VIỆT ĐẠO THÁI HÒA
Đông Lan
.D
Hôm nay, một lần nữa, chúng ta lại nghe đề cập về những vấn đề hoà giải hay hòa hợp. Khi xưa chiến tranh, Cộng sản tung chiêu bài hoà hợp, hoà giải dân tộc để lung lạc tinh thần chiến đấu của miền Nam. Nhưng tại miền Bắc, Cộng sản lại hô hào, cổ suý chiến tranh với chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vượt Trường Sơn “ giải phóng miền Nam”. Ngày nay, khi hơn 3 triệu dân Việt phải rời bỏ quê hương tỵ nạn Cộng sản khắp nơi, một số chủ trương chính trị của phía quốc gia lại cổ võ cho “hoà hợp, hòa giải”. Những nạn nhân cộng sản không chấp nhận chủ trương hoà hợp, hòa giải này thì bị nhìn như loại háo chiến, không thức thời. Dĩ nhiên, không bỏ lỡ cơ hội đánh đổ lần chót ý thức phản kháng, tại hải ngoại, Cộng sản lại dùng phương tiện hoà hợp, hòa giải để xoa dịu chống đối hầu làm lợi cho chế độ của họ. Ngược lại, trong nước, Cộng sản dùng bạo lực trấn áp và tiêu diệt mọi đối kháng chính trị. Như thế, ta thấy, cộng sản luôn dùng mọi thủ đoạn KHÁC NHAU, mọi HÌNH THỨC khác biệt, nhưng để đạt mục đích duy nhất: NHUỘM ĐỎ quê hương , và rõ rệt hơn nữa là để TRỤC LỢI cho cá nhân, đảng phái cầm quyền. Dĩ nhiên chúng ta cũng cần bỏ trong ngoặc ở đây, thành phần “cơ hội chủ nghĩa”, hoặc “trí thức nửa vời” xử dụng cụm từ “hòa hợp, hòa giải”, dù vô ý thức, cũng đồng tình làm lợi cho cộng sản.
Về phương diện văn hoá, Cộng sản cũng vẫn trá ngụy. Một mặt xử dụng các công trình nghiên cứu mới của các học giả, nhất là về lãnh vực khảo cổ, tư tưởng…để làm ra vẻ ta đây cũng theo mới, về nguồn Việt, đồng thời lại BẺ QUẶT Văn Hoá Dân Tộc về chiều hướng Cộng sản, để người Việt bị LẠC ĐƯỜNG khi muốn trở về nguồn, và MẤT ẤN TÍCH để kiểm chứng thực hư, chân giả khi muốn nhận định bàn chân đế của lịch sử. Như việc cắt bỏ lịch sử lập quốc 5000 năm của Dân tộc Việt – Chỉ nhận thời điểm lập quốc từ 2700 năm, bắt học sinh các cấp học cuốn “ Lịch Sử Việt Nam” do nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà nội xuất bản năm 1985, của các sử gia soạn trong nhãn quan duy vật và duy lý- Điều mà chính các ngành khoa học mới nhất như tân nhân văn, cơ cấu, khảo cổ… với những công trình nổi tiếng quốc tế hiện nay đang trả lại giá trị về sự thật lịch sử 5000 năm ấy. Hay việc viết sách trên đại học về bản sắc văn hóa Việt Nam nhưng lại dẫn dắt đến việc khoác áo “ Nho gia, Lão -Trang” cho Hồ Chí Minh chẳng hạn, để tiếp tục chế biến chất liệu cộng sản thành món hàng “mạo hoá” cho dân tộc chúng ta.
Ngày hôm nay, may mắn thay, nơi mảnh đất tạm dung này, với cái thoáng mát TỰ DO –một điều kiện sinh dưỡng cho Văn Hoá Chân Thực – chúng ta được thong thả và thanh bình hơn bao đồng bào tại quê nhà, hầu có thể tìm hiểu Văn Hoá Quê Hương, nghiên cứu bản sắc Việt để làm thành tấm gương chiếu các con yêu vong bản, để nhận diện chính Việt Tính của mình, để không bị bất cứ hình thức tuyên truyền, thủ đoạn chính trị phản dân, hại nước, mất gốc nào lường gạt nữa. Nhất là, cũng giúp cho thế hệ trẻ và tương lai, một Định Hướng cho việc thẩm định các giá trị trên căn bản Văn Hóa Dân Tộc.
…..Dân tộc ta có tư tưởng và văn hoá rất sớm, khoa khảo cổ với các căn cứ khoa học mới nhất như sự đo độ phóng xạ của Carbon 14 , khoa sinh hoá di truyền học với các chỉ số biến thiên đã xác nhận được niên đại , minh chứng rằng Tổ Tiên Việt Tộc là sắc dân cổ nhất ở Đông Nam Á. Và từ ít nhất là 5000 năm trước đây, Việt Tộc đã dẫn đầu văn minh nông nghiệp tại miền Đông Nam Á , thuần hoá cây lúa nước, chế tạo dụng cụ, chăn nuôi, làm nhà, dệt vải…có đời sống ổn định sớm, và phát triển rực rỡ với nền văn minh trống đồng đã được các học giả quốc tế thừa nhận . Đường về Văn Hóa Dân Tộc có thể tìm nơi dấu chỉ trống đồng Đông Sơn. Mặt trời ở trung tâm mặt trống chiếu chói chang các tia nắng sinh dưỡng vạn vật. Con người cài lông chim ca vũ vang trời, giã gạo bằng chầy để gọi nhau vui chơi, theo hướng về phía Trái huyền nhiệm từ xa xưa, dấu chỉ của dòng Việt tộc. Một vòng chim, nai, những thú vật hiền hòa bé nhỏ cũng được tham dự chung với cuộc lễ hội trên trống đồng. Trống Đồng Đông Sơn là nghệ thuật của nền Minh triết Thái Hòa: Hòa Trời, Hòa Đất , Hòa Người. Từ những thưở xa xưa,
HÒA là Kinh Không Lời của Việt Tộc.
