quan, điều hòa mâu thuẫn giai cấp, “khôi phục lễ nghĩa” trong xã hội đầy rối ren. Xét về mặt chính trị về cơ bản có vẻ bảo thủ, , nhưng về giáo dục thì mang tính tiến bộ và vượt thời đại.
Theo Khổng Tử, học để làm người Quân Tử với chí khí của bậc Đại Trượng Phu – hình mẫu của con người trong xã hội phong kiến. Người quân tử trước hết phải tu dưỡng đạo đức thì mới có thể làm việc lớn (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ). Khổng Tử quan niệm: “người quân tử ăn không được đầy đủ, ở không được yên vui, làm việc siêng năng và thận trọng với lời nói, tìm người đạo đức để sửa mình; như vậy mới được coi là người ham học”. Khổng Tử không chỉ quan tâm đến việc nuôi dân, dưỡng dân mà còn quan tâm đến việc giáo hóa dân. Nuôi dân, dưỡng dân là chăm lo về đời sống vật chất, giáo dân là lo cho dân về đời sống tinh thần. Với quan điểm này, giáo dục góp phần làm nên bản chất xã hội của con người. Với mục đích giáo dục này, Khổng Tử đã thể hiện tư tưởng vượt thời đại :một xã hội muốn phát triển vững mạnh phải có con người đủ Đức, đủ Tài.
Tuy nhiên, mục đích giáo dục của Khổng Tử còn là nhằm thực hiện mục đích chính trị của Nho gia, là thể hiện tư tưởng Thân Dân của nhà cầm quyền. Bởi vì người làm quan có giáo dục sẽ hiểu được chức phận của mình không làm điều hại dân, ngưòi dân có giáo dục sẽ hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi của mình để thực hiện.
2.2. Chủ trương giáo dục của Khổng Tử: là Bình Dân giáo dục, đây là chủ trương tiến bộ trong bối cảnh lịch sử bấy giờ.
Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử chủ trương “hữu giáo vô loại”, bầt cứ ai chỉ cần “đem cho thầy một bó nem” là ông đều nhận làm học trò, không phân biệt giai cấp, quý tiện, sang hèn. Tư tưởng này được học trò, Mạnh Tử kế thừa và phát huy đường lối bình dân giáo dục của Khổng Tử trên phạm vi quảng đại, với các hình thức đa dạng. Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử chủ trương hình thành một mạng lưới trường công từ làng đến kinh đô, từ trường hương học đến trường quốc học, đó là trường, tự, học, hiệu để giáo hóa dân chúng. Hệ thống trường học mở rộng theo quan niệm của Mạnh Tử là điều kiện, là biện pháp thiết thực để bình dân giáo dục. “Nếu từ đô ấp đến chỗ châu huyện đều đặt nhà học, để cho từ con vua trở xuống đến con nhà sĩ và thứ dân đều đi học cả, thì độ mười năm sau, trên biết bảo dưới, dưới biết cách thờ trên”. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nho gia vì không chỉ biểu hiện tư tưởng thân dân mà còn làm cho dân đổi mới.
2.3. Nội dung giáo dục của Khổng Tử:
Nội dung giáo dục luân lý đạo đức của Khổng Tử được thể hiện trong “Luận ngữ”. “Luận ngữ” chủ trương rèn luyện tính Thiện cho dân bằng phương pháp “cất nhắc người tốt, dạy dỗ người không tốt thì dân khuyên nhau làm điều thiện”. Mục đích giáo dục còn thể hiện cho dân không làm điều ác, không phạm tội. Nếu không giáo hóa dân, để dân phạm tội rồi giết, như vậy tàn ngược. Với quyết định này, thì trước hết phải dạy cho dân biết điều thiện, ác để mà thực thi.
