THẾ SỰ XOAY VẦN (Bài 2)

Lê Việt Thường

…..

Đề Tài :             KHI “NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC” XUYÊN TẠC VĂN HÓA VIỆT

 

ING.908Trong bài viết các tháng trước, chúng tôi có phát biểu như sau: “Trước khi bắt đầu với đề mục mới này của “Minh Triết Việt” và sau khi “đánh” một vòng mạng Internet để thu thập dữ kiện cho bài viết đầu tiên, thì một ý tưởng thoáng hiện trong đầu, gợi cho chúng tôi cái Tựa Đề bằng tiếng Anh là “VIỆT Bashing” tạm dịch “VN bị ‘đánh hội đồng’ ”.

Để dẫn chứng, chúng tôi xin đưa ra hai thí dụ điển hình, mà trường hợp thứ nhất đã được trình bày trong các tháng trước (1) Còn trường hợp thứ hai thì xin được đề cập cùng với Quý Độc Giả trong bài viết dưới đây:

Trường Hợp Thứ Hai:

Đại khái tác giả của một bài viết khác gần đây tuyên bố rằng Việt Nam là một Dân Tộc “Mù Chữ”!

Tác giả viết: “Kết thúc bài “Người Việt Nam lười viết“, tôi nêu lên câu hỏi: Tại sao người Việt, nói chung, lười viết thư và nhật ký như vậy?

Tôi ngờ lý do chính là tình trạng mù chữ cả hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Theo tôi, tình trạng mù chữ phổ biến và kéo dài này chính là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc định hình diện mạo của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh) Chứ không phải là truyền thống chống ngoại xâm, chống thiên tai, nạn phong kiến kéo dài hay truyền thống hoà đồng các luồng tư tưởng lớn của Đông Phương (Nho, Phật và Lão) như điều mà giới nghiên cứu văn học Việt Nam lâu nay thường khẳng định.

Cho sự mù chữ ấy là một truyền thống của Việt Nam có thể làm cho nhiều người cảm thấy như bị thương tổn. Tuy nhiên không thể vì tự ái mà né tránh sự thật. Chắc chắn hiện tượng mù chữ kéo dài ấy đã để lại rất nhiều dấu ấn trong nền văn học dân tộc. Tìm hiểu và ghi nhận những dấu ấn ấy may ra cũng là một cách để thoát dần ra khỏi nhà tù của quá khứ vốn, theo tôi, là một trong những nguyên nhân chính khiến nền văn học Việt Nam lâu nay cứ trì trệ mãi” (2)

Nhằm biện minh cho lời khẳng định của mình ở trên, tác giả lập luận như sau: “Chữ Hán, với người Việt Nam….. là thứ ngôn ngữ học thuật chứ không phải thứ ngôn ngữ giao tiếp. Về phương diện văn hoá, những trí thức chỉ biết chữ Hán là những người biết chữ, hơn nữa, có thể là một bậc thông thái, bởi vì thứ tử ngữ mà họ thông thạo ấy có thể giúp họ thu lượm được khá nhiều kiến thức kim cổ. (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh).(3)

Chúng tôi xin được phản bác lập luận trên của tác giả như sau: Có lẽ tác giả vì chưa có dịp  gọi là  “nghiên cứu” hiện tượng tương tự  trong một nền Văn Hóa khác khiến tác giả tưởng rằng đó là nét đăc thù của Văn Hóa Việt, đưa tới lối phát biểu “đao to búa lớn” như trên, trong khi trên thực tế, đó là một sự kiện đã từng xảy ra  trong lịch sử của nhiều  nền Văn Hóa khác nhau!

Xin đơn cử một thí dụ tương tự trong lịch sử nền Văn Hóa Pháp không xa lạ đối với nhiều người trong giới Trí Thức Việt.

Trong đoạn văn  nêu trên của tác giả , chỉ cần thay đổi “chữ Hán” bằng “chữ La Tinh” và “người Việt Nam” bằng  “người Pháp” thì chúng ta có thể áp dụng “nguyên con” lập luận nêu trên của tác giả cho trường hợp nước Pháp như sau:

“Chữ La Tinh, với người Pháp….. là thứ ngôn ngữ học thuật chứ không phải thứ ngôn ngữ giao tiếp. Về phương diện văn hoá, những trí thức chỉ biết chữ La Tinh  là những người biết chữ, hơn nữa, có thể là một bậc thông thái, bởi vì thứ tử ngữ mà họ thông thạo ấy có thể giúp họ thu lượm được khá nhiều kiến thức kim cổ

Thật vậy, tiếng La Tinh trong một thời gian dài hàng thế kỷ là ngôn ngữ Bác Học đối với các dân tộc  Âu Châu (riêng đối với nước Pháp, còn là ngôn ngữ trong lãnh vực Giáo Dục từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ 17), cũng như là ngôn ngữ của Giáo Hội Công Giáo.

Tiếng LaTinh còn là ngôn ngữ “sống” (tức trái với “tử ngữ” và tương tự chữ Nho đối lớp Sĩ Phu Việt trước kia) cho một số thành phần trong xã hội Pháp và Âu Châu xưa  kia như các giới Luật Sư, Giáo Sĩ, Văn Học, Khoa Học…..Những nhà chuyên nghiệp này đọc, viết và nói bằng tiếng La Tinh, ngoài tiếng “mẹ đẻ”  của họ cũng như  thường thông thạo tiếng La Tinh hơn cả tiếng “mẹ đẻ”  của họ nữa !

Tiếng La Tinh còn tỏ ra rất hữu ích giúp giới Trí Thức Pháp vào thời kỳ nói trên, giao tiếp với cái mà ngôn ngữ  ngày nay gọi là “cộng đồng quốc tế” đương thời cũng như với di sản quá khứ cùa nền Văn Hóa Tây Phương.(4)

Tác giả bài viết phát biểu tiếp:

Nhưng về phương diện văn học, theo tôi, họ lại là những kẻ mù chữ: họ không viết ra được cái thứ tiếng mà họ thường dùng để tâm tình với người thân hay thường nói thầm trong đầu, cái thứ tiếng đã tan hoà vào trong máu thịt, trong từng nhịp thở và từng giấc mơ của họ. Khối óc của họ thì ăm ắp chữ nghĩa mà trái tim của họ thì lại mù chữ. Khi muốn tự thể hiện họ, họ phải đóng vai một người khác, sử dụng một thứ ngôn ngữ khác.

Biết chữ, với người Việt Nam, chỉ có nghĩa là biết chữ Nôm hay chữ quốc ngữ. (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh).(5)

Ở đây theo  thiển ý, sở dĩ tác giả có những lời phát biểu như trên, có lẽ vì thiếu kinh nghiệm về việc học hỏi một ngoại ngữ một cách rất sớm sủa, tức  từ thuở rất ấu thơ giúp người  học đạt tới trình độ tinh  thông  ngoại ngữ nói trên không thua kém gì khi so sánh với trình độ của chính tiếng “mẹ đẻ” của mình !

Nếu làm được như trên  thì đương sự vẫn là đương sự, một con người duy nhất dẫu phải xử dụng ngoại ngữ hay tiếng “mẹ đẻ” trong công việc sáng tác, lẽ dĩ nhiên với điều kiện là khi sáng tác trong ngôn ngữ nào thì phải suy tư và cảm nghĩ trong ngôn ngữ đó. Điều tối kỵ ở đây là chẳng hạn suy nghĩ bằng tiếng “mẹ đẻ” của mình rồi tự “dịch” thầm trong đầu ra ngoại ngữ được xử dụng để diễn đạt hoặc ngược lại.

Nếu hội đủ các điều kiện nói trên thì  khối óc của đương sự  có thể vừa ăm ắp chữ nghĩa đồng thời  trái tim của đương sự  cũng  có thể đồng điệu với khối óc tức trái với lập luận nêu trên của tác giả, KHÔNG mù chữ chút nào !!!

