Chuông Gọi Hồn Ai (14)

Chương 14

Khi họ về tới trại thì tuyết đã rơi những bông tuyết rơi xiên xiên trong đám thông lác đác trong rừng thông. Họ đổ dốc nghiêng nghiêng giữa những hàng cây, những bông tuyết ban đầu còn thưa thớt và quay tròn, sau đó khi gió lạnh bắt đầu thổi từ trên núi xuống, chúng bắt đầu cuốn xoáy và trở nên dày kịt. Trong một cơn tức bực, Robert Jordan dừng bước trước hang để nhìn chúng.

– Tuyết sắp rơi nhiều. – Pablo nói…. Hắn có giọng nói nhừa nhựa và đôi mắt đỏ ngầu, đục lờ.

– Tên du mục trở về chưa? – Robert Jordan hỏi hắn.

– Chưa – Pablo nói – Cả hắn lẫn lão già đều chưa về.

– Đồng chí có muốn đi với tôi lên đồn canh phía trên, nơi con đường kia không?

– Không – Pablo nói – Tôi không muốn xen vào việc này.

– Vậy thì tôi lên đó một mình vậy.

– Trong trận bão này, đồng chí dễ đi lạc lắm. Bây giờ thì tôi không đi đâu.

– Chỉ cần bước xuống con đường, và sau đó người ta nương theo dốc của nó mà leo lên.

– Đồng chí có thể tìm và ra được, nhưng giờ này thì hai tên lính canh sắp trở lên, với trời tuyết như vầy đồng chí sẽ lạc họ trên đường đi.

– Lão già đang đợi tôi.

– Không đâu. Lão sắp trở về ngay bây giờ đây với trời tuyết như vầy. – Pablo nhìn tuyết đang rơi mau trước cửa hang, và nói – Đồng chí không thích tuyết hả, Inglés?

Robert Jordan buột miệng chửi thề, Pablo nhìn chàng bằng đôi mắt đục lờ của hắn và hắn bật cười.

– Trời như vầy thì công việc của đồng chí vất đi rồi, Inglés ạ – Hắn bảo – Thôi ta vào trong hang đi, người của đồng chí sẽ tới ngay bây giờ.

Trong hang, Maria đang bận rộn bên bếp lửa và Pilar nơi bàn ăn. Lửa bốc khói, cô gái cời lửa cho cháy bằng một thanh cây, đoạn phe phẩy quạt nó bằng một tờ giấy xếp lại, sau đó ngọn lửa bùng lên và củi bắt đầu bốc cháy bằng một ngọn lửa cao và sáng rực với cơn gió thổi vào qua cái lỗ trên mái.

– Còn tuyết kia – Robert Jordan nói – Đồng chí tưởng rằng nó sẽ rơi xuống nhiều lắm à?

– Nhiều chớ – Pablo nói với một vẻ mãn nguyện. Đoạn hắn lên tiếng gọi Pilar – Còn bà nữa, bà cũng không thích vậy à? Giờ đây khi bà đã chỉ huy, bà không thích tuyết rơi như vầy à?

A mi qué [1] – Pilar nói qua bờ vai – Tuyết rơi thì tuyết cứ rơi chớ sao?

– Uống rượu đi Inglés – Pablo nói – Phần tôi thì tôi đã uống suốt ngày trong khi đợi tuyết rơi.

– Cho tôi một tách đi. – Robert Jordan nói.

– Mừng tuyết rơi. – Pablo vừa nói vừa cụng tách với chàng. Robert Jordan nhìn sâu vào đôi mắt hắn vừa cho tách chàng chạm vào tách hắn. Đồ đểu cáng, thằng sát nhân với đôi mắt đục ngầu, chàng nghĩ. Tao muốn đập cái tách này vào răng mày. Nhưng rồi chàng lại nhủ thầm, hãy bình tĩnh, hãy bình tĩnh.

– Tuyết rơi trông thật đẹp – Pablo nói – Tuyết rơi như vầy thì đồng chí không thể ngủ ở ngoài được đâu!

Robert Jordan nghĩ, à! thì ra như vậy. Mày có nhiều mối lo âu quá đi, Pablo ạ!

– Không được à? – Chàng lịch sự nói.

– Không được. – Pablo nói – Lạnh lẽo và ẩm ướt lắm.

Mày không biết tại sao những lớp chăn lông tơ kia trị giá tới 65 đô-la, Robert Jordan nghĩ. Tao muốn được một đô-la cho mỗi lần nằm ngủ ngoài trời, dưới cơn mưa tuyết.

– Vậy thì tôi phải ngủ ở đây à? – Chàng lịch sự hỏi.

– Ừ.

– Cám ơn. – Robert Jordan nói – Tôi sẽ ngủ ở bên ngoài.

– Ngủ trong tuyết à?

– Ừ. (Mẹ kiếp đôi mắt lợn đỏ ngầu, vấy máu và cái bản mặt lợn với những lông lợn của mày). Trong tuyết (trong cái thứ tuyết mẹ kiếp tai ác, bất chợt và đầy chủ bại này).

Chàng tiến đến bên Maria đang vừa mới cho một thanh củi thông vào lửa.

– Tuyết đẹp dữ. – Chàng nói với cô gái.

– Nhưng lại tai hại cho công việc, phải không? – Nàng hỏi chàng – Anh không lo ngại à?

– Sao lại lo ngại – Chàng bảo – Lo ngại không ích lợi gì cả. Bao giờ thì buổi cơm chiều sẵn sàng đây em?