Minh Triết Trống Đồng : Mặt Trời là tầng Thiên Sinh, Chim Muông là tầng Địa Dưỡng. Con Người ở giữa sống trong cảnh Trời Che, Đất Chở nên được An Vui, Thái Hòa.
Trên mặt trống ta mới chỉ thấy Tiên được biểu thị bằng cả một rừng chim. Nhưng xem đến tang (thành) trống, ta mới thấy thuyền được nhập thể vào rồng một cách sống động.Thuyền có sức sinh động của rồng, có chân thay mái chèo, rồi có chim Tiên lao vào miệng Rồng để tạo thành Thuyền Tình Bể Ái Tiên Rồng, Tiên chim bay trên trời và Rồng ở dưới thủy phủ đều kết hợp được. Đây là dấu chỉ của đường về Việt Đạo nơi sự hợp nhất Tiên – Rồng Tính, bản thể mâu thuẫn bất khả phân ly của VIỆT ĐẠO THÁI HÒA.
Dấu Chỉ Thái Hòa
Hình Tiên Rồng trên tang trống đồng: Tất cả các mâu thuẫn
hóa công đã giải quyết ngầm trên họa đồ Tiên Rồng Hội Ngộ.
Tâm Thức
Lưỡng Hợp Thái Hòa
trong tinh thần ca vũ
trên mặt trồng đồng
Nam nữ hát đối đáp, giao tay chân gọi là “ cài hoa kết hoa” hay hát Lý Liên sau này. Với trình độ tâm thức Lưỡng Hợp, Thái Hòa nơi nghệ thuật điêu khắc trên Trống đồng, ta còn thấy đầy khắp các hình cặp đôi, như một chim trống với một chim mái, một chim đứng với một chim bay, một chim đuôi dài với một đuôi ngắn…Tất cả rộn ràng trong một cuộc đại vũ điệu hòa hợp trời, đất, người, nam nữ, trống mái…hồn nhiên, thanh thóat, an lạc ca hát múa nhịp bên nhau. Thiên nhiên, con người, vạn vật như đã hòa làm một bức tranh đồng nhất thể của linh hồn Việt qua nghệ thuật trống đồng.
Bản Chất Thái Hòa của Việt Đạo còn được nhận rõ nơi các Huyền Sử xa xưa mang đặc tính Lưỡng Hợp.
Thật thế, cũng phù hợp với thời điểm ấy, từ 5000 năm lập quốc, qua các truyện thời các vua Hùng, Dân tộc Việt còn có cả một kho tàng các truyện tích ý nghĩa sâu xa, ẩn chứa một nền đạo lý thâm thuý. Mở đầu kho tàng huyền sử ấy là truyện Hồng Bàng mà chắc chắn ai là người Việt cũng còn ghi nhớ: Truyền rằng chúng ta là CON RỒNG CHÁU TIÊN. Rồng Tiên dĩ nhiên không bao giờ có thật nơi hình tích cụ thể, là hình ảnh chỉ có trong trí tưởng tượng của con người, chắc Tổ Tiên muốn gửi gấm những ý nghĩa gì nơi sự tưởng tượng đó. Do đó, chắc chắn Rồng Tiên chỉ là thứ biểu tượng, và lời giải Huyền sử Rồng Tiên cũng phải tuân theo quy luật của nó: Phải mông lung, huyền nhiệm, đạo lý sáng soi cho tới đáy thẳm tâm hồn, chiếu rọi cho tới tận cùng lý sự và vạn vật. Phải đi ra ngoài sáu cõi đông tây nam bắc thượng hạ cũng còn ngọn trăng huyền diệu dõi soi, mà dẫu thu trở về trung tâm vi tế của cõi lòng cũng vẫn thấy đâu đó vầng trăng chân lý quán chiếu. Ôi, Huyền là diệu huyền, cái trộn lẫn hoà tan mọi phân ly của cuộc đời trong Lý của Đạo nhiệm mầu. Huyền Sử chính là cái nền của sử, là cái căn tính của mọi diễn biến thời gian, là bản chất của mọi hiện tượng. Huyền sử là câu chuyện sống đời, đan kết quy luật vĩnh hằng trong cuộc tử sinh. Do đó, Huyền sử Tiên Rồng sẽ mãi được là biểu tượng của VIỆT TÍNH, cái tính ngàn đời của Dân Việt, cái sắt son của nòi giống, cái bản chất, gốc rễ của Việt Đạo, mặc cho bao tai biến, thăng trầm. Nơi cõi Huyền Sử, cõi vô bến bờ của Tâm và của Linh, sử không còn quan trọng, sử chỉ còn là cái bóng của Thực Tại. Phải vượt qua cái nghèo nàn, câm nín của sử, để mở rộng đáy hồn của tự thức huyền nhiệm viễn mơ vượt thời không thì mới tiếp nhận được cái Tinh Anh của Tổ Tiên, di chúc khi không còn thể phách: Chân Trời Huyền Sử Việt.