Lẽ dĩ nhiên, vì mỗi ngôn ngữ có tinh thần và nét đặc trưng riêng của nó, thì “sản phẩm” bằng ngoại ngữ trong thực tế có thể xuất hiện  có vẻ  “tây” hơn một chút so với “sản phẩm” bằng tiếng “mẹ đẻ” nhưng trong đại thể cũng như trong hầu hết các chi tiết vẫn có thể  Nhất Quán với nhau mà hệ quả và cũng lả điều  quan trọng nhất ở đây như đã nói ở  trên và xin được lập lại rằng  đương sự vẫn là đương sự, một con người duy nhất dẫu phải xử dụng ngoại ngữ hay tiếng “mẹ đẻ” trong công việc sáng tác

 

Điều trên còn đúng hơn nữa  đối với trường hợp  chữ Nho và chữ Nôm do mối liên hệ thâm sâu và lâu đời giữa  chữ Nho, văn hóa Nho và Việt Tộc.

Thật vậy, “chữ Nho ta thấy ngày nay mới có từ đời Tần (thế kỷ thứ ba tr.c.n) và gọi là chữ Lệ. Đó là thứ chữ cuối cùng do Tần Thuỷ Hoàng thống nhất nước Tàu thì cũng thống nhất chữ Nho luôn.

Còn trước nhà Tần thì có rất nhiều kiểu viết, nhưng nổi hơn cả là chữ con quăng cũng gọi là khoa đẩu và trước nữa có chữ chân chim (điểu tích tự). Hai thứ chữ này là của Việt tộc, liên hệ ngầm với hai vật biểu Tiên Rồng của ta. Tiên là chim nên chữ gọi là chân chim; còn rồng là xà long, giao long mà long là vua loài bò sát, vì thế khi tượng hình thì ra như con nòng nọc gọi là quăng.” (6)  Hai thứ chữ này có lâu đời trước mãi tự thời  Hồng Bàng” mà nơi xuất phát của họ Hồng Bàng cũng như của nòi giống Việt nằm ở Hồ Động Đình mà đầu hồ ở phía Bắc là tỉnh Hồ Bắc và cuối hồ ở phía Nam là tỉnh Hồ Nam.

Ngoài ra, hình như có một giả thuyết về chữ Nôm được “phát kiến” sau này mà về phương diện Nguồn Gốc theo giả thuyết này, có liên hệ xa gần với các loại chữ Nho tối cổ của Tổ Tiên VIỆT vừa đề cập ở trên.   

Các lập luận vừa trình bày ở trên được đưa ra nhằm đóng góp vào việc  phản bác đoạn văn của tác giả“Nhưng về phương diện văn học, theo tôi, họ lại là những kẻ mù chữ: họ không viết ra được cái thứ tiếng mà họ thường dùng để tâm tình với người thân hay thường nói thầm trong đầu, cái thứ tiếng đã tan hoà vào trong máu thịt, trong từng nhịp thở và từng giấc mơ của họ. Khối óc của họ thì ăm ắp chữ nghĩa mà trái tim của họ thì lại mù chữ. Khi muốn tự thể hiện họ, họ phải đóng vai một người khác, sử dụng một thứ ngôn ngữ khác.

Biết chữ, với người Việt Nam, chỉ có nghĩa là biết chữ Nôm hay chữ quốc ngữ. (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh).

Tuy nhiên, ở đây chúng ta tạm giả thiết  rằng lời phát biểu  vừa nêu trên của tác giả có thể đúng đối với một vài trường hợp và chúng ta thử đặt mình trong đồng văn của giả thiết nói trên,  nhằm  so sánh giới Sĩ Phu xưa của Việt Nam với giới Trỉ Thức Pháp trong cùng một hoàn cảnh.  thì hình như tình trạng cùa giới  Sĩ Phu Việt có vẻ khá hơn nhiềư khi  so sánh với giới Trí Thức Pháp cùng thời.

Nói cách khác, và tạm tóm tắt  ý nghĩa của đoạn văn nêu trên của tác giả bằng từ ngữ “vong thân” thì đối với cái gọi là tình trạng “vong thân” mà tác giả cố “mường  tượng” ra nơi giới Sĩ Phu Việt xưa do mối tương quan giữa chữ Nho với chữ Nôm thời đó, nếu chúng ta áp dụng cùng loại tiêu chuẩn nêu trên của tác giả đối với giới Sĩ Phu Việt, cho giới Trí Thức Pháp cùng  thời, trong một hoàn cảnh và các điều kiện tương tự, thì hình như tình trang “vong thân” của giới Trí Thức Pháp tỏ ra Lớn hơn gấp bội so với giới Trí Thức Việt cùng  thời !

Ngoài ra, vấn đề  ở đây KHÔNG chỉ đơn thuần là mối liên hệ  thuần tứy giữa chữ Nho và chữ Nôm hay giữa tiếng La Tinh và tiếng Pháp, mà còn xen kẽ vào đó, vấn đề Phương Ngữ trong tiếng Việt và Phương Ngữ trong tiếng Pháp nữa !

Trong lãnh vực Phương Ngữ, tuy tiếng Việt cũng có phương ngữ như tiếng Pháp nhưng có lẽ nhờ  sự hình thành nước Việt là một cuộc “Nam Tiến” lỉên tục nên sự trở ngại do phưong ngữ hay các tiếng địa phương tạo nên không lớn đến nỗi để trở  thành Vấn Đề như trường hợp nước Pháp.

Thử so sánh sau đây số lượng cũng như một số vấn đề liên quan đến hai nước Việt và Pháp riêng về khía cạnh Phương Ngữ.

“ Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ bắc (Bắc Bộ),phương ngữ trung (Bắc Trung Bộ),phương ngữ nam (Nam Trung Bộ và Nam Bộ). Các phương ngữ này khác nhau chủ yếu ở Ngữ Âm, rồi đến Từ Vựng, cuối cùng là một chút khác biệt Ngữ Pháp.

Sự khác biệt về Ngữ Âm là nhiều nhất, nhưng có thể đoán được. Sự khác biệt về Từ Vựng có thể dẫn đến sự hiểu lầm nhiều nhất”. (7)

Tuy nhiên, nói chung đối với tiếng Viêt trừ một vài ngoại lệ, KHÔNG có Trở Ngại hay Vấn Đề Lớn  Lao nào bắt nguồn từ  Phương Ngữ.

Về khía cạnh Số Lượng cũng vậy, nếu đi sâu hơn vào chi tiết, có lẽ  tổng cộng cũng  chỉ có khoảng từ 20 đến 30 Phương Ngữ Việt mà thôi !

Nhưng đó KHÔNG phải là trường hợp của nước Pháp !

Thật vậy, một ước tính về số lượng Phương Ngữ của nước Pháp cách đây khoảng vài thế kỷ lên đến khoảng hơn 600 Thổ Ngữ (Patois).

Một cuộc thăm dò gần đây cho Atlas Linguistique de France ước tính rằng hiện nay nước Pháp có khoảng 363 Thổ Ngữ (Patois). (8)

Trước khi bàn tiếp về tình trạng Phương Ngữ của nước Pháp, và cũng nhằm soi sáng thêm vấn để này, có lẽ nên đề cập sơ qua về nguồn gốc của tiếng Pháp.

Chúng ta thường nghe nói rằng giống như tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha….., tiếng Pháp có nguồn gốc từ tiếng La-Tinh.

Trên thực tế, tiếng Pháp phải trải qua nhiều giai đoạn mới đạt được hình thức ngày nay.

Thật vậy, khi đế quốc La Mã sụp đổ tại Âu Châu do sự xâm lăng của các dân tộc gọi là “dã man” (barbare) như wisigoth, ostrogoth, burgonde, alaman, vandale….. vào khoảng thế kỷ thứ V (sau TL) thì tại Âu Châu ,tiếng La Tinh bắt đầu “chuyển động” để sau này trở thành tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha….. Nhưng đầu mối của sự “chuyển động” KHÔNG phải do tiếng La Tinh Cổ Điển của thế kỷ thứ I (sau TL) của người La Mã , mà là tiếng La Tinh thông tục mà giới bình dân của nhiều nước Âu Châu xử dụng vào thời kỳ đó.