– Tôi chắc là đồng chí sẽ ăn ngon – Pilar nói – Đồng chí có cần ăn một miếng pho mách trong khi chờ đợi không?

– Được lắm. – Chàng nói. Bà ta cắt miếng pho mách bao trong một lớp vải lưới treo lủng lẳng trên trần, và trao cho chàng một lát dầy. Chàng đứng ăn. Phó mách có mùi vị hơi gắt.

– Maria! – Từ chỗ ngồi nơi bàn, Pablo kêu lên.

– Chi đó? – Cô gái hỏi.

– Lau bàn đi, Maria. – Pablo vừa nói và mỉm cười với Robert Jordan.

– Ông hãy lau lấy – Pilar bảo hắn – Trước hết hãy lo chùi cằm và áo của ông rồi sau đó hãy lau bàn.

– Maria! – Pablo gọi.

– Em đừng để ý tới hắn. Hắn say nhừ tử rồi. – Pilar nói.

– Maria! – Pablo gọi – Tuyết vẫn rơi, tuyết trông thật đẹp mắt.

Robert Jordan nghĩ, hắn không biết cái túi ngủ này. Cái con mắt lợn đó không biết tại sao tôi đã phải trả cái túi này tới sáu mươi lăm đô-la tại tiệm Woods. Ngay khi tên du mục trở về đây, tôi sẽ đi tìm lão già. Lẽ ra tôi phải tới đó bây giờ nhưng rất có thể là tôi lạc mất họ. Tôi không biết lão ở đâu nữa.

– Đồng chí có muốn ném tuyết không? – Chàng nói với Pablo – Đồng chí có muốn chơi đánh giặc bằng những hòn tuyết không?

– Cái gì? – Pablo hỏi – Đồng chí rủ rê cái gì?

– Không. – Robert Jordan nói – Đồng chí đã đậy kỹ mấy cái yên ngựa của đồng chí chưa?

– Rồi.

Đoạn Robert Jordan nói bằng tiếng Anh: “Đồng chí cho mấy con ngựa của đồng chí ăn hay là cứ buộc chúng lại và để chúng đào xới kiếm ăn?”

– Cái gì?

– Không. Đó là việc của đồng chí, đồng chí ạ. Phần tôi thì tôi sẽ rời khỏi nơi này bằng chân.

– Tại sao đồng chí lại nói tiếng Anh? – Pablo hỏi.

– Tôi cũng không hiểu nữa – Robert Jordan nói – Đôi lúc tôi nói tiếng Anh khi nào quá mệt. Hoặc khi nào tôi quá chán chường. Hoặc thối chí, nói cho đúng. Khi tôi quá đỗi thối chí, tôi trâm tiếng Anh để nghe cái âm thanh của nó. Đó là tiếng rủ rỉ rù rì làm cho người ta yên tâm. Đồng chí phải thử xem, một ngày nào đó.

– Đồng chí nói cái quái gì vậy hở Inglés? – Pilar hỏi – Nghe ra có vẻ thú vị lắm, nhưng mà tôi chả hiểu cái mẹ gì cả.

– Không có gì cả, Robert Jordan nói. Tôi nói “không có gì cả” bằng tiếng Anh đấy.

– Nào, bây giờ thì đồng chí hãy nói tiếng Tây Ban Nha đi – Pilar nói – Nói tiếng Tây Ban Nha nó ngắn, gọn và đơn giản hơn.

– Chắc chắn rồi. – Robert Jordan nói. Nhưng mà trời đất, chàng nghĩ, ồ Pablo, ồ Maria, ồ các người, hai anh em trong góc mà tôi đã quên mất tên nhưng lại phải nhớ, và lắm lúc tôi mệt mỏi với điều đó. Với điều đó, với các người, với tôi, với cuộc chiến tranh, và hơn nữa, tại sao tuyết lại rơi bây giờ? Mẹ kiếp, dù sao như thế cũng quá lắm rồi. Không. Không quá lắm đâu. Không có cái gì gọi là quá lắm cả. Phải chấp nhận và tìm cách thoát khỏi nghịch cảnh. Và bây giờ thì mày đừng có viển vông nữa, hãy chấp nhận việc tuyết rơi, sau đó hãy lắng nghe báo cáo của tên du mục và hãy đi đón lão già về đây. Nhưng mà tuyết rơi, bây giờ đây, vào giữa tháng này! Chàng nhủ thầm, thôi đủ rồi. Đủ rồi và mày hãy chấp nhận. Cái cốc…. Cái cốc… đó là cái quái gì, chuyện cái cốc? Robert Jordan nghĩ, tốt hơn là vận dụng trí nhớ hoặc đừng bao giờ tìm kiếm những đoạn dẫn chứng lôi thôi, bởi vì khi người ta quên mất một đoạn thì sau đó những manh mối của nó lại nhảy múa không ngớt trong đầu. Vậy thì chuyện cái cốc đó là cái quái gì?

– Làm ơn cho tôi rượu đi – Chàng nói bằng tiếng Tây Ban Nha. Đoạn nói tiếp – Tuyết nhiều lắm hả? Ê – Chàng gọi Pablo – Tuyết nhiều lắm hả?

Tên say rượu ngước mắt nhìn chàng và mỉm cười. Hắn ngẩng đầu lên và lại mỉm cười.

– Không có tấn công. Không có avioines [2], không có chuyện phá cầu. Chỉ có tuyết. – Pablo nói.