Chuyện kể rằng Rồng Tiên sớm ly biệt. Vì đâu mà ly biệt? Chuyện cũng nhiều lời rằng, vì phương viên xung khắc, thuỷ hoả bất đồng…Đó là “chuyện kể”, có nghĩa rằng cứ tạm cho là như thế. Nghiã là thật ra có thể khác. Biểu tượng là phải đi xa hơn cái thực tại, để tìm cho ra cái ý không trong ý, lời không trong lời, tìm cho ra cái ý nghĩa ẩn tàng trong ngôn từ vi diệu. Biểu tượng là phải từ bỏ cái thô sơ đã hiển hiện nơi sự việc, hầu tìm cho được cái tinh tế, cái ĐẠO LÝ của mạch nguồn sự việc .
Rồng Tiên sớm ly biệt như đời sống luôn nhiều tranh chấp, khác biệt, mâu thuẫn. Vì sao ta thấy đời toàn là trái ngang, mâu thuẫn trong tất cả mọi sự và việc? Có sanh ra thì lại có chết đi. Có kết hợp thì cũng có chia cách. Trời đất có sáng tối, nam nữ, cuộc đời có thành bại, an nguy, mọi sự có hợp có tan, nội tâm có lý có tình, con người có bản chất cá nhân và xã hội, có nhu cầu vật chất và tâm linh…Đó là những cặp đôi khác nhau như mâu chống thuẫn giữa cái nhìn phân biệt khắt khe của Lý Trí. Rồng Tiên là những hiện tượng mâu thuẫn ta thấy đầy khắp vũ trụ vạn vật, con người. Rồng Tiên ly biệt là khi những sự Mâu Thuẫn ấy bị Lý Trí đẩy tới Cùng Cực của sự đối nghịch. Nên chỉ với lý trí mà thôi người ta dễ có quan niệm bên trọng bên khinh, tất phải chia ly. Lý trí làm mọi mâu thuẫn tự nhiên trở thành thảm kịch bất hòa.Lý Trí Cực Đoan ấy là nguyên uỷ của mọi bất an và hiểm họa suy đồi dẫn tới tiêu huỷ BẢN CHẤT HỢP NHẤT, THÁI HÒA của các mâu thuẫn tự nhiên nơi vũ trụ, vạn vật .Qua cá nhân, gia đình hay là xã hội thì cái nhìn của lý trí cực đoan còn biến thể thành sự phân chia quyền lợi, ích kỷ cá nhân, bè phái, đòan thể xung đột, người bóc lột người. Tệ trạng quái thai từ thế kỷ trước – hậu quả 25 thế kỷ suy tư sai lầm của nền văn hóa ngập máu và nuớc mắt người của Tây Phương – còn di hại đến nay là thuyết căm thù giai cấp, dùng máu người Việt để trả nợ cho những sai lầm vọng ngọai đi theo thuyết đấu tranh hủy diệt lẫn nhau của Cộng sản vong thân. Rồng Tiên phải Ly Biệt là bài học về Nguyên Nhân của các chia rẽ, bất an , rối loạn, huỷ diệt, là vì loại tư duy ý hệ một chiều. Ta có thể dùng từ DUY LÝ cho loại tư duy phiến diện này.
Nhưng câu chuyện thần tiên của cặp Rồng Tiên trong huyền sử chưa chấm hết ở sự phân tích Nguyên Nhân các khổ nạn của con người. Rồng Tiên chia ly vì để lý trí cách ngăn, nhưng sau đó lại dặn dò nhau: “Có chuyện gì thì cùng nghe nhau, không được bỏ nhau, và gặp nhau ở nơi Tương Dã”. Thật là mù mờ, khó hiểu trong lời dặn dò này. Có chuyện gì là những chuyện gì?
Chắc hẳn phải là chuyện quan trọng lắm, quan trọng hơn cả cái sự cách ngăn của mâu thuẫn, khác biệt. Có chuyện gì chắc hẳn là có chuyện CHUNG, chuyện mà cả hai bên cùng có thể chia sẻ tâm tình và trách nhiệm. Chuyện mà xoá tan được cái tư riêng kỳ thị, ghét bỏ, chia tay. Không xa nhau, vẫn nghe lời nói phải của nhau, có lẽ phải là chuyện của đạo lý mới có tác dụng sâu xa cảm hoá được nhau như thế. Chưa hết, câu chuyện của đạo lý, cho nên làm mờ nhạt bất hoà, khúc ca tình ái lại trổi lên nơi Cánh Đồng Tương. Cánh Đồng Tương đã là giao điểm, hội tụ của những tâm hồn nghe được lẽ đạo của cuộc đời. Nơi cánh đồng Tương , chữ TÌNH đã thay cho Lý, ĐẠO TÂM đã hóa giải mối mâu thuẫn giữa Tiên Rồng . Tương cũng có nghĩa là tương giao, tương quan, tương hợp. Nơi cánh đồng Tương, Cha Rồng và Tiên Mẹ tấu khúc nhã nhạc THÁI HOÀ.