Đối với nước Pháp, bước đầu tiên trong  tiến  trình  từ tiếng La Tinh thông tục chuyển qua tiếng Pháp hiện đại là phải qua trung gian của   tiếng “Roman” có thể được xem  là “tiền thân” của tiếng Pháp ngày nay.

Tuy nhiên, sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, hệ thống đường sá không còn được như trước kia nữa , vậy nên sự tiếp xúc giữa các vùng miền cũng như giữa các vương quốc wisigoth, ostrogoth, burgonde, alaman, vandale, …. đã trở nên hiếm hoi, do đó tiếng nói của các địa phương tuy cùng một nguồn gốc “roman”  cả, đã trở nên càng ngày càng dị biệt mà hệ quả là cái gọi là “ngôn ngữ roman thôn dã” được xử dụng tại miền Bắc nước Pháp (vương quốc người Francs) trở nên khác biệt khi cũng chính ngôn ngữ đó được xử dụng tại miền Nam nước Pháp và Tây Ban Nha (vương quốc người wisigoths) cũng như tại Ý (vương quốc người ostrogoths). Ngay cả trong chính biên giới của nước Pháp. ngôn ngữ nói trên mang những hình thức đặc thù khác nhau   tùy theo từng địa phương, nhất là giữa các vùng miền nằm ở phía Bắc và  phía Nam nước Pháp !

Tình trạng “Phương Ngữ hóa” tiến triển nhanh chóng giữa các năm 800 và 1000 (sau TL) còn trở nên nhanh chóng hơn nữa suốt thế kỷ XII và còn tiếp tục trong các thế kỷ kế tiếp.(9)

Sau phần trình bày cần thiết về tình trạng Phương Ngữ của hai nước Việt và Pháp ở trên, chúng ta thử xem mức độ ảnh hưởng của tình trạng nêu trên đối  với cái gọi là tình trạng “Vong Thân” của giới Sĩ Phu Việt cũng như  giới Trí Thức Pháp cùng  thời ( lẽ dĩ nhiên với giả thiết là có sự hiện hữu thực sự của cái gọi là  tình trạng “Vong Thân” như tác giả đã khẳng định một cách gián tiếp đối với giới Sĩ Phu Việt).

Trở lại với lập luận  của tác giả đối với vấn đề nêu trên rằng  nguyên nhân của tình trạng “Vong Thân” của giới Sĩ Phu Việt theo tác giả, nằm ở chỗ khi “Tâm Tình” với người thân hay tự nói thầm trong đầu thì bằng chữ Nôm, còn khi diễn đạt thì phải xử dụng chữ Nho.(nếu chúng tôi không hiểu sai ý của tác giả ở đây)

Tuy nhiên, hình như tác giả quên rằng các Sĩ Phu Việt không bị bó buộc là khi sáng tác là chỉ sáng  tác bằng chữ Nho  mà có thể lựa chọn giữa chữ Nho và chữ Nôm. Mà  điển hình nhất  có lẽ là trường hợp của Đại Thi Hào dân tộc Nguyễn Du, ngoài những tác phẩm bằng chữ Nho bình thường, Thi Bá  lại còn sáng tác tuyệt phẩm của minh là “Đoạn Trường Tân Thanh” hay “Truyện Kiều” bằng chữ Nôm, chứ không bằng chữ Nho !

Vậy nên, khi so sánh với tình trạng sáng tác của giới Trí Thức Pháp cùng thời thì giới Sĩ Phu Việt tỏ ra may mắn hơn nhiều. Lý do là Sĩ Phu Việt tuy thường sáng tác bằng chữ Nho, nhưng khi cần hay muốn, có thể sáng tác bằng chữ Nôm.

Trong khi đó, đối với Trí Thức Pháp cùng thời, tương đương với chữ Nôm, (mà theo tác giả  đó là  loại ngôn ngữ được xử dụng khi “Tâm Tình” với người thân hay tự nói thầm trong đầu), là “ngôn ngữ roman thôn dã” tức một phương ngữ hoặc thổ ngữ gốc “roman” của vùng miền nơi đây đương sự đang sinh sống chứ hoàn toàn KHÔNG phải là tiếng Pháp vì cái gọi là “tiếng Pháp” thời đó không có ý nghĩa rõ ràng vì từ ngữ này có thể được xử dụng để chỉ những thực thể  rất khác nhau  như chẳng hạn phương ngữ hay thổ ngữ của vùng quanh Paris (Ile de France) hoặc trái lại   thứ ngôn ngữ đặc thù của Triều Đình Pháp hay có khi  ngay cả những thổ ngữ của miền Bắc nước Pháp như picard, champenois, normand…vvv…(10)

Ngoài ra, khác với chữ Nôm đối với Sĩ Phu Việt, giới Trí Thức Pháp cùng thời KHÔNG thể xử dụng một phương ngữ hoặc thổ ngữ gốc “roman” để sáng tác được !

Mà khi phải sáng tác bằng tiếng  La Tinh hay ngay cả  bằng tiếng Pháp thời đó thì đối với đa số trong giới Trí Thức Pháp cùng một thời kỳ, nếu nhất quán  với lối lập luận của tác  giả,    đều có  thể rơi vào tình trạng “Khối óc của họ thì ăm ắp chữ nghĩa mà trái tim của họ thì lại mù chữ” (đối với thổ ngữ gốc “roman” nơi họ sinh sống mà trên thực tế là tiếng “mẹ đẻ” của họ. “Khi muốn tự thể hiện họ, họ phải đóng vai một người khác, sử dụng một thứ ngôn ngữ khác( tức tiếng La Tinh hoặc tiếng Pháp thời đó).

Tóm lại, KHÁC với trường hợp của chữ Nôm đối với Sĩ Phu Việt, cái gọi là “tiếng Pháp” vào thời đó như đã đề cập ở trên  thường KHÔNG thực sự là tiếng “mẹ đẻ” của đa số Trí Thức Pháp cùng một thời kỳ. Mà tiếng “mẹ đẻ” thực sự của Trí Thức Pháp thời đó là một  phương ngữ hoặc thổ ngữ gốc “roman” có khi rất khác xa với cái gọi là ‘tiếng Pháp’ thời đó và nhất là KHÁC với trường hợp chữ Nôm vừa là tiếng “mẹ đẻ” vừa là ngôn ngữ mà Sĩ Phu  Việt có thể xử dụng để sáng tác (dẫu là ngôn ngữ hang nhì so với chữ Nho) Trí Thức Pháp cùng thời  thường KHÔNG thể xử dụng  để sáng tác, “tiếng mẹ đẻ” của họ vì là một   phương ngữ hoặc thổ ngữ gốc “roman” !

Và đó mới chính là BI KỊCH của giới Trí Thức Pháp vào thời kỳ nói trên !!!

 

Tác giả viết tiếp:”…..quan trọng hơn, thứ chữ ấy chưa bao giờ thực sự được coi trọng. Trong tâm lý của dân chúng, Nôm đồng nghĩa với quê mùa (nôm na); hơn nữa, đồng nghĩa với cả sự thiếu đứng đắn và đáng bị khinh bỉ (nôm na là cha mách qué). Cả giới cầm bút cũng không thoát khỏi tâm lý ấy, xem những tác phẩm bằng chữ Nôm là lời quê (“Lời quê góp nhặt dông dài”). Các tuyển tập văn học lớn của Việt Nam ngày xưa, từ Trích diễm thi tập của Hoàng Đức Lương (đầu đời Lê) đến Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích… đều chỉ tập hợp các tác phẩm bằng Hán văn. Ngay đến giữa thế kỷ 19, khi viết lời tựa cho cuốn Hoa Tiên, Cao Bá Quát cũng còn phân vân: “Than ôi ! Lấy quốc ngữ [tức chữ Nôm] mà làm văn chương thì ta chưa dám”.

Nếu như tác giả vừa đề cập ở trên, chữ  Nôm  đối vói chữ Nho có vẻ  bị “kỳ thị” trên đất Việt , thì một hiện tương tự cũng đã từng xảy ra cho tiếng Pháp đối với tiếng La Tinh trên đất Pháp vậy thôi !