– Đồng chí tưởng tình trạng này có thể kéo dài à? – Robert Jordan ngồi kế bên hắn. Đồng chí tưởng tuyết rơi xuống đầu ta trọn mùa hè sao Pablo, đồng chí của tôi?

– Trọn mùa hè thì không – Pablo nói – Nhưng đêm nay và ngày mai thì có.

– Do đâu mà đồng chí nghĩ như vậy?

– Có hai thứ bão – Pablo nói bằng một giọng nghiêm trọng – Một thứ đến từ vùng nui Pyrénées. Những trận bão đó mang hơi lạnh tới. Nhưng mà mùa màng tới sớm hơn.

– Đúng – Robert Jordan nói – Luôn luôn như vậy.

– Còn trận bão kia, nó đến từ Cantebrico – Pablo nói – Nó đến từ vùng biển. Với gió thổi về hướng này thì đó là trận bão lớn với rất nhiều tuyết.

– Đồng chí học điều đó ở đâu vậy hở đồng chí tiền bối. – Robert Jordan hỏi.

Giờ đây khi cơn giận dữ đã qua, trận bão kia lại khuấy động chàng như bất luận một trận bão nào khác. Trong một trận gió, một cơn giông, một cơn mưa rào bất chợt, một cơn mưa nhiệt đới hay một cơn bão mùa hạ thổi qua núi, chàng nghe một kích thích lạ mà chàng không tìm thấy ở một trường hợp nào khác. Nó giống như sự kích thích thuần túy nhất đẩy người ta vào cuộc chiến đấu. Có một thứ gió nếu nung lòng chiến đấu, nhưng đó lại là thứ gió nóng sốt, nóng sốt và khô ran như mồm mép con người, nó thổi nghe nặng nề, nóng sốt và bẩn thỉu, nó nổi lên và tàn theo chuyện hung kiết trong ngày. Robert Jordan đã từng biết rõ thứ gió đó.

Nhưng một trận bão tuyết thì trái lại hẳn, khi tuyết rơi thành cơn bão, người ta đến gần các loài dã thú và chúng không biết sợ sệt là gì. Chúng đi qua miền thôn dã một cách ngu ngơ, không biết phương hướng là gì, và con hoẵng thỉnh thoảng dừng bước dưới mái hiên ngôi nhà ván.

Trong một trận bão tuyết, người ta cưỡi ngựa sải về phía một con hươu, nó tưởng ngựa là một con hươu khác và cứ đâm bổ vào. Trong một trận bão tuyết, gió có thể thổi hàng loạt, những luồng gió tinh khiết đượm màu tuyết trắng và không khí lúc bấy giờ đầy những luồng trắng trùng điệp, tất cả đều biến dạng và khi tàn cơn gió thì trời tĩnh lặng hẳn.

Đây đúng là một trận bão lớn và chàng nghĩ, hãy cứ vui đùa với nó.

Nó phá hủy tất cả nhưng ít ra người ta có thể vui đùa với nó.

– Tôi đã từng xuôi ngược đây đó trong nhiều năm trời – Pablo nói – Người ta chở hàng hóa trên những chiếc xe bò lớn băng qua những trái núi trước khi có xe cam nhông. Nhờ công việc đó người ta học được cách đoán thời tiết.

– Đồng chí đã gia nhập phong trào bằng cách nào?

– Tôi thì lúc nào cũng thuộc về phe tả – Pablo nói – Chúng tôi tiếp xúc nhiều với những người ở Asturies, nơi mà về mặt chính trị họ rất tiến bộ. Tôi luôn luôn ủng hộ nền Cộng Hòa.

– Nhưng mà trước khi gia nhập phong trào đồng chí làm gì?

– Thời đó tôi giúp việc cho một người buôn ngựa ở Saragosese. Hắn cung cấp ngựa trong các cuộc đấu bò và cho các cuộc chuyển vận của quân đội. Chính vào thời đó tôi đã gặp Pilar lúc bấy giờ đang sống với anh chàng đấu bò tên Finito, như bà ta đã nói với đồng chí.

Hắn nói điều đó với rất nhiều tự phụ.

– Hắn không sáng giá gì cho lắm với tư cách một tay đấu bò. – Một trong hai anh em đang ngồi nơi bàn vừa nói vừa nhìn vào lưng Pilar đang đứng trước cái chảo.

– Không à? – Pilar nói vừa quay đầu lại nhìn người đàn ông – Hắn không sáng giá gì cho lắm với tư cách một tay đấu bò à?

Bây giờ thì trong cái góc hang đó, bên ngọn lửa bếp, bà ta đang mường tượng lại người chồng cũ của mình, với thân hình tầm thước và nước da xạm nâu, với khuôn mặt sắc nét, đôi mắt buồn, đôi má hóp, với mái tóc đen uốn xoăn, rịn ướt trên trán đúng vào nơi chiếc mũ đấu bò hằn lên một đường đỏ ửng mà không một ai khác nhận ra được. Bà ta mường tượng ra hắn dang đối diện với con bò mộng năm tuổi, đối diện với cặp sừng đã từng hất tung những con ngựa, với chiếc cổ to đã hất con ngựa lên cao, lên cao mãi trong không khí, trong lúc người ngồi trên lưng ngựa thúc sâu ngọn giáo vào chiếc cổ đó, và tiếp tục đẩy nó lên cao mãi cho đến khi con ngựa rơi ập xuống và người cỡi ngựa bổ nhào vào hàng rào cây trong lúc con bò mộng phục trên hai chân trước, chiếc cổ to lại phóng cặp sừng về phía trước, húc vào con ngựa và tìm cách giết nó chết. Giờ đây thì bà ta trông thấy Finito, tên đấu bò tồi, đang đứng trước con bò mộng và quay cạnh sườn về phía nó. Bà ta lại trông thấy hắn rõ mồn một đang cuộn tròn tấm vải dày màu đỏ quanh cây gậy, tấm vải dính đầy máu mà hắn dùng để quét trên đầu và vai con bò mộng.