Bên cạnh giáo dục đạo đức, chúng ta có thể suy thấy nội dung dạy học của ông gồm 4 mặt: “những kẻ theo ta ở nước Trần, nước Sái nay đều không đến trường cùa ta nữa. Môn đức hạnh: thì có Nhan Uyên, Mẫu Tử – Khiên, Nhiễm Bá – Ngưu, Trọng Cung; khoa ngôn ngữ: thì có Tể Ngã, Tử Cống ; môn chính trị, thì có Nhiễm Hữu, Qúy Lộ; môn văn học: thì có Tử Du, Tử Hạ”. Ở đây Khổng Tử chưa hẳn phân ngành để dạy, nhưng trên thực tế thì có 4 nội dung đó, và biết phân biệt ra 4 mặt như vậy mà dạy, “tùy tính chất mà dạy”, thì quả thật đây là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử giáo dục mà đến nay còn nguyên giá trị. Chính công việc truyền dạy của Ông đã có tác dụng tích cực rất lớn đối với lịch sử văn hóa.
Nội dung giáo dục của Khổng Tử bao gồm những chủ trương nhắm vào việc phục vụ quan điểm chính trị, cũng như vào việc cải tạo xã hội đương thời. Ông tuyệt nhiên không phải dạy “văn học”, dạy “ngôn ngữ”. Khổng Tử rất coi trọng việc học Kinh Thi, không học Kinh Thi thì không biết gì để nói. Theo Khổng Tử, Kinh Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể làm cho ta đoàn kết, có thể làm cho ta biết căm thù, gần thì để thờ cha mẹ, xa thì thờ vua, nhưng căn bản là bồi dưỡng đức hạnh, kiến thức, để “thờ cha”, “thờ vua”.
Ngoài ra, nội dung giáo dục của Khổng Tử còn thể hiện trong việc giáo hóa huấn luyện kỹ năng thực hành cho dân. Khổng Tử cho rằng “Bậc thiện dạy dân bảy năm thì có thể dùng dân vào việc chiến đấu được”, “đưa dân không được dạy dỗ ra đánh giặc, tức là bỏ dân”. Quan điểm này thể hiện trong quan niệm của Khổng Tử ít nhiều quý trọng sinh mệnh con người, dù đó là tính mạng của thứ dân bách tính tầm thường. Nguyễn Hiến Lê cho rằng: dạy dân tới bảy năm mới đưa ra trận, cổ kim chưa thấy bao giờ. Quả đúng như vậy! Sau bảy năm người dân được giáo hóa rèn luyện, sẵn sàng xông pha nơi trận mạc, liều chết với giặc để giữ nước.
2.4. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử:
Về mặt phương pháp dạy học, Ông có một số quan điểm cá biệt có tính cách Thực Tiễn Tiến Bộ,vượt thời gian đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự trong việc dạy học và cách tổ chức thi cử ở nước ta hiện nay. Phương pháp giáo dục của Khổng Tử thể hiện:
Thứ nhất, học như thế nào?
Theo Khổng Tử người học phải có nhu cầu nhận thức, ham hiểu biết, khám phá cái mới; phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình nhận thức. Người dạy không chỉ truyền đạt tri thức mà cái cơ bản là dạy năng lực sáng tạo, dạy phương pháp để người học tự tìm đến tri thức. Ông nói: “kẻ nào không cố công tìm kiếm, ta chẳng chỉ vẽ. Kẻ nào không bộc lộ tư tưởng của mình, ta chẳng khai sáng cho. Kẻ nào ta dạy mà không biết hay ta chẳng dạy”. Trong quá trình học, Khổng Tử bắt học trò phải suy nghĩ, “học không suy nghĩ thì vô ích. Suy tư mà không học thì kết quả cũng chỉ bằng không” (Luận Ngữ}
Ngoài ra, Khổng Tử còn đề cao việc ứng dụng vào cuộc sống những điều đã học. Ông nói: “Như có ai đã đọc thuộc hết ba trăm thiên trong Kinh Thi, được bậc quốc trưởng trao quyền hành chính cho mình, nhưng cai trị chẳng xuôi; được phái đi sứ đến các nước ở bốn phương, nhưng tự mình chẳng có tài ứng đối, người ấy dẫu học nhiều cũng trở nên vô ích” (Luận Ngữ, Tử Lộ)
Thứ hai, thái độ của người học và người dạy:
Đối với người học:
Theo Khổng Tử, ngoài học Thầy, học trong sách vở còn học cả trong cuộc sống “ba người cùng đi, tất có người làm thầy; lựa cái hay của người này mà học, xét cái quấy của người kia mà tự sửa mình”, tư tưởng này rất tiến bộ. Chúng ta có thể học mọi lúc, mọi nơi, mọi người trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đặc biệt, Khổng Tử coi trọng nguyên tắc làm gương. tập cho mọi người và những hình thức học tập thường xuyên”.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, khoa học kỹ thuật công nghệ luôn luôn thay đổi. Do đó, nếu ta thụ động, không tiếp thu tri thức thì sẽ lạc hậu và không theo kịp xu hướng phát triển của thời đại. Vì vậy ta phải luôn học tập, trao dồi kiến thức trong mọi hoàn cảnh.