Thật vậy, tại Pháp cách riêng và tại Âu Châu cách chung, tiếng La Tinh không những là ngôn ngữ của đạo Công Giáo, do đó là ngôn ngữ của giới Giáo Sĩ  và các tu viện Công Giáo, mà còn là ngôn ngữ độc nhất được xử dụng  trong các lãnh vực Giáo Dục, Tư Pháp và tại các dinh Chưởng Ân,  đồng thời cũng là ngôn ngữ của Khoa Học và Triết Học vào thời kỳ nói trên.(11)

Giới Trí Thức Pháp và Âu Châu thời đó còn xử dụng tiếng La Tinh, như chuyển ngữ trong thế giới Công Giáo. Vậy nên, các ông Hoàng của vương quốc Pháp thời đó tự cảm thấy ít nhất trên nguyên tắc, phải biết tiếng La Tinh. Về vấn đề này, thi sĩ Eustache Deschamps (1346-1407) chẳng hạn, khẳng định một cách ví von rằng một ông Vua “mù chữ” (tức không biết tiếng La Tinh) là “một con lừa đội vương niệm” ! (12)

Giới Trí Thức Pháp thời đó do sự kiện được   thấm nhuần với tiếng La Tinh từ rất sớm sủa ,  cũng như  bị “lóe mắt” bởi các  kiệt tác của thời Cổ Đại, thường có thái độ  rất  “ khinh thường” đối với tiếng Pháp thời đó đến nỗi họ gọi thứ tiếng này là “ ngôn ngữ của những kẻ ngu dốt” (la langue des ignorants).(13)

Tóm lại, KHÔNG chỉ chữ Nôm bị “khinh thường” đối với chữ Nho trên  đất Việt, tiếng Pháp cùng thời cũng gặp một tình cảnh tương tự đối với tiếng La Tinh trên  đất Pháp  vậy !!!

Tác giả viết tiếp: “Trước hết, trong hoạt động xuất bản miệng, chúng ta chỉ làm quen với khía cạnh âm thanh của ngôn ngữ, do đó, dù muốn hay không, khía cạnh âm thanh của ngôn ngữ cũng dần dần nổi bật: cho đến nay, phần lớn người Việt Nam vẫn còn bị mê hoặc bởi những câu văn mang hơi hướm biền ngẫu du dương và trầm bổng. Dần dần, một cách tự phát, chúng ta ít nhiều đồng nhất cái đẹp của văn chương với việc thuận tai. Điều này chắc chắn là gây nhiều ảnh hưởng tai hại trong lãnh vực thẩm mỹ: nó dẫn đến ưu thế của sự tròn trịa, êm ái, ngân nga. Thơ, do đó, cứ oằn mãi dưới gánh nặng của những vần điệu dễ dãi và quen thuộc. Từng được thử nghiệm cả hơn nửa thế kỷ, đến nay, thơ tự do vẫn chưa được quần chúng công nhận là… thơ có lẽ cũng vì thế”.

Lề lối “lập dị, làm những điều không giống ai, trái với tự nhiên mà tác giả có vẻ chủ trương qua đoạn văn vừa đề cập ở trên, thật ra không mới mẻ gì vi chính tại đất Pháp, ở thế kỷ XIV, ngươi ta đã tìm ra một kẻ có hành vi rất  tương tự: đó là  Nicolas Oresme  (1320-1382):

Tay” này cũng tỏ ra  “lập dị” không kém Tác giả khi tuyên bố:”Điều thích hợp không phải lả xử dụng những chữ  thuận tai mà là những từ ngữ đặc thù trong lãnh  vực Khoa Học ít nghe nói tới  hay biết tới.  Các từ ngữ càng khó hiểu và hiếm thấy hoặc hiếm nghe  thì càng thích hợp với các bài viết có tính cách bác học”(14)

Thái độ lập dị, làm những điều  không giống ai, trái với tự nhiên của Nicolas Oresme gặp phải sự chỉ trích, phê phán kèm với những lời phản bác mạnh mẽ đến từ giới Trí Thức, chuyên gia đứng đắn, đàng hoàng thời đó tại Pháp, được phản ảnh qua nội dung của  tác phẩm chuyên luận thời đó có tựa đề “Le Jardin de Plaisance et fleur de rhétorique” mà chúng tôi xin được trích một đoạn sau đây:

Thói hư tật xấu thứ năm là sự ‘bày đặt’ ra các từ ngữ mới hoặc bị “La Tinh hóa” một cách  quá đáng, hoặc bị “làm biến chất”  bởi những chữ  rất “chói tai nghịch nhĩ” mà lý do là các từ ngữ này  hoặc vì bị đưa vào một cách gượng ép, trái tự nhiên hoặc bị vay mượn một cách  bừa bãi từ tiếng La Tinh.(15)

Sau khi xem xét một cách Tổng Quát chung chung , có lẽ đến lúc chúng ta thử nhìn vấn đề dưới khía cạnh Thống Kê như Tác giả có vẻ gợi ý sau đây. Tác giả viết:

“Cuối cùng, như là hậu quả của tất cả những sự kiện trên, chữ Nôm chưa bao giờ được phổ biến sâu rộng. Số người biết chữ Hán đã ít; số người biết chữ Nôm hẳn lại càng ít hơn.

Ít là bao nhiêu? Theo David G. Marr, tác giả cuốn Vietnamese Tradition on Trial 1920-1945, vào cuối thập niên 30 của thế kỷ này, khoảng 10 phần trăm dân số Việt Nam biết chữ; trước đó hơn 10 năm, vào giữa thập niên 1920, con số này chỉ hơn năm phần trăm mà thôi. Trước thế kỷ 20, trong thời Hán học thì sao? David G. Marr đoán là có thể đến khoảng 25 phần trăm những người trên 15 tuổi có thể biết khoảng vài trăm từ Nôm và Hán Việt đủ để đọc được gia phả và các loại văn bằng hay khế ước thông thường . Không ai biết chính xác con số những người biết chữ Hán và chữ Nôm đến trình độ có thể sáng tác hay thưởng thức các tác phẩm văn học. Nhưng khó tin được là nó vượt quá năm phần trăm dân số.(LVT  viết chữ nghiêng và nhấn manh).(16)

Muốn cho việc so sánh đạt được phần nào trình độ  Nhất Quán hầu có được một sự Công Bằng tương đối, thì có lẽ phải so sánh tình trạng chữ Nôm ở thời Nho Học cực thịnh mà theo Tác giả là trước thế kỷ 20 , với tình trạng tiếng Pháp ở thời “La Tinh học” cực thịnh thường được cho là kéo dài cho đến tận thế kỷ XVII , ngay cả thế kỷ XVIII.

Tóm lại, về chữ Nôm, dựa trên tài liệu và lập luận của David G. Marr, Tác giả cho rằng có thể đến khoảng 25 phần trăm những người trên 15 tuổi có thể biết khoảng vài trăm từ Nôm và Hán Việt đủ để đọc được gia phả và các loại văn bằng hay khế ước thông thường và “Không ai biết chính xác con số những người biết chữ Hán và chữ Nôm đến trình độ có thể sáng tác hay thưởng thức các tác phẩm văn học. Nhưng khó tin được là nó vượt quá năm phần trăm dân số.”(LVT  viết chữ nghiêng và nhấn manh).

Trong khi đó, về chữ Pháp, ở thế kỷ XVII dưới triều  vua Louis XIV, người ta ước tính dân số của nước Pháp thời đó là 20 triệu thì chưa đầy 1 triệu người Pháp, tức chưa đầy 5% dân số Pháp  biết nói tiếng Pháp thời đó. Trong số đó, người ta ước tính có khoảng 40.000 người Pháp thời đó tức chưa đầy 1% dân số Pháp  biết đọc(17) huống hồ  đạt  đến trình độ có thể sáng tác hay thưởng thức các tác phẩm văn học như Tác giả muốn áp dụng ở trên đối với chữ Nôm !