Bà ta mường tượng thấy cái bướu loang máu và lưng con bò mộng trong khi nó vừa giãy giụa vừa lắc lư những mũi giáo ghim trên cổ nó. Bà ta thấy Finito nghiêng người đứng sững ở năm bước cách đầu con vật nặng nề, bất động, đoạn hắn chầm chậm giơ cao thanh gươm cho đến khi mũi gươm ở ngang vai nó, và nghiêng lưỡi gươm vào một điểm mà hắn không trông thấy được, vì đầu con bò mộng cao hơn đôi mắt hắn. Hắn tìm cách cho con bò mộng hạ thấp đầu nó xuống bằng cách vẩy tấm vải ướt át nặng nề trong tay trái hắn. Nhưng bây giờ thì hắn đang nhón gót lùi lại từ từ và nhìn dọc theo lưỡi gươm, đứng nghiêng trước chiếc sừng bị sứt của con bò, trong lúc con bò đang thở hổn hển và nhìn chăm chăm vào tấm vải.

Bây giờ thì bà ta trông thấy hắn thật rõ ràng, bà ta nghe cái giọng nói nhỏ nhẹ trong trẻo của hắn khi hắn quay đầu nhìn về phía hàng ghế đầu tiên của đấu trường ở bên trên hàng rào sơn đỏ, hắn nói: “Nhìn xem, tôi có thể giết nó như thế này không!”.

Bà ta nghe hắn nói và tưởng chừng đang trông thấy chàng đấu bò rùn gối tiến tới trước. Bà ta nhìn hắn bước thắng tới cặp sừng con bò đang hạ thấp xuống một cách kỳ diệu trong khi mõm con vật đang hướng về tấm dạ đỏ quét trên mặt đất, cổ tay nhỏ và chắc của hắn điều khiển cặp sừng hạ thấp xuống và chế ngự lấy chúng trong khi lưỡi gươm thọc sâu vào khối thịt âm u trên bướu vai của nó.

Bà ta trông thấy lưỡi gươm thọc vào một cách nhẹ nhàng và chắc chắn như thể cơn xô đẩy của con bò mộng chỉ làm cho lưỡi gươm đâm sâu thêm vào người nó trước khi tước nó ra khỏi tay người đấu bò. Bà ta nhìn lưỡi gươm thọc sâu mãi cho tới khi người đàn ông nhỏ thó và nâu sẫm, với hai mắt không rời khỏi chỗ lưỡi gươm cắm phập vào, bây giờ đã xê cái bụng bị thương tích của mình ra khỏi chiếc sừng và đang ra xa con vật để đứng thẳng người, tay trái cầm cây gậy quấn tấm dạ, tay phải giơ cao đồng thời nhìn con bò mộng giẫy chết.

Bà ta trông thấy hắn đứng sừng sững, hai mắt chăm chăm nhìn con bò mộng đang cố hết sức chồm dậy, đang lắc lư như một thân cây sắp ngã, đang vận dụng toàn lực để đứng lên, trong khi bàn tay hắn giơ cao trong một cử chỉ đắc thắng. Bà ta trông thấy hắn đứng đó, mình mẩy đẫm mồ hôi, trong niềm vui sướng, khuây khỏa không bờ, hắn nhẹ nhõm nhìn con bò mộng giẫy chết, hắn nhẹ nhõm đã không gặp một sự va chạm hay một nhát sừng nào lúc nhảy thoát ra xa, thế rồi khi hắn còn đứng thẳng người ở đó, thì con bò mộng ngã lăn ra chết, chỏng bốn cẳng lên trời, và bà ta thấy người đàn ông nhỏ thó, nâu sẫm lần bước về phía bờ rào, mệt nhoài và không nở nổi một nụ cười.

Bà ta thừa hiểu rằng hắn không thể chạy băng qua đấu trường bởi hắn có thể chết lắm, và bà ta nhìn hắn bước chầm chậm về phía bờ rào, cầm chiếc khăn lau miệng, nhìn vào chiếc khăn và lắc đầu, đoạn lau mặt và bắt đầu đi vòng quanh đấu trường khoe chiến thắng vẻ vang.

Bà ta trông thấy hắn chầm chậm tiến tới, chân kéo lê từng bước quanh đấu trường. Hắn mỉm cười, vẫy chào mọi người, rồi lại mỉm cười, đi trước những người phụ tá của hắn, cúi xuống lượm những điếu xì gà, ném trả lại những chiếc nón, đi vòng đấu trường, mỉm cười với đôi mắt buồn bã để kết thúc chuyến đi vòng quanh dưới mắt bà ta. Bà ta vẫn tiếp tục nhìn và bây giờ thì bà ta trông thấy hắn ngồi trên bực hàng rào bằng cây với một chiếc khăn ấp vào miệng.

Bà ta trông thấy tất cả khi bà ta đứng đó, cạnh bếp lửa, và bà ta nói:

– Vậy chớ hắn ta không phải là một tay đấu bò cừ khôi à? Vậy tôi hiện đang sống với hạng người nào đây?