Đối với người dạy:
Theo Khổng Tử “học không biết chán, dạy người không mỏi mệt” – thái độ dạy học ấy rất tiến bộ hợp cho mọi thời đại. Ngoài ra, Khổng Tử đặt ra rất nhiều yêu cầu khắt khe đòi hỏi sự nỗ lực của người học đi theo hướng của thầy đã vạch ra. Về đòi hỏi này, thông thường trong khi dạy, Khổng Tử giảng giải từng bước một, trả lời những câu hỏi từng bước, từ chung chung đến cụ thể tuỳ theo sự hiểu biết của người học. Chính điều này đã phát huy được khả năng suy lý của mình như lời bình trong “Lễ ký” viết: “Thầy dạy chỉ thúc đẩy, chỉ mở lối soi đường nhưng sự không bức bách, không dẫn dắt đến cùng ấy lại làm cho học trò thư thái và biết nghĩ suy”.
Ngoài ra, Khổng Tử đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp của người học để nắm những phần quan trọng nhất của các vấn đề đặt ra. Lời giảng: “Này, Tứ, sự thông suốt mọi nhẽ của ta chẳng phải ở chỗ ta học nhiều mà ở chỗ ta để tâm tìm ra đầu mối”, không phải dành riêng cho Tử Cống mà là yêu cầu đối với tất cả những ai muốn “thông suốt mọi nhẽ như Ông”. Ngoài ra, Ông còn đòi hỏi sự kết hợp giữa Học và Hành, giữa tri thức và thực tiễn như đòi hỏi việc vận dụng ba trăm thiên trong Kinh Thi, với việc hành chính và việc của người đi sứ.
Tất cả những phương pháp giáo dục của Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị trong việc dạy và học ở nước ta hiện nay.
Kết luận
Có thể nói rằng, chủ trương, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục của Khổng Tử thể hiện tư tưởng “Thân Dân” và “Tân Dân” đậm nét.
Không có một dân tộc nào có thể phát triển khi họ xem thường Truyền Thống của mình. Chính cái truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại sẽ tạo tiền đề cho quá trình phát triển của dân tộc ấy trong tương lai. Kết hợp giữa Truyền Thống và Hiện Đại là nét đặc trưng nổi bật tạo nên những giá trị của nền văn hóa, nền giáo dục của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
Việt Nam bên cạnh những tiến bộ mà giáo dục đã đạt được, giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập mà đáng quan tâm nhất là chất lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp, đặc biệt ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Trong ba nhiệm vụ “dạy chữ”, “dạy nghề” và “dạy người”, mới tập trung vào dạy chữ, chưa chú ý đầy đủ tới dạy người. Một số biểu hiện tiêu cực như: thiếu kỷ cương, chất lượng còn thấp; nội dung, phương pháp dạy học còn lạc hậu; các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục còn nhiều,… Văn kiện đại hội XI chỉ rõ: “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu…. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập. Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”. Chính những điều này đã đặt trên vai ngành giáo dục ở nước ta một trọng trách lớn của thời đại. Ngành giáo dục chúng ta cần xác định được những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp hữu hiệu, nhằm đào tạo nguồn nhân lực có số lượng và chất lượng tốt, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc’.
S.T.