Qua thế kỷ XVIII,dưới thời Cách Mạng Pháp người ta ước tính dân số của nước Pháp thời đó là 25 triệu thì chưa đầy 3 triệu người Pháp, tức chưa đầy 12% dân số Pháp  biết nói tiếng Pháp thời đó (18) chưa nói đến các chuyện khác như biết đọc hay đạt  đến trình độ có thể sáng tác hay thưởng thức các tác phẩm văn học!

Phần trình bày nêu trên được đưa ra nhằm so sánh (một cách Tổng Quát cùng với sự hỗ trợ của một chút Ước Tính và Thống Kê),   trong quá khứ, mối liên hệ giữa chữ Nôm và chữ Nho đối với giới Sĩ Phu Việt một bên, và bên kia mối tương quan giữa tiếng Pháp và tiếng La Tinh đối với giới Trí Thức Pháp ( mà ai trong chúng ta đều biết rằng cái  gọi là “giới Tây Học” Việt ngày nay, trong đó hình như có “Tác giả” thường y cứ trọn vẹn trên các Phạm Trù, Tiêu Chuẩn trong các địa hạt Thẩm Mỹ, Lý Luận, Phê Bình…vvv… của nền Văn Học Pháp cách riêng, và nền Văn Học Tây Phương cách chung , thường đươc giới này xem như là  “khuôn vàng thước ngọc”), thì qua các điều vừa được trình bày ở trên, không những tình trạng của chữ Nôm đối với chữ Nho, khi so với tình trạng của tiếng Pháp đối với tiếng La Tinh trong quá khứ KHÔNG tỏ ra “Lép Vế” chút nào mà tình thế có vẻ hoàn toàn  NGƯỢC  LẠI  là đàng khác !!!

Tóm lại, phần trình bày trên đây cho thấy Dân Tộc VIỆT tỏ ra KHÔNG MÙ CHỮ CHÚT NÀO như Tác giả Cáo Buộc một cách Bất Công, Oan Uổng trong Bài viết của minh, khi đem so sánh vời Bất Cứ Dân Tộc Nào khác trong dòng Lịch Sử, kể cả dân “Pha Lang Sa” mà  đa số trong cái gọi lả “giới Tây Hoc” thường xem như là “Mẫu Mực” trong lãnh vực Văn Học !!!

…..

Kết luận có thể rút tỉa từ phần trình bày ở trên là hình như có một sự NGỘ NHẬN Trầm Trọng từ  phía Tác giả bài viết liên quan đến chữ Nôm, chữ Nho, giới Sĩ Phu Việt và cuối cùng đối với chính Nội Dung của nền Văn Hóa  VIỆT !

Về những Nguyên Nhân dẫn đến tình trạng nói trên, Tác giả có lẽ chia sẻ một số với những kẻ tự nhận  là “giới Tây Học” nói chung, còn một số nguyên nhân khác có lẽ bắt nguồn từ Tính tình, Nghề nghiệp, lãnh vực Chuyên môn cũng như những Thành kiến lâu đời của chính Tác giả, khiến cho tình trạng Ngộ Nhận trở nên trầm trọng hơn bình thường !

Về những Ngộ Nhận CHUNG của “giới Tây Học” có lẽ bắt nguồn từ “Mặc Cảm Nhược Tiểu” của giới này đối vói nền Văn Minh Tây Phương mà hệ quả như đã đề cập  ở trên,  là giới này  thường y cứ trọn vẹn trên các Phạm Trù, Tiêu Chuẩn trong các địa hạt Thẩm Mỹ, Lý Luận, Phê Bình…vvv… của nền Văn Hóa Tây Phương, mà thường KHÔNG có chút Phán Đoán nào về chính Giá Trị của các Tiêu Chuẩn, Phạm Trù  mà họ noi theo !

Hình như,  họ quên hay không biết rằng phần lớn những cái gọi là  “Phạm Trù, Tiêu Chuẩn” nói trên hiện hữu từ thời Thực dân Thuộc địa,  đã trở nên LỖI THỜI từ lâu và đã bị chính các Thành phần Ưu tú Nhất  của giới Trí thức Tây phương ngày nay đặt lại  vấn đề trong mọi địa hạt: Triết học, Chính trị,  Tâm lý, Xã hội, Nhân chủng, Khoa học, Môi sinh…vvv…

Trong khi  những cái gọi là  “Phạm Trù, Tiêu Chuẩn” đã bị những  Trí thức Ưu tú Nhất của Tây phương ngày nay “từ khước” vì LỖI THỜI như vừa đề cập ở trên,  thì lại được “tái chế biến” bởi những kẻ  tự nhận là thuộc  “giới Tây Học” gốc Việt ngày nay như là cái gi MỚI MẺ ! Đúng là cái vòng Luẩn Quẩn !

Thời Thượng nhất hiện nay trong đám tự nhận lã “Trí thức Việt” ngày  nay có lẽ là từ ngừ DUY LÝ đến nỗi được một Diễn Đàn xử dụng như yêu tố căn bản làm nên nội dung ‘Logo” của nhóm họ ! Về khía cạnh “thời thượng”, tiếp theo sau “Duy Lý” có lẽ là từ ngữ TRỪU TƯỢNG!

Trong khi đó, tính “Duy Lý” là điều mà các Triết gia Cự phách nhất của Tây phương cận đại như F.Nietzsche, K. Jaspers, M.Heidegger  gán cho Triết Cổ điển Tây phương bị các Vị này  Chê là từ Socrates vì cắt đứt với dòng Truyền thống Tâm linh Chung của Nhân loại, Triết Tây đã trở thành một môn học chuyên biệt cho một thiểu số cũng như không còn thực sự ơn ích gì cho Cuộc sống nữa cả!

Trong cùng chiều hướng,  Giáo sư Triết học nổi tiếng G. Gusdorf cũng nhận xét rằng Triết Cổ điển Tây phương “chỉ là trỏ chơi của lý trí đăt bên ngoài cuộc sống cụ thể”.

Không những là một trò chơi vô bổ , Triết Cổ điển Tây phương  khi đưa Lý Trí cùng với thế giới Lý Niệm của Plato lên đóng vai trò Độc Tôn còn là Nguyên nhân của các thứ bệnh DUY độc hại  bên trời Tây: như “Duy Tâm-Duy Vật”…. đưa tới chiến tranh Ý Thức hệ đã nhiều lần đặt  Nhân loại bên bờ vực thẳm của sự Diệt Vong !

Mặt khác, khi nghiên cứu Văn Hóa Việt, những đầu óc tự nhận là “Tây Học” thường bắt chước các tay “Duy Lý” Tây Phương  nên chê Văn Hóa Việt và những người nghiên cứu đúng đắn nền Văn Hóa Việt là “đầy cảm tính” !

Họ quên hay không biết rằng Triết Hiện Sinh là một tiến bộ so với Triết Cổ Điển, chủ trương rằng Triết Học phải trở lại với con người KHÔNG phải trừu tượng mà  con người cụ thể có thịt có xương có cảm tính. Như vậy, Hiện Sinh của Tây Phương là một Tiến Bộ, một bước đi gần lại với Văn Hóa Đông Phưong dầu chưa đạt đích, có cùng chung chủ trương với Minh Tríết Việt.

Lý do như khoa Tâm Lý học ngày nay cho thấy, trong con người Toàn diện, Lý trí Ý thức chỉ  chiếm khoảng 1/10, 9/10 còn lại bao gồm Cảm xúc, Tình cảm, Bản năng, Tiềm thức, Vô thức…..Vì là một nền Triết Lý Nhân Sinh toàn diện nên không chỉ dạy suy tư bằng Lý Trí , Minh Triết Việt còn dùng đến Cảm Tính cho mục tiêu Giáo Dục, nhưng ở đây “Cảm Tính” không dừng ở đợt cảm xúc, tình cảm sướt mướt của cá nhân ích kỷ lãng mạn theo kiểu Tây Phương, mà “Cảm Tính” đã được hun đúc, tinh luyện để tiến sâu vào Nội Tâm nhằm thực hiện một cuộc Thể Nghiệm Tâm Linh nhằm đạt được trạng thái Tâm Thức “Chí Công Vô Tư” vượt lên trên tình trạng Mâu Thuẫn giữa hai thế giới “Chủ Quan” và “Khách Quan” !