– Đó là một tay đấu bò cừ khôi – Pablo nói – Nhưng mà hắn khó chịu với vóc người nhỏ thó của hắn.

– Và chắc chắn là hắn bị bịnh lao. – Primitivo nói.

– Lao à? – Pilar nói – Ai mà không bị lao sau khi đã chịu đựng tất cả những gì hắn đã chịu đựng? Trong cái đất nước mà một kẻ nghèo không thể nào hy vọng được kiếm sống no đủ trừ phi phải làm sát nhân như Juan March hoặc làm tên đấu bò trên sân khấu nhạc kịch hoặc một tên ca sĩ hát giọng tê no? Làm sao hắn không mang bịnh lao mới được chớ? Trong cái xứ sở mà bọn trưởng giả ăn nhiều đến phải đau dạ dày, chúng không thể sống nếu thiếu chất muối diêm trong khi kẻ nghèo thì bị đói kém ngay từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới ngày chết mới thôi, thử hỏi làm sao hắn không mang bịnh lao cho được chớ? Nếu đồng chí đã từng du lịch bằng cách trốn chui trốn nhủi dưới những hàng ghế trong các toa hạng ba để đi từ hội chợ này sang hội chợ khác mà khỏi cần phải mua vé, giống như lũ trẻ con học nghề đấu bò ngay trên mặt đất, đầu vùi trong cát bụi bẩn thỉu với những bãi đờm còn tươi hay đã khô, liệu đồng chí có tránh khỏi bịnh lao không nếu đồng chí bị sừng bò mộng húc vào ngực?

– Dĩ nhiên rồi – Primitivo nói – Tôi chỉ nói hắn bị lao thôi mà.

– Dĩ nhiên là hắn bị lao – Pilar nói trong khi bà ta vẫn đứng thẳng người với chiếc muỗng lớn cầm trong tay – Hắn nhỏ người, ăn nói nhỏ nhẹ và rất sợ bò mộng. Tôi chưa hề thấy một ai lại sợ hãi, nhát gan đến thế trước giờ giao đấu và tôi cũng chưa hề thấy ai lại gan lì đến thế một khi đã bước vào đấu trường. Còn ông, – Bà ta nói với Pablo – ông đang mãi sợ chết. Ông quan trọng hóa công việc. Nhưng mà Finito, lúc nào hắn cũng lo sợ. Và trong đấu trường thì hắn là một con sư tử.

– Hắn nổi tiếng gan dạ mà. – Một người trong hai anh em nói.

– Tôi chưa thấy ai nhát gan đến thế – Pilar nói – Hắn không muốn có cả một cái đầu bò mộng trong nhà. Một lần nọ, trong kỳ hội chợ ở Valladolid, hắn đã giết một con bò mộng của Pablo Romero thật kỹ…

– Tôi nhớ ra rồi – Người kia trong hai anh em nói – Tôi có mặt ở đó mà. Đó là một con bò mộng màu vàng xám, trán xoắn và sừng thật cao, nặng hơn 30 arrobas. Đó là con bò mộng sau cùng mà hắn hạ được ở Valladolid.

– Đúng vậy – Pilar nói – Và sau đó, hội những người ái mộ đã họp nhau tại quán cà phê Colon và đã chọn tên hắn để đặt cho hội và họ cũng đã nhồi rơm vào đầu con bò mộng để tặng hắn trong một tiệc nhỏ tại quán Colon. Trong bữa ăn, đầu con bò mộng được máng trên vách nhưng lại phủ bằng một lớp vải. Tôi có mặt ở đó và còn có nhiều người khác nữa, có Pastora là một cô gái xấu hơn tôi, có Nina de los Peines và nhiều phụ nữ du mục cùng gái điếm hạng sang nữa. Đó là một bữa tiệc nhỏ nhưng lại rất huyên náo, đến độ gần như là dữ dội với cuộc cãi vã xảy ra giữa Pastora và một trong số những gái điếm nổi danh vào bực nhứt về một vấn đề xã giao. Tôi thì chưa bao giờ sung sướng đến như thế. Tôi ngồi cạnh Finito và tôi để ý thấy hắn luôn tránh để khỏi nhìn vào đầu con bò mộng phủ bằng một lớp vải màu tía trông giống như hình ảnh các vị thánh nơi nhà thờ trong tuần lễ khổ nạn của Chúa. Finito ăn ít, bởi trong cuộc đấu hàng năm ở Saragosse hắn đã nhận một palotazo, một nhát sừng quẹt vào, hắn đã lịm người một hồi lâu, và ngay trong lúc đó, hắn không thể nào giữ yên được thức ăn trong dạ dày. Hắn đưa mù xoa lên miệng thỉnh thoảng hắn đã phải khạc máu vào đó trong suốt bữa tiệc. Tôi muốn kể cho các đồng chí điều gì quên mất rồi kìa?

– Đầu con bò mộng – Primitivo nói – Đầu con bò mộng nhồi rơm.