Từ Minh Triết Tiên Rồng của Việt Đạo, ánh sáng Tâm linh cứ tỏa mãi ra, tỏa mãi ngàn năm, cho giống dân Việt có đạo lý làm người, lý đạo THAÍ HOÀ nuôi dưỡng tư duy, chấp kinh tòng quyền, nhưng không bao giờ bỏ đạo. Vì Cánh Đồng Tương đã là nơi Tổ Tiên truyền TÂM ẤN cho giống nòi. Nơi Cánh Đồng Tương, mọi mâu thuẫn huỷ diệt. Thái Hoà là cái Hoà đến sau khi trình độ Tâm Thức khai mở, để không còn suy nghĩ, hành xử ngược ngạo của sự giới hạn, một chiều. Nơi cánh đồng Tương, Tình Hoà cùng Lý. Nơi cánh đồng Tương, Tâm Đạo giải quyết mọi phân ly.
Con người từ bỏ tư lợi, tiểu tâm, tiểu trí, để đến với nhau, cùng vũ trụ vạn vật tham dự tiết nhịp Hoà của Trời-Đất-Người. Mối hòa này bao la quá, nên gọi là Thái Hoà. Như vậy, muốn tham dự vào bản Tình Ca, Tâm Ca, Đạo Ca của Việt Đạo, trước tiên và sau hết phải có tấm lòng Thành của cái Tâm trong sáng, lòng trống rỗng không tà tâm, tiểu trí, lòng trống không như ruột Trống Đồng, chờ đón làn gió thu không bao la bát ngát, đón nghe Lời Kinh Tiên Rồng của Việt Tộc:
VIỆT ĐẠO THÁI HÒA
…..Song song với bài ca chính nghĩa “ Bình Ngô Đại Cáo”, khi quân Minh đại bại vì cuộckhởi nghĩa của dân ta, từ chính sách nhân đạo thái hoà của dân tộc, ta ban phát thành áo quần, lương thực, ngựa voi giúp người thua trận trở về xứ bắc.
Vua Lê Thánh Tôn cùng các quan đại thần, dưới vầng trăng Chân Lý Thái Hoà của Việt Đạo sáng soi, đã thực hiện được đạo luật nhân bản đầu tiên trên thế giới là Bộ Quốc Triều Hình Luật- Luật Hồng Đức – năm 1483. Những điều khoản về gia đình, người phụ nữ, giáo dục được bảo vệ còn cao hơn các điều luật tương tự trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc 1948. Trình độ văn hoá, lòng nhân đạo của ta đã vượt xa thế giới thời ấy và chỉ gần 500 năm sau thế giới hôm nay mới biết hô hào.
Xã hội ta KHÔNG có giai cấp nô lệ, nông nô, vô sản vì có Nhân đạo, Thái Hoà: Hòa Riêng với Chung, Ta với Người: Có sự phân chia ruộng đất cho người nghèo, gọi là phép công điền, công thổ. Chia cho nhau một mảnh đất để sinh tồn vì đã theo Thái Hoà thì ai cũng được đất chở và được trời che. Từ cái nôi Văn Hoá Mẹ của Họ Hồng Bàng, Làng Quê ta có “Phép Vua Thua Lệ Làng”. Nhân Đạo Thái Hoà nên tôn trọng con người với các sắc thái dị biệt của thuần phong và mỹ tục, đó là hình thức nhân chủ, dân chủ đầu tiên trên thế giới mà cũng chính là nguyên tắc “dân chủ, tản quyền” của xã hội ngày nay.
Vì Việt Đạo Thái Hòa, nên truyền thống của Việt tộc trọng Phụ Nữ, có phép “ Phu Thê Giao Bái” trong hôn lễ, nơi gia đình người phụ nữ có địa vị “Nội Tướng”. Lễ “Đồng Tế” phải có cả hai vợ chồng trước bàn thờ gia tiên cũng nổi rõ tính chất HÒA của gia đạo Việt – khác hẳn sự khinh rẻ phụ nữ trong xã hội Trung Hoa hoặc Tây Phương thời xưa , xuất phát từ óc duy trí, trọng sức mạnh của nền văn hóa du mục – Biểu thị cho giá trị tình cảm, đạo đức, văn hóa của phụ nữ còn rõ ràng hơn trong các truyện tuyệt đẹp Trầu Cau, Đầm Nhất Dạ…
Việt Đạo Thái Hòa còn được thể hiện qua nếp sống trọng tình nghĩa nơi chốn làng quê, nơi sự tương nhượng trong quan hệ gia đình, thân tộc, xóm làng. Câu tục ngữ “HÒA CẢ LÀNG” mới thấm đượm cái tình quê, người quê hòa ái biết bao! Bản Chất Thái Hòa của Việt Đạo dấu chỉ rõ nơi sự kính ngưỡng các niềm tin tôn giáo thiêng liêng, để Hòa hữu hạn với Vô biên, để Hợp tương đối cùng Tuyệt đối. Đó là lý do tinh thần “ Tam giáo Đồng Nguyên” trổi vượt thời Lý Trần thanh bình. Cũng như Văn Hiến Nguyễn Trãi đã trải lòng viết nên Hồn Dân Tộc sau buổi “ Bình Ngô” : LẤY ĐẠI NGHĨA THẮNG HUNG TÀN, MANG CHÍ NHÂN THAY CƯỜNG BẠO.