Tóm lại, giống như Triết Nho là một Đạo Hành Vi , Minh Triết Việt hay Triết Lý Việt Nam là một Đạo Sống mà hệ quả là Triết Việt cũng như Triết Nho KHÔNG hạn chế vào một chiều  kích nào như triết học Duy Niệm Tây Phương tự ghép mình vào cơ năng Lý Trí. Nhưng đây là cả một nền Đạo Lý bao la gồm con người Cụ Thể bằng xương, bằng thịt không những có lý trí, mà còn có tâm tình, tiềm thức, ý chí, siêu thức …..Một con người Đa Kích (multidimensional) ăn thông với Thiên, với Địa, với Vũ Trụ, Vạn Vật.(19)

Trong khi đó, 25 thế kỷ Triết Tây là “lịch sử” của một nền Triết Học DUY LÝ “lạnh lẽo, thoát xác, vô hồn”được xử dụng như  “trò chơi chữ nghĩa” “ vô thưởng vô phạt” cho lớp Trí Thức “Salon””, chưa bao giờ thoát ra khỏi “bốn bức tường Hàn Lâm” để trở thành một Đạo Sống như nền Minh Triết Đông Phương cả !

Thật ra, có một lần muốn “phiêu lưu” vào lãnh vực Chính trị với Ý Thức hệ MÁC-XÍT thì Triết Tây đă gây ra một Thảm Họa Khôn Lường cho Nhân Loại  mà nước Việt Nam thân yêu của chúng ta vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng Độc Hại của nó!

Trên đây  tạm gọi là bảng Tổng Kết sơ lược về cái gọi là “25 thế kỷ Triết Học DUY LÝ” Tây Phương mà “giới Tây Học” gốc Việt ngày nay có vẻ đang hãnh diện  được Xúng Xính  trong đó như trong một bộ quần  áo  MỚI với dáng vẻ “trịnh trọng” của  một “trưởng giả học làm sang” !

Tuy nhiên, mặt khác, về các tiêu chuẩn thường được mệnh danh là  “khoa học” , “khách quan” liên quan đến các vấn đề như nguồn gồc, tư liệu hay công việc lượng giá, thẩm định thường dùng nhiều Lý Trí cùng với các lý luận, chứng cớ, nếu biết Giới Hạn trong việc xử dụng  chúng như các yếu tố cần thiết của Phương Pháp nghiên cứu trong các lãnh vực liên hệ, thì điều  này cũng  chỉ nằm trong các sinh hoạt bình thường của công việc Khảo Cứu Hàn Lâm mà thôi ! Lẽ dĩ nhiên với điều kiện là chúng KHÔNG được xem là những Tiêu Chuẩn Duy Nhất hoặc Độc Tôn trong công việc Nghiên Cứu nền Văn Hóa VIỆT!

Nhưng đang tiếc đó là điều thường xuyên xảy ra, tức lả “giới Tây Học” gốc Việt thường có khuynh hướng xem như những Tiêu Chuẩn Độc Nhất những Giá Trị trên thực tế Chỉ Đúng đối với nền Văn Hóa Tây Phương mà thôi, lại muốn một cách rất chủ quan Cưỡng Bách, Áp Đặt chúng trong việc Nghiên Cứu nền Văn hóa VIỆT mà KHÔNG bày tỏ  một Nỗ Lực tối thiểu nào nhằm thích nghi chúng với Môi Trường   của nền Văn Hóa VIỆT cả !

Muốn HIỂU về phương diện NỘI DUNG,  Văn Hóa VIỆT nói riêng và Văn Hóa Viễn Đông nói chung KHÁC BIỆT như thế nào với Văn Hóa Tây Phương , có lẽ cần phải trở lại với cái mà chúng tôi thường gọi trong một loạt bài viết trước đây là   “Khúc Rẽ giữa Triết Đông và Triêt Tây”.

Sau ‘Khúc Rẽ” nói trên, bên Viễn Đông, Truyền Thống Tâm Linh vẫn tiếp tục, do đó sau cũng như trước Khổng Tử, Nho Giáo vẫn là một ĐẠO SỐNG. Trái lại, bên Tây Phương, Triết Học đã tách rời khỏi Minh Triết, để trở thành DUY LÝ, dưới hình thức một Tri Thức luận, một lãnh vực Chuyên Môn mà hệ quả là sau “Khúc Rẽ”, Triết Tây vì  quá nhấn mạnh đến Luận Lý Học HÌNH THỨC  nên không còn  ảnh hưởng gì nhiều trên Đời Sống thực tế  cả !

Trong khi đó, đối với Triết Đông, như đã nói ở trên, Đời Sống  có tính cách Toàn Diện chứ không chỉ giới hạn nơi Lý Trí (Duy Lý), vì Sống đòi hỏi không chỉ có Suy Tư mà còn biết Cảm Xúc cũng như cả Hành Động tiến tới Hiện Thực nữa.

Tóm lại, đối với thành phần  Ưu Tú nhất trong giới Trí Thức Tây Phương ngày nay, DUY LÝ kèm với các thứ Duy” khác, là Căn Bệnh Trầm Kha của truyền thống Văn Hóa Tây Phương mà họ cảm thấy  phải “ra tay” chữa trị  , thì trái lại  khi  “nhập cảng” vào VN ngày nay , cái gọi là “Duy Lý” lại trở thành một phong trào  Thời Thượng !

Do đó, không lạ gì mà giới Tây Học” gốc Việt hiện nay đang mắc phải Căn Bệnh “Sính”  HÌNH THỨC của Văn Hóa Tây Phương truyền thống !  Riêng đối với Tác giả bài viết, có lẽ do Tính tình, Sở thích cũng như lãnh vực Nghề nghiệp, Chuyên môn (Phê Bình Văn Học), “căn bệnh Hình Thức” có vẻ  còn “trầm trọng” hơn trường hợp bình thường nữa !

Chẳng hạn, Tác giả viết: “Trong tâm lý chỉ thích kể chuyện và nghe kể chuyện, các yếu tố kỹ thuật và ngôn ngữ bị xem là thứ yếu. Cả đến văn bản cũng trở thành thứ yếu. Thói quen này biểu hiện rất rõ trong cả việc giảng dạy lẫn việc phê bình và nghiên cứu văn học của chúng ta: chỉ thích sa đà trong các vấn đề chung chung về bối cảnh lịch sử, tiểu sử tác giả và việc tóm tắt cốt truyện nhưng rất ít khi dừng lại phân tích các yếu tố hình thức trong từng tác phẩm cụ thể. (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh).(20)

Hoặc trong một bài viết của Tác giả trước đây: “Đã đành dân tộc nào vào thuở sơ khai khi chưa có chữ viết hoặc chưa có điều kiện in ấn cũng đều yêu chuộng hình thức chuyện kể. Tuy nhiên hình như ở Việt Nam, lòng yêu chuộng ấy sâu đậm một cách khá đặc biệt. Sâu đậm đến độ , với người Việt Nam, quá khứ không có gì khác ngoài các câu chuyên kể…..chúng ta kể đi kể lại không biết mệt mỏi từ chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đến Trọng Thủy phản bội Mỵ Nương, chuyện Thánh Gióng  nhổ tre đánh giặc , chuyện Trưng Trắc trả thù chồng …..” (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh).(21)

Hoặc: “Cuối cùng, khuynh hướng truyền miệng kéo dài cũng góp phần ngăn cản việc đa dạng hoá các phong cách văn học. Tồn tại dưới hình thức truyền miệng là một cách tồn tại vô hình và thường thì vô danh. Nó không giống hình thức tồn tại dưới dạng sách với một hình thù nhất định để gợi ra cho người đọc và cả người viết ý niệm về cấu trúc, về hệ thống, về các yếu tố hình thức của nghệ thuật; với một cách đọc thầm lặng và cô độc để gợi ra ý niệm về nhu cầu diễn dịch và phân tích, từ đó, làm nở rộ các hoạt động phê bình và nghiên cứu văn học; và với một tên tác giả nhất định để gợi cho người đọc và cả người viết ý niệm về bản sắc cá nhân. Tính chất truyền khẩu đã làm cho hàng ngàn câu ca dao từ vô số địa phương khác nhau trở thành hao hao như nhau: đó là một sinh hoạt tập thể, mang nặng tính chất tập thể” (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh).(22)