– Phải rồi, Pilar. Phải rồi. Nhưng mà tôi phải kể cho các đồng chí biết rõ hơn. Các đồng chí thừa biết Finito không được vui tính gì lắm. Đúng ra hắn luôn có vẻ trầm trọng và tôi không hề thấy hắn tự nhiên lại thốt lên cười mỗi khi còn có hai đứa chúng tôi với nhau. Hắn thiếu cả óc trào phúng. Lúc nào hắn cũng đạo mạo hết. Hắn đạo mạo gần như là Fernando vậy. Nhưng mà trong bữa tiệc kia do hội những tay aficionados [3] đãi hắn và sau đó lập nên hội Finito, dĩ nhiên hắn phải tỏ ra vui vẻ và lịch sự, do đó mà trong suốt bữa ăn, hắn luôn mỉm cười và nói nhiều điều dễ thương, và chỉ có tôi là trông thấy hắn đang làm gì với chiếc mù xoa của hắn. Hắn có cả thảy ba chiếc mù xoa trong người hắn và hắn đã làm ướt đẫm cả ba. Sau đó hắn nói với tôi thật khẽ, “Pilar, anh không chịu được nữa. Có lẽ anh phải về”. “Nào thì mình cùng về vậy”, tôi nói. Bởi tôi trông hắn khổ sở lắm. Trong lúc đó, người ta vui cười tở mở chung quanh bàn và tiếng ồn ào trở nên ầm ĩ khó chịu.

– Không. Anh không thể nào bỏ đi được – Finito nói – Dầu sao đây là một cái hội mang danh nghĩa của anh và anh có nhiều ràng buộc.

– Nếu anh bịnh, thì ta chuồn. – Tôi bảo.

– Không – Hắn nói – Anh ở lại. Rót rượu manzanilla cho anh đi.

Tôi nhận thấy về phía hắn, hắn không nên uống rượu, với dạ dày của hắn đang trong trạng thái nọ, nhưng dĩ nhiên là hắn không thể chịu đựng lâu hơn nữa những cuộc vui đùa, những tràng cười cùng tất cả những tiếng động ồn ào kia. Sau đó tôi nhìn hắn uống thật nhanh gần trọn một chai manzanilla đầy. Hắn đã xài hết khăn mù xoa, bây giờ thì hắn dùng tới chiếc khăn ăn của hắn.

Giờ đây thì buổi tiệc đã trở nên cuồng nhiệt, một vài cô gái điếm nhẹ người được cổ võ và chuyền đi quanh bàn trên vai các hội viên. Người ta yêu cầu Pastora lên ca. El Nino Ricardo đánh đàn guitare. Bầu không khí thật vui vẻ, cảm động và tràn ngập tình bằng hữu. Tôi chưa bao giờ trông thấy một quang cảnh cuồng nhiệt đặc biệt flamenco [4] đến như vậy trong một buổi tiệc. Tuy nhiên người ta vẫn chưa vén mở cái đầu bò mộng ra, và đó chính là lý do của buổi tiệc đó.

Tôi đã được dịp vui đùa thỏa thích, tôi phải vỗ vào tay luôn để phụ họa với tiếng đàn của Ricardo và giúp vào việc tổ chức nhóm người phụ họa cho tiếng hát của Nina de los Peines. Lúc bấy giờ tôi chợt nhận ra Finito đã khạc đầy vào chiếc khăn ăn của hắn và hắn đã giựt lấy chiếc khăn của tôi. Hắn vẫn uống rượu manzanilla, hắn có đôi mắt thiệt sáng và ngẩng đầu nhìn từng người một cách hài lòng. Hắn không nói chuyện được nhiều bởi vì bất cứ lúc nào khi nói, hắn buộc lòng phải lấy chiếc khăn ăn ra, nhưng hắn tỏ ra vô cùng thích thú, và dù sao chính vì vậy mà hắn có mặt ở đó.

Cứ như vậy mà buổi tiệc tiếp diễn và người ngồi cạnh tôi là ông bầu cũ của Rafael el Gallo, hắn kể cho tôi nghe một câu chuyện kết thúc như vầy: Rồi thì Rafael đến bên tôi và nói: “Anh là thằng bạn tốt bụng nhất và cao quý nhất của tôi trên đời này. Tôi thương anh như một thằng anh và tôi muốn tặng anh một món quà”. Đoạn hắn trao cho tôi một cây kẹp cà vạt bằng kim cương, hắn hôn tôi ở hai bên má, và cả hai chúng tôi đều cảm động vô cùng. Sau đó Rafael el Gallo bước ra khỏi quán, và tôi nói với Renata đang ngồi nơi bàn tôi: “Cái thằng du mục bẩn thỉu đó vừa ký hợp đồng với một ông bầu khác”. Renata hỏi tôi, “Anh muốn nói cái gì? Tôi đã làm ông bầu của hắn trong mười năm nay rồi và hắn chưa hề tặng quà cho tôi”. Ông bầu của El Gallo đã bảo như vậy. Điều đó không có ý nghĩa nào khác. Nó hoàn toàn đúng như vậy và đó là cách mà El Gallo đã rời bỏ hắn.

Nhưng trong lúc đó, Pastora lại xen vào câu chuyện, hẳn không phải để binh vục tiếng tăm Rafael, bởi không ai nói xấu hắn nhiều bằng cô ả, nhưng bởi vì ông bầu đã miệt khinh bọn du mục bằng cách nói “tên du mục bẩn thỉu”. Cô ả xen vào câu chuyện một cách dữ tợn và bằng những tiếng mà ông bầu không dám dùng. Tôi cũng dự vào câu chuyện để trấn an Pastora và một ả du mục khác nữa cũng lại đến trấn an tôi. Vì có nhiều tiếng la lối om sòm nên không thể nghe người ta nói gì trừ tiếng “điếm” là nổi bật lên hơn cả, cho tới khi quang cảnh được yên lặng trở lại, ba người thuộc bọn chúng tôi đã xen vào chuyện kẻ khác lúc bấy giờ mỗi người đang ngồi nhìn ly rượu của mình. Và tôi thấy Finito với một vẻ hãi hùng trên mặt, đang nhìn đầu con bò mộng hãy con bọc trong lớp vải đỏ.