Thật thế, trong môi sinh tinh thần là nền Văn hóa Nông nghiệp ổn định, gần thiên nhiên – nên gần lẽ Đạo – thời xa xưa, con người mới có tư duy chân thực, Bản Chất Thái Hoà mới có đất sinh dưỡng để truyền lại những thuần phong và mỹ tục thờ phụng tổ tiên, xã hội đề cao nhân đạo, tình yêu văn hoá, yêu trời, yêu đất, yêu người, vinh danh đức nhu thuận, bao dung, vun trồng cái sức mạnh của NHÂN NGHĨA – LÝ TƯỞNG VIỆT.
Việt Đạo Thái Hòa cũng còn truyền lại nơi ý nghĩa truyện Bánh Dầy Bánh Chưng của Huyền Sử Việt. Công Tử Tiết Liệu dâng vua Hùng Vương Bánh Chưng Vuông với Bánh Dầy Tròn với lời giải thích về Ý Nghĩa Vuông Tròn tượng trưng cho đạo của Con Người là thông hiểu đạo Trời Đất, để sống có Đời lồng trong Đạo, thế là đúng Minh Triết An Dân của bậc Triết Vương (trong là Thánh Triết, ngòai là Đế Vương), nên đẹp lòng vua cha, và được truyền ngôi.Nói theo ngày nay, Tròn Vuông là cảm thức Chân Lý Hai Chiều tòan diện của cuộc sống: Có Tình có Lý, có Trí có Tâm, có Tinh Thần có Vật chất, có Hữu hạn có Vô biên, có người có ta, về xã hội có kinh tế Chính trị mà cũng có Văn hóa tài bồi tâm linh…
…..Đạo Lý Thái Hòa của Dân Tộc cũng được biểu hiện qua các con số huyền nhiệm của trời đất: Con Rồng Cháu Tiên là 2 Rồng 3 Tiên, thực hiện Tiên – Rồng Tính là thực hiện sự hòa hợp của cả hai, biểu thị bằng số 5.Cũng tương tự, diện tích một hình tròn với hình vuông của nó (đường kính của hình tròn = cạnh chéo của hình vuông) có tỷ lệ 3/2. Bánh chưng vuông với bánh dầy tròn là một cách biểu hiệu của con số 5 trọn vẹn. Bộ số 2-3 ( vài ba) có ngôn ngữ là Rồng -Tiên. Bộ số 2-3 cũng có hình tượng là Vuông- Tròn .
…..Như vậy về mặt ý nghĩa, Người Việt là Con Rồng Cháu Tiên, hay là Tiết Liệu dâng cúng bánh Tròn Vuông, hoặc con số 5 huyền bí, đều là biểu thị cái tâm thức THÁI HÒA khi cảm nhận tính hợp nhất, quân bình, nhịp nhàng, trật tự trong bản chất mâu thuẫn tự nhiên của vạn vật. Vì thế, trở về với Việt Tính, cũng là tìm hiểu sự tương quan 2-3 trong các phạm trù của bản thể, thiên nhiên, xã hội để mà sống với đạo lý của con số 5 , số Hòa âm của vũ trụ, số của THÁI HÒA.
Do đó đặt nổi con số 5 trong ý thức, tâm tình và hành động là đi vào đạo lý Thái Hòa của Dân Tộc, là đi trên hành trình Nhân Bản, là thực hiện Nhân Chủ tính.
Nhưng con người đã từ lâu bỏ quên con số 5 ( 2 + 3 ) của đạo lý Thái Hòa, quên mình là Con Rồng Cháu Tiên. Con người đã bao thế kỷ mê lầm, lạc vào các góc cạnh vuông, chỉ mời nhau ăn Bánh Vuông của Đất (tiền tài, danh vọng, kinh tế, lý trí, đua tranh, trục lợi…), mà quên không ăn thêm Bánh Tròn của Trời (yêu thương, nhu thuận, tâm linh, vô cầu…) , đi xa con số 5, con số Huyền Cơ của Thái Hòa, An Lạc.
Ngày nay đất Việt, đạo Việt đã tan hoang, tâm Việt đã rã lìa nhân nghĩa. Nói chuyện hoà hợp, hòa giải như cách nói bên ngoài của miệng, môi, không có chi thật sự thấu tới cái tận Tâm, tận Lý, tận Tính THÁI HOÀ của dân tộc Việt.
Nên chỉ là NGỤY HOÀ mà thôi.
Những ngày 30-4 tiếp nối. Hơn ba mươi năm qua chỉ càng chứng minh thêm sự sai lầm của lý thuyết Cộng sản, quái thai của xã hội tư bản Tây phương.Máu sông xương núi, tro bụi của hơn hai triệu con người Việt trong trận chiến Quốc-Cộng qua, chỉ làm dị dạng thêm, suy thoái thảm hại khả năng miễn nhiễm của Sức Sống Thái Hòa Văn Hoá Việt. Cũng như chồng chất thêm đau thương, tủi hận, nhọc nhằn cho cả hai nơi bên này hay bên kia bờ Quê Hương. Cuối cùng là toàn dân tộc ta đang gánh cái gánh nặng của 2500 năm sai lầm của tư tưởng một chiều của nền văn minh du mục Tây Phương. Văn Hoá Quê Mẹ chứa chan Tình Nghĩa. Bản Chất Thái Hoà là Đạo Sống Hai Chiều Tòan Diện của Việt Tính từ ngàn xưa cho mãi đến ngàn sau. Cộng Sản đã và đang đào bới tung tận gốc rễ Cây Việt. Lấp nguồn mạch Giếng Thiêng Tiên Rồng, để trồng những loại cây độc, sinh trái đắng chát ung nhọt từ nước đầm lầy sình vữa của căn bệnh dịch Duy Lý đã và đang rẫy chết hàng loạt từ 1989 trên các xứ người.