Thì quả là như thế ! Hay nói cho được chính xác hơn, các sinh hoạt Văn Hóa trong nước VIỆT Truyền Thống có   tinh cách CÔNG THỂ (communautaire), chứ KHÔNG phải  lả Tập Thể như Tác giả vừa phát biểu ở trên. Lý do  là từ ngữ “Tập Thể” dễ khiến người  ta liên tưởng đến phong trào Cộng Sản dựa trên “Đoàn Lũ” (Masse) mà về phương diện Triết Học, liên quan đến ý niệm TỔNG CỘNG (chứ KHÔNG phải Tổng Hợp). Mà hệ quả là “Đoàn Lũ”chỉ là sự Cộng Lại của nhiều  Cá Nhân thuần khía cạnh  vật chất trứ hình, lấy bên ngoài làm chính, do đó thường có tính cách Bó Buộc, Cưỡng Bách kiểu Cộng Sản  nên cần phải gia tăng kiểm soát, giăng bủa nhiều tầng lưới công an, cảnh sát, mật vụ. Lề lối này của Cộng Sản là nhằm  PHẢN ỨNG lại cá nhân chủ nghĩa và tình trạng ý hệ đa tạp lung tung của truyền thống Văn Hóa Tây Phương,

Tóm lại, “giới Tây Học” gốc Việt trước đây chỉ biết có một sự Lựa Chọn duy nhất là giữa  cá nhân chủ nghĩa của Tư Bản một bên, và bên kia là đoàn lũ chủ nghĩa của Cộng Sản. Điều trên có lẽ cũng  là một trong những  Nguyên Nhân  gây  ra tình trạng  NGỘ NHẬN nơi Tác giả bài viết đối với Văn Hóa VIỆT, khiến cho Tác giả ở đây chẳng hạn,  có vẻ muốn “đồng hóa”  tính cách “tập thể đoàn lũ” của phong trào Cộng Sản với tinh thần Công Thể  của  truyền thống  Văn Hóa VIỆT.

Tuy nhiên, về tinh thần Công Thể, Học Giả Paul Mus có nhận xét thật  đúng đắn như sau: “Trí thức không còn nhận định nổi được rằng thôn dân thích bị nuốt trôi vào Công Thể, vì nó không là đoàn lũ nhưng là Công Thể đầy ắp tình người, nên đi đâu mặc, không sao quên được nơi quê tổ, nơi có bàn thờ tiền nhân. Những người đi làm trong các đồn điền được dư đồng nào hầu hết đều gửi về nhà. Và sau khi hết hạn khế ước thì liền ra đi trở về với quê cũ, bỏ lại nơi đồn điền cái nhà đẹp hơn nơi quê, bỏ lại người vợ tạm mà thói tục cho phép lấy trong lúc “đất khách quê người”  trước sự ngạc nhiên của người Tây phương, của trí thức trưởng giả đô thị…”(23)

Chắc Quý Độc Giả thấy ngay sự Khác Biệt NỀN TẢNG ở đây, một bên với tinh thần Công Thể là  tính TỰ NGUYỆN  của người Dân trong xã hội Truyền Thống VIỆT có thể được xem như  Điển Hình cho xã hội  Loài Người cách chung với đầy Nhân Tính,  và bên kia như đã nói ở trên,  tính cách Bó Buộc, Cưỡng Bách của xã hội Bầy Đàn kiểu Súc Vật  như ta còn thấy  trong xã hội CHXHCN tại VN ngày nay chắng  hạn !

Tuy nhiên,  còn một Vấn Nạn nữa là  làm sao giải thích tính cách HẤP DẪN  của Tinh Thần CÔNG THỂ  hay nói một cách khác Mãnh Lực  nào, xuất phát từ đâu ?  như Paul Mus vừa đề cập ở trên, khiến người thôn dân xưa thích bị nuốt trôi vào Công Thể !!!

Phải chăng CHỈ  vì Tâm Lý TÒ MÒ  thích kể chuyện và nghe kể chuyện về các điều liên quan đên Tiền Nhân Việt như Tác giả gợi ý ở trên: “ chúng ta kể đi kể lại không biết mệt mỏi từ chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đến Trọng Thủy phản bội Mỵ Nương, chuyện Thánh Gióng  nhổ tre đánh giặc” ? hay vì những lý do nào khác quan trọng hơn ?

Viết như trên  chứng tỏ Tác giả KHÔNG “nắm vững” nội dung các khoa mới nhất như Huyền Sử, Huyền Thoại học….. cùng với những khám phá gần đây trong lãnh vực Nhân Văn như trong các khoa Phân Tâm học, Tâm Lý miền sâu….liên quan đến  các vấn đề Huyền Sử, Huyền Thoại.

Thật ra, Âu Cơ, Lạc Long Quân, Thánh Gióng…. không nhất thiết  là những “Nhân Vật” lịch sử cho bằng và  chính yếu là những SƠ NGUYÊN TƯỢNG (Archetype) xuất phát từ Vô Thức Cộng Thông (Collective Unconscious) của dân tộc Việt . Do đó, ở đây KHÔNG  đơn thuần là vấn để   thích kể chuyện và nghe kể chuyện do bản tính Tò Mò hay vì lý do tầm thường nào khác như Tác giả lầm  tưởng,  mà thực ra thì cứ mỗi lần kể hay nghe kể  là một dịp cho người dân Việt truyền thống cùng với “Sơ Nguyên Tượng”   SỐNG LẠI các biến cố làm nên Công Nghiệp của Tiền Nhân Việt !

Chẳng hạn về  huyền thoại “ba vĩ tích của Lạc Long Quân”. Huyền sử kể rằng Lạc Long Quân đã tiêu diệt được Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh. Câu chuyện có nghĩa rằng Lạc Long Quân đã chống lại văn minh phương Bắc (Ngư tinh cá sống dưới nước, Bắc phương thuỷ; phương Tây là Hồ tinh: vật tổ thú; Mộc tinh = phương Đông) để duy trì văn hóa phương Nam hành Hỏa, chính ngọn lửa này đã nung đỏ khối sắt (hồng = Viêm nhiệt) liệng vào miệng con Ngư tinh, có nghĩa là lấy văn hóa Viêm tộc chống văn hóa của quần chúng thủy tộc (Bắc phương). Đó cũng chính là ngọn lửa đã phun ra tự miệng con ngựa của Phù Đổng Thiên Vương để đuổi quân thù. (Thiên là dân, Vương là chủ, Phù Đổng Thiên Vương là tinh thần dân chủ của văn hóa phương Nam, của Việt tộc). Xem thế đủ biết tinh thần văn hóa Việt tộc đã thành lập lâu đời trước những người từ phương Bắc đến sau dù thuộc dòng máu Viêm hay Hoa cũng chỉ ít lâu là bị “giết” như Ngư tinh… nghĩa là bỏ tiếng nói, thói tục phương Bắc để nhận ngôn ngữ và phong thổ Việt Nam.(24)

Ngoài ra, nếu Tác giả có dịp nghiên cứu đề tài Biểu Tượng (Symbol) trong Tâm Lý học, thì hy vọng sẽ hiểu rõ hơn  Vấn Đề liên quan đến các Sơ Nguyên Tượng (Archetype) như Âu Cơ, Lạc Long Quân, Thánh Gióng…..đối với Dân Tộc VIỆT !

Nhưng trước tiên, Biểu Tượng  là gi ? Đó có thể là một dấu hiệu cụ thể gợi  cho  ta một thưc thể trừu tượng hoặc vắng mặt

Chẳng hạn, “vương trượng”  là một vật cụ thể, là biểu tượng cho ý niệm Vương quyền (trừu tượng)

Hoặc hình “tam giác cân” còn có tên là “tam giác hoàn hảo” là biểu tượng của Thượng Đế

Hoăc cái khăn tay bị bỏ quên là biểu tượng của một người vắng mặt…..