Đúng vào lúc đó, viên chủ tịch hội bắt đầu đọc diễn văn trước khi mở cái đầu bò mộng ra, trong suốt bài diễn văn được tán thưởng vang dậy với những tiếng “hoan hô” và những tiếng đập bàn, tôi nhìn thấy Finito đang dùng chiếc khăn ăn của hắn, không, của tôi, ngồi tuột trong ghế, và hãi hùng nhìn lên cái đầu được bao lại của con bò mộng đang đối diện của hắn, trông hắn như bị mê hoặc, hốt hồn.

Ở phần chót diễn văn, Finito khởi sự lắc đầu và luôn ngồi tuột sâu trong ghế.

“Sao, khá chớ cưng?” Tôi hỏi hắn và khi hắn nhìn tôi, hắn không nhận ra tôi, hắn chỉ gật đầu và nói “Không, không, không”.

Viên chủ tịch đã chấm dứt bài diễn văn và sau đó mọi người đều hoan hô hắn khi hắn bước lên một chiếc ghế để cắt sợi dây buộc vào miếng vải đỏ. Hắn chậm rãi vén mở cái đầu bò, nhưng miếng vải mắc vào một cái sừng. Hắn tháo miếng vải ra và cặp sừng nhọn hoắc, láng lẩy hiện ra. Con bò mộng to lớn màu vàng chĩa cặp sừng đen bóng, bén nhọn về phía trước, cặp sừng với những mũi nhọn bén ngót giống như những cây kim nhọn của loài nhím. Trông nó giống như cái đầu con bò còn sống, trán nó vẫn xoắn như lúc nào, hai lỗ mũi mở toang, hai mắt sáng quắc: nó ở đó và nó nhìn thẳng vào mặt Finito.

Mọi người hò hét và vỗ tay ầm ĩ, trong khi Finito vẫn lùi lại và ngồi tuột sâu trong ghế. Và rồi mọi người im bặt và nhìn hắn: hắn nói không, không, hắn nhìn đầu con bò mộng, hắn lùi ra sau nữa và nói “không” thật lớn, và máu cuồn cuộn tuôn ra. Hắn không dùng đến chiếc khăn ăn và máu chảy xuống cằm hắn, hắn vẫn nhìn đầu con bò mộng và nói: “Trọn mùa, đồng ý. Để lãnh tiền, đồng ý. Để ăn, đồng ý. Nhưng tôi không thể ăn được. Các người nghe không? Tôi đau dạ dày. Và bây giờ mùa đấu bò đã mãn: Không! Không! Không!”. Hắn nhìn quanh bàn, đoạn hắn nhìn đầu con bò mộng và hắn nói “Không” một lần nữa và cúi đầu xuống, đặt chiếc khăn ăn lên cằm. Sau đó hắn ngồi lì ở đó trong dáng ngồi như vậy, không nói gì thêm nữa. Buổi tiệc đã khởi sự tốt đẹp bao nhiêu, lẽ ra phải là một ngày đáng ghi nhớ mãi trong lịch sử vui đùa và bằng hữu, đã không mang lại một kết quả nào.

– Sau đó bao lâu thì hắn chết? – Primitivo hỏi.

– Ngay mùa đông năm ấy – Pilar nói – Hắn không bao giờ bình phục lại được sau khi lãnh nhát sừng bò mộng ở Saragosse. Điều đó còn tệ hơn là bị sừng bò húc nữa, vì vết thương thuộc phần bên trong và không chạy chữa được. Gần như là hắn đã nhận một nhát tương tự như vậy mỗi lần hạ thủ một con bò mộng, và chính vì vậy, hắn không được thành công hơn. Hắn phải vất vả tránh sừng vì lẽ vóc người hắn nhỏ. Gần như lần nào cũng vậy, hắn để cạnh sừng chạm tới hắn. Nhưng đương nhiên, hầu hết đều là những nhát nhẹ.

– Nếu hắn nhỏ người thì lẽ ra hắn không nên làm nghề đấu bò mộng. – Primitivo nói.

Pilar nhìn Jordan và ngẩng đầu lên. Đoạn bà ta cúi đầu nhìn xuống cái nồi sắt và lại tiếp tục ngẩng đầu lên.

Dân tộc gì lạ thật, bà ta nghĩ thầm. Lạ thật, cái dân Tây Ban Nha này! Và “Nếu hắn nhỏ người thì lẽ ra hắn không nên làm nghề đấu bò”. Tôi nghe và tôi không nói gì. Điều đó không đủ làm tôi giận dữ và khi tôi giải thích xong, tôi im lặng. Thật là đơn giản khi người ta chẳng hiểu gì! Qué sencillo! [5] Khi người ta chẳng hiểu gì, người ta nói: “Hắn chẳng sáng giá bao nhiêu trong tư cách của một tay đấu bò mộng”. Cũng không hiểu gì, một kẻ khác lại nói: “Hắn bị bịnh lao”. Và khi có người nào giải thích xong xuôi cho họ hiểu, thì một kẻ khác lại nói: “Nếu hắn nhỏ người thì lẽ ra hắn không nên làm nghề đấu bò”.