Chưa trở về với Cây Sống Đời của Văn Hoá Dân Tộc, chưa xác tín sự trở về với Việt Đạo Nhân Chủ Tâm Linh Thái Hòa thì Cộng Sản KHÔNG đủ giá trị căn bản THÀNH TÍN để nói chuyện về Dân tộc, KHÔNG thể nào CHÍNH DANH về LÝ TƯỞNG VIỆT. Mong chi mà gọi hồn ai về với nước cùng non. Cũng như không thể nào Hòa Hợp được lòng người, vì cai trị bằng bạo lực, không khi nào Hòa Giải được Đối Kháng, dẫu thủ đoạn, trí xảo đến đâu. Chỉ có Tâm Việt mới làm mềm lòng Việt. Chỉ có Đạo Việt mới khai thông Sinh Lộ cho đời Việt. Trong ánh Vinh Quang của Việt Đạo, người Việt mới có thể Ngẩng Đầu Lên cùng thế giới Văn Minh, đi trên sinh lộ của chính mình. Cây Nhân Sinh Việt trổ Hoa Yêu Thương , xã hội Việt tràn đầy Việt Tính, 80 triệu người Việt sẽ cùng nhau hưởng mùa an vui THÁI HOÀ khi biết cùng nhau đánh lên tiếng chuông Việt Thường của nền Văn Hiến 5000 năm.
Thật thế, các bế tắc của Cộng sản hiện nay như: kinh tế, dân chủ, nhân quyền… thật ra chỉ là bế tắc cục bộ. Mà cái BẾ TẮC NỀN TẢNG của Cộng sản hôm nay là cái TRỐNG RỖNG của tình trạng xã hội KHÔNG có khả năng LIÊN KẾT mọi thành phần. Là cái sụp đổ của TINH THẦN con người trong xã hội. Lòng người bơ vơ không điểm tựa, vô hướng, vô hồn, nên xã hội băng hoại, mọi giá trị đạo đức suy đồi, tất cả như một đoàn người tranh sống dã man như thú vật, tinh thần mê sảng trong cơn hấp hối vì mãi lực của vật bản . Lòng dân như nước, nước đẩy thuyền đi… Lòng dân bão tố, bão lật thuyền chìm. Trước cơn phong ba của hơn 80 triệu lòng người dân Việt, Cộng Sản nếu không muốn tự sát thì chỉ có giải pháp duy nhất , giải quyết một cách triệt để, nền tảng và toàn diện các bế tắc cục bộ kể trên, là TRỞ VỀ VỚI CHÍNH NGHĨA- TRỞ VỀ VỚI BẢN CHẤT THÁI HÒA CỦA VĂN HOÁ DÂN TỘC- Và, Thành tín mà đi trên Việt Đạo. Lầm lũi đi trong đêm đen của lịch sử đã hơn nửa thế kỷ, Cộng sản đã lập thành tích cao về việc kéo dân tộc ta đi giật lùi, sống bằng nợ nần, phá sản cả vật chất lẫn tinh thần.
Sự trở về đầu tiên là HÒA GIẢI VỚI CHÍNH MÌNH.
Người Cộng sản cần hòa giải với ngay trong vấn nạn nhất, là sự sợ hãi tư duy, sự tòng phục vô điều kiện chủ thuyết duy vật, đường lối quanh co”xã hội chủ nghiã”, một tri thức khép kín lối về Nội Tâm bao la và chân thực. Ngay trong nhận thức duy vật, duy lý của chủ thuyết, ngay trong sự phân chia đảng phái đấu tranh , hận thù giai cấp, ngay trong cái nhìn đồng lọai bằng quan hệ kinh tế, Cộng sản đã tự bế tắc, mâu thuẫn, bất hòa và tuyệt giao với bản chất Thái Hòa của tự nhiên, của nhân bản tính tòan diện. Sự bất hòa này trầm trọng tới mức máu đổ thịt rơi cho đồng loại, đồng bào mà người Cộng sản vẫn không ý thức. Tuy nhiên, thiên lý tại nhân tâm, con người có bản chất hướng về chân lý, khám phá những giá trị viên mãn hơn, từ sự chân thành phản tỉnh. Tư duy chân thực, giúp người CS đào sâu hơn giá trị của chính mình, mở tung cánh cửa giới hạn của các lọai ý hệ phiến diện “ DUY” mang tính hủy diệt để Thông Giao với Nhân Bản Tính Trung Thực và Tòan Diện.
Sự trở về thứ hai là HÒA GIẢI VỚI DÂN TỘC
Đạo Lý của Dân Tộc nơi dấu chỉ Văn Lang Vũ Điệu Thái Hòa trên mặt Trống Đồng. Là Ý Nghĩa của Cánh Đồng Tương, hay Cánh Đồng Tâm. Là cảm nghiệm Số 5 Huyền Cơ nhiệm mầu! Từ nhận thức được Tính TƯƠNG GIAO, TƯƠNG QUAN, VƯỢT QUA, VƯỢT LÊN của Chân Lý Việt, soi sáng qua bao dòng sử Việt với Chính Nghĩa Việt trong suốt quang minh, cuộc Hòa Giải với Dân Tộc sẽ nghiêm túc bắt đầu.