Câu hỏi được đăt ra ở đây, là các Biểu Tượng nêu trên có khả năng TÁC ĐỘNG hay không? Câu thưa là nếu chúng đi kèm với Cảm Xúc

Về trường hợp cái khăn tay bị bỏ quên, nó có thể đi kèm với   “Xúc Cảm” nếu người vắng măt là đối tượng của những tình cảm  “Yêu” hay “Ghét” có thể kéo theo những hành động tương xứng: như cái khăn tay có thể  bị hủy hoại nếu đối tượng bị “ghét” hoặc nó sẽ “thay thế” đối tượng nếu được “yêu”,  khi đương sự vắng mặt !

Tóm lại, nếu không đi kèm với Cảm Xúc, thì các  biểu tượng là những vật “chết” và không có giá trị gì cà  về  phương diện Nhân Văn !

Ngược lại, nếu đi kèm vói Cảm Xúc,  Biểu Tựợng sẽ trở thành một Thưc Thể Sống Động với  Quyền Năng Thực Sự , Và đó là điều quan trong nhất !(25)

Dựa trên những Khám Phá gần đây về Tiềm Năng mạnh mẽ của Biểu Tượng nhờ khả năng Tác Đông trưc tiêp trên Tiềm Thức không qua trung gian của Ý Thức, khoa Tâm Lý Miền Sâu đã áp dụng một cách  rất hiệu nghiệm , các thành quả nêu trên  trong việc chữa trị các chứng bệnh Tâm Thần, nhằm Bổ Túc  cho các phương pháp , kỹ thuật thông thường của Phân Tâm học,

Ngoài ra,  các đặc tính nêu trên của Biểu Tượng còn giúp hiểu rõ hơn Vai Trò và tầm Quan Trọng của Sơ Nguyên Tượng (Archetype) như Âu Cơ, Lạc Long Quân, Thánh Gióng…..đối với Dân Tộc VIỆT  trong lãnh vưc Huyền Sử, Huyền Thoại.

Trong ngành Tâm Lý học, chúng ta biết Sigmund Freud là người khám phá ra Tiềm thức  Cá nhân (personal unconscious) gồm những mảnh ý thức bị dồn nén xuống khỏi bình diện ý thức…nhưng Carl Jung lại còn đi sâu hơn một độ nữa là khám phá ra đợt Vô thức Cộng thông (collective unconscious). Phương pháp thăm dò của Jung ở đợt này là các thần thoại, huyền thoại của mọi sắc dân, càng biết nhiều càng hay để tìm ra những yếu tố phổ biến đâu đâu cũng có, như vũ trụ như những yếu tố thời gian, núi, sông, biển, sao, trăng….. với những chiều kích bao la vĩ đại, những Biểu Tượng chung trong nhân loại cổ sơ mà dân nào cũng thấy thí dụ nước chỉ nguồn sống cũng như chỉ tiềm thức và  Jung gọi là Sơ Nguyên Tượng ( Archetype), tức là những hình tượng đầu tiênuyên nguyên nên có sức sống động thí dụ xuất hiện trong chiêm bao nhiều người:  văn minh hay cổ sơ đều có cả, nên kết luận là của chung Nhân Loại (27)

Ngoài ra, ở  phần trên, Tác giả có viết: Tồn tại dưới hình thức truyền miệng là một cách tồn tại vô hình và thường thì vô danh.

Quả đúng như  thế ! Vì đó chính là nét Đăc TrưngVai Trò của Biểu TượngSơ Nguyên Tượng.

Thật vậy, “Vai trò của Biểu Tượng (Symbol) lả nhằm đưa Tâm thức con ngyười tự cái Hữu Hình tới cái Vô Hình. Như thế, Sơ Nguyên Tượng còn gọi là  Linh Tượng phải là một sự Khải Linh (Epiphany) tức làm xuất hiện lên cái không thể nói ra bởi trong phạm vi chính của nó thuộc Tiềm thức, Siêu hình, Siêu nhiên, Siêu thực.  Biểu Tượng phải là sự Khải Linh ra cái gì to lớn, nó cũng như Nghệ Thuật dùng cái Hữu Hạn để khải phát ra cái Vô Hạn. Nói khác Biểu Tượng có cả hữu hạn lẫn vô hạn và chính vì nửa hữu hạn này mà biểu tượng có tính chất cụ thể. Nhưng cần có nửa vô hình nữa mới là biểu tượng. Vô hình tức là mở sang cõi vô biên, vô tế bao gồm những phẩm chất không thể biểu thị và chính vì thế có tính cách hàm hồ với khả năng mang rất nhiều ý nghĩa “ (27), và mỗi lần kể lại có thể mặc một ý nghĩa khác, nhưng chẳng bao giờ múc cạn hết ý nghĩa của nó.

Nói cách khác, mỗi cá nhân khi có dịp kể lại câu chuyện chỉ  đóng vai trò của  một ‘phát ngôn viên’ của Tiềm thức Dân tộc ở một thời điểm và không điềm nhất định  nào đó mà thôi ! Do đó, câu chuyện cần phải được kể đi, kể lại bởi nhiều người. bởi rất nhiều người  trong quá khứ , vì như vừa nói ở trên, cứ  mỗi lần kể lại có thể mặc một ý nghĩa khác, nhưng chẳng bao giờ múc cạn hết ý nghĩa của nó.

Mà hệ quả là phải trải qua muôn vạn lần kể đi kể lại bởi muôn vạn con ngưoi suốt dòng Lich Sử dân tộc Việt thì Huyền sử, Huyền thoại mới có cơ hội thành hình !. Nghĩa là  xuyên qua sự đóng góp của muôn vạn phát ngôn viên” của Tiềm thức Dân tộc ở những  thời điểm và không điểm khác nhau, cũng như  nằm ngầm bên  dưới mới chính là    TÁC GIẢ Thực Sự của Huyền Sử, Huyền Thoại cùng với các Sơ Nguyên Tượng,  “không ai khác hơn” lả   VÔ THỨC CÔNG THÔNG (Collective Unconscious) của Toàn Thể  Dân Tộc VIỆT vậy!!!

 

Để Kết Luận, Huyền sử, Huyền thoại học là những khoa Nhân Văn mới nhất, cùng với các khoa Phân Tâm học, Tâm lý Miền sâu…..mà các Khám Phá gần đây giúp   rọi ánh sáng vào lãnh vực Huyền thoại, Thần thoại, Truyền kỳ…… gợi ra những Dạng Thức ,Ý Nghĩa Mới  Mẻ  hoàn toàn đi NGƯỢC LẠI  với Chủ Trương của các “TayDuy LýDuy Sử trước đây.

 Duy Sử là một hình thái áp dụng duy nghiệm hay óc tôn thờ khoa học vào lãnh vực Sử học Những người thuộc giới Nghiên Cứu đứng đắn ngày nay, không một ai chống đối việc áp dụng phương pháp Khoa Học vào lãnh vực Sử cả, nhưng vấn đề ở đây là phải áp dụng như thế nào cho đúng cách, đúng chỗ mà thôi ! Mà Duy Sử thường lại xử  dụng phương pháp gọi là “Khoa Học” một cách quá trớn như  áp dụng khoa học vào những chỗ không thể áp dụng hay chỉ nên áp dụng cách có chừng mực. Thí dụ những trang đầu lịch sử của một dân mà người ta quen gọi là tiền sử, ngoại sử, ở đâu cũng thường chứa rất nhiều Thần thoại, Truyền kỳ  … Vì thế Duy Sử đã gây nên nhiều công phẫn với cả một phản ứng quật ngược trở lại.

Thật vậy, những thành phần Ưu tú Nhất trong giới Trí thức Tây phương ở thời Cận đại và Hiên đại trong rất nhiều địa hạt khác nhau: Triết học (Gusdorf) Nhân chủng học (Lévi Strauss), Xã hội học (Gurvitch…), Phân tâm học (Freud và nhất là Jung).v.v… tất cả đều khám phá trở lại Giá trị của Thần thoại đến nỗi có thể nói bầu khí văn hóa thế kỷ trước là