Giờ đây, cúi xuống bếp lửa, bà ta thấy lại hắn đang nằm trên giường, tấm thân trần trụi, nâu sẫm với những vết sẹo phù lên ở hai bên đùi, vết thương lõm sâu đã kéo da non ở dưới cạnh sườn và vết thương trắng từ bên sườn chạy dài tới tận nách. Bà ta trông thấy đôi mắt cùng với khuôn mặt trầm trọng, mái tóc đen và xoắn hất ra phía sau. Bà ta ngồi cạnh hắn trên giường, xoa chân hắn, đấm bóp những bắp thịt sưng phồng nơi mông hắn, bà ta nắn nót chúng, buông chúng ra, đoạn dùng hai tay chắp lại vỗ nhẹ vào chúng.

– Sao, khá không? – Bà ta bảo hắn – Chân cẳng thế nào, hở cưng?

– Khá lắm, Pilar ạ. – Hắn nói trong khi mắt vẫn nhắm nghiền.

– Anh có cần em xoa bóp ngực anh không?

– Không, Pilar. Đừng đụng vào đó.

– Thôi thì xoa bóp đùi anh nghe?

– Không. Anh đau lắm.

– Nhưng mà nếu em xoa bóp với dầu nóng thì nó sẽ làm cho ấm và anh sẽ bớt đau.

– Không, Pilar, cám ơn em. Anh thích tốt hơn hết là đừng đụng vào các chỗ đó.

– Để em dùng rượu lau mình cho anh nghe!

– Ừ. Nhẹ thôi nghe em.

– Với con bò mộng sau cùng, anh đấu chì lắm. – Bà ta bảo hắn.

– Ừ, anh đã giết nó rất kỹ.

Sau đó khi đã lau chùi hắn sạch sẽ và dùng tấm ra đắp lên người hắn, bà ta nằm bên cạnh hắn trên giường và hắn nắm tay bà ta, bảo: “Pilar, em là một người đàn bà tuyệt diệu”. Chưa bao giờ hắn đùa cợt vui vẻ đến như vậy và thông thường, sau trận đấu, hắn vẫn ngủ vùi. Và rồi bà ta vẫn nằm đó, nắm lấy bàn tay Finito trong hai bàn tay của bà ta và nghe hắn thở.

Hắn thường sợ hãi trong lúc ngủ. Bà ta nghe thấy bàn tay hắn co lại và trông thấy mồ hôi rịn trên trán hắn. Mỗi lần hắn thức giấc, bà ta bảo hắn: “Không có gì”, và rồi hắn lại nhắm mắt ngủ. Bà ta vẫn sống như vậy với hắn trong suốt năm năm trời và bà ta đã không hề, hay gần như không hề lừa dối hắn. Và sau đó, khi chôn cất hắn xong, bà ta bắt đầu sống với Pablo là người dẫn ngựa cho các kỳ thủ trong đấu trường và trông giống tất cả các con bò mộng mà Finito đã trải qua trọn một đời người để hạ thủ. Nhưng mà sức mạnh lẫn lòng can đảm của loại bò mộng đều chẳng bền vững. Bây giờ đây bà ta đã hiểu được điều đó. Vậy thì cái gì mới bền vững được đây? Tôi sống bền bỉ. Phải, tôi đã sống một cách bền bỉ. Nhưng tại sao mới được?

– Maria – Bà ta nói – Coi chừng đó nghe. Em nhóm lửa bếp chớ không phải đốt nhà.

Trong lúc đó, tên du mục xuất hiện trên ngưỡng cửa. Người hắn phủ đầy tuyết. Hắn cầm trong tay khẩu các bin và đang dậm chân để giũ tuyết.

– Sao?

– Cứ sáu giờ thay lính gác một lần, có hai người cùng gác trên cây cầu lớn – Tên du mục nói – Có tám người và một tên cai trong cái chòi của phu lục lộ. Đó là thời biểu mà đồng chí cần biết.

– Còn cái đồn ở trại cưa thì sao?

– Lão già đang ở đó. Lão có thể cùng lúc quan sát đồn canh lẫn con đường.

– Và con đường? – Robert Jordan nói.

– Sinh hoạt bình thường – Tên du mục nói – Không có gì lạ. Nhiều xe chạy.

Tên du mục có vẻ lạnh cóng, mặt hắn hóp lại vì lạnh và hai bàn tay hắn đỏ ửng. Hắn vẫn đứng nơi cửa vào hang, cởi áo và giũ tuyết. Hắn nói:

– Tôi đã ở đó cho tới khi chúng đổi phiên gác. Một phiên gác dài. Cũng may là tôi không có mặt trong quân đội chúng.

– Mình đi tìm lão già đi. – Robert nói vừa khoác chiếc áo da vào người.

– Không có tôi – Tên du mục nói – Tôi bây giờ thì chỉ cần lửa và súp nóng. Tôi sẽ nói với một trong đám người kia biết lão ta ở đâu để hắn có thể đưa đồng chí đi. Ê, bọn ăn bám, – Hắn kêu về phía bọn người đang ngồi nơi bàn – ai muốn dẫn Inglés tới chỗ lão già đang nằm quan sát con đường đây?

– Tôi đi cho – Fernando đứng dậy – Cho tôi biết ở đâu đi.

– Nghe này – Tên du mục bảo – Ở chỗ kia kìa… – Và hắn giải thích cho biết lão già đang ở đâu.

———————————

[1] Thế thì sao?

[2] Máy bay.

[3] Tay đấu bò tài tử.

[4] Một điệu nhạc vùng Andalousie.

[5] Thật đơn giản!


Tìm Kiếm