Kinh Qua chính mình, bằng sự Tương Quan, Tương Giao cùng Việt Tính – bước nhảy Việt – Vượt qua tầng tư duy một chiều lý trí và vật chất, vượt lên quyền lợi riêng tư hay đảng phái hẹp hòi, để hòa giải chính nội tâm . Sau đó, mới có thể từ nội tâm hòa ái, quân bình, sáng suốt giải quyết các mâu thuẫn đối kháng trên căn bản VĂN HÓA THAY VÌ BẠO LỰC , lắng nghe thiện ngôn – dẫu nghịch nhĩ – để thuận lòng dân .
Từ lòng thành tín quay về với Bản Chất Thái Hòa của Văn Hóa Dân Tộc, mới vươn lên được tầng Tâm Đạo chứa chan Tình Nghĩa, đặt mối Tương Giao Anh Em cùng Một Nhà mà xây dựng quê hương. Như chuyện tích xưa Cha Rồng và Tiên Mẹ tuy thuỷ hoả bất đồng, phương viên xung khắc, nhưng vẫn nghe lời nhau, không xa bỏ nhau mà khi cần vẫn gặp nhau nơi Cánh Đồng Tương. Nghe lời nhau là nghe tiếng Đạo Thái Hoà, và gặp nhau nơi Cánh Đồng Tương là lấy một chữ TÂM xóa bỏ mọi mâu thuẫn, đối nghịch,hận thù.
Khi đó, sẽ không còn gì cao hơn Đức Tương Dung, Thái Hòa của Nhân Đạo Việt, không có gì phải phân biệt đảng phái, giai cấp một mất một còn. Trăm con dân Việt đều là con Mẹ Việt, bổn phận và trách nhiệm như nhau, chân thành như nhau để cùng thực hiện một cuộc KHAI QUANG TƯ TƯỞNG sau bao thế kỷ vong thân, vong bản, tha hóa vì ảnh hưởng giáo dục ngọai lai, mất gốc, hại nước, hại nhà. Tìm về CHỦ ĐẠO VIỆT để vun trồng lại cho chính mình, cho thế hệ tiếp nối mình, một nếp tư duy mới, tiếp cận dòng sống Thái Hòa của Tư Tưởng và Văn Hóa Dân Tộc. Từ căn bản đó, chúng ta mới có thể xây dựng được một xã hội mới, có định hướng, hợp nhất với quá khứ, lịch sử và tương lai, hội nhập với văn minh văn hóa tòan cầu mà không tiêu trầm bản sắc.Như thế, song song với việc thực hiện công bằng xã hội với Bình sản kinh tế, hiện đại hóa kỹ thuật, quê hương ta phải cần một Quốc Sách Văn Hóa Giáo Dục mới cho con người mới sau chuyến phiêu lưu vọng ngoại mất cả xác lẫn hồn. Do đó, Khi HÒA GIẢI VỚI CHÍNH MÌNH, người Cộng Sản sẽ hòa giải được với dân tộc. Cuộc Hòa Giải này mới là Triệt Để. HÒA rồi GIẢI. HÒA rồi HỢP. Giác Ngộ Việt Đạo Thái Hòa, nên mọi biên cương ý hệ, đảng phái, tự nhiên sẽ bị xóa mờ.
Chỉ còn Tương Lai.
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG VÀO MÙA VINH VƯỢNG
Trên chiều hướng Phục Hưng Văn Hóa Việt , các truyện Huyền Sử Nhân Bản Tâm Linh của Đạo Việt , các truyện tiêu biểu cho Nhân Tính, Việt Tính cần nâng lên hàng KINH ĐIỂN DÂN TỘC. Hạt Nhân An Lành của Đạo Việt phải được ươm trồng nơi Tâm Thức Tuổi Thơ cho ngày mai Cây Nhân Sinh Việt trổ bông, kết trái, nở rộ Mùa Nhân Chủ Thái Hòa.Suối nguồn Minh Triết Việt sẽ tuôn chảy dưỡng nuôi muôn tân hồn Việt cùng hòa nhịp nhịp hát câu hò ngày xưa Ca Dao Tục Ngữ An Vi dạt dào Nguyên Lý Mẹ. TRIẾT VIỆT cần được nghiên cứu trên Đại Học để phát huy QUỐC ĐẠO. Đời sẽ vô vàn đẹp hơn vì có Văn Hóa Thái Hòa làm nguyên lý nền tảng dựng xây. Con người sẽ không còn chỉ biết có quy luật của “ Thị trường chung”. Con người sẽ bàn với nhau về một “ Đạo Trường Chung” cho Người được lấy lại những gì đã mất, được Làm Chủ chính mình, không phục vụ vật chất hay thần linh, kiến tạo những mục tiêu Nhân Chủ Hóa đời người. Trong xã hội Nhân Chủ, mọi người sẽ cùng nhau chia sẻ những lý tưởng Tiên Rồng, Tròn Vuông, thực hiện nếp sống QUÂN BÌNH của Chân Lý Việt : Đời Hòa trong Đạo, Văn trị song hành cùng Pháp trị, Lễ Nhạc đi đôi với Luật Lệ . Quốc sách kinh tế Quân Bình giữa Hữu sản và Vô sản, Công hữu và Tư hữu. Triết lý giáo dục Dân Tộc và Nhân Bản để ý thức vươn lên cõi Tâm Linh, đào tạo những thế hệ Việt hùng Tâm, dũng Trí, đạt được cả hai giá trị của thành công lẫn thành nhân .Con người thực sự sống trong một QUỐC GIA – vừa lo cho nhà mà vừa lo cho nước . Con người thực sự sống là một NHÂN DÂN – là một công Dân trong xã hội, nhưng có được Nhân quyền đầy đủ để sống cho ra phẩm giá con Người. Xã hội đạt được hai mục tiêu căn bản là TỰ DO và BÌNH SẢN hợp nhất với bản chất Thái Hòa CON RỒNG CHÁU TIÊN của di chúc LẠC VIỆT. Tinh Thần nước Việt được An Định. Người Việt được An Vui. Đất Việt trường tồn. Bản Chất THÁI HÒA của Văn Hóa Dân Tộc thể hiện Tiên – Rồng Tính trong xã hội Nhân Chủ :
THÁI HÒA
TIÊN RỒNG
Tự Do Bình Sản
Văn Lễ Pháp Luật
Nhân Quyền Dân Quyền
Thành Nhân Thành Công
Văn Hóa Văn Minh
Đạo Trường Thị Trường
Cái Bế tắc chính của chúng ta hôm nay là cái Mất Gốc Văn Hóa. Kể cả gốc Dân Tộc lẫn gốc Nhân Tộc.
Đặt VĂN HÓA LÀM NỀN TẢNG TƯƠNG QUAN giữa Người với Người cũng như với tự nhiên, vũ trụ vạn vật mới là cái nhìn sâu sắc, bao dung, tòan triệt, mới thực sự phá tan được mọi gông cùm nô lệ, phát huy được NHÂN TÍNH ĐẠI NGÃ TÂM LINH. Tư duy một chiều duy vật, duy linh, duy lý, duy trí…chỉ là loại tư duy phiến diện dễ đi đến huỷ diệt nhân bản tính, mất Đạo Lý Thái Hòa – Nguồn mạch của sự sống muôn đời. Tư duy đến cái Tâm Đạo của Việt Tộc như ý nghĩa truyện Tiên Rồng, tư duy Việt nên mới có thật sự Hoà vì có mối Tâm giao. Mới thực sự Thái Hoà vì muôn người hoà từ trong nội tâm, HÒA NƠI VIỆT ĐẠO, nên hướng dẫn muôn việc hợp. Nhân có Hòa, thì thiên tất sinh, địa tất dưỡng, lo gì Rồng Việt không uốn khúc để thành Rồng Thiêng vùng vẫy khắp năm châu. Và muôn nơi ca vũ mừng vui như cảnh trời đất người an nhiên thư thái phiêu phong bên chim muông trên hoạ đồ Trống Đồng Việt Tộc.
Như một sớm mai kia, giác ngộ Chân Lý Rồng Tiên, thiên đường Bình An nào ở đâu xa. Bình An nằm ngay trong sự Quân Bình hóa những gì một chiều cực đoan, thái quá.Bình An là cán cân thăng bằng của Trời Đất Người. Quân Bình được Ý thức giá trị vật thể lượng tính với Tiềm thể vô biên của phẩm chất Người, con người bắt được nhịp vận hành với vũ trụ, thiên nhiên, vạn vật, sẽ vào thế giới củaTuyệt đối, của Bình An. Cũng như, Chân Hạnh Phúc là khi Thông Giao được với cội nguồn bao la của sự sống muôn đời. THÁI HÒA. Tâm thức sáng ngời cõi Tịnh An, Lời của Tâm Bình, Lời Vô Ngôn. Ý của Thái Hòa, Ý Vô Ý. Làm với Tâm Thức Vô Cầu, là AN VI – Cây cầu nối hai bờ phân chia đối nghịch giữa Đạo với Đời, Mê và Giác, Có và Không. Đạo Việt là vô ngôn ẩn nghĩa của Trí Huệ Vượt Qua, Vượt Lên không còn cõi Sắc Không của Bát Nhã Tâm Kinh. Đạo Việt là Lời Kinh Tiên Rồng Lên Ngôi trong linh thể Âm Dương của Dịch Lý mà sau này Khổng Tử ngưỡng vọng. Minh Thức AN VI, Chân Lý Hai Chiều Toàn Diện của cuộc Nhân Sinh được thắp sáng. Rồng Tiên không còn ly biệt.
Bản Chất Thái Hòa bừng lên sức sống. Con Rồng Cháu Tiên rộn ràng mùa Hội Ngộ. Máu Việt lại về Tim. Vũ Điệu Văn Lang trên Trống Đồng Đông Sơn, sẽ lại một lần Rực Rỡ đưa Quê Hương vào Ước Mơ. Mùa Hội Mới – LONG HOA.
Do đó, giải pháp VĂN HOÁ DÂN TỘC mới thực sự có đủ khả năng cắt bỏ cái bướu ung thư CS, làm HÒA mọi vết thương lòng, và HỢP lòng người về một mối để CỨU NƯỚC và DỰNG NƯỚC cho một BÌNH MINH MỚI của lịch sử DÂN TỘC VIỆT.
Hết Phần I.
Đông Lan
(25/03/2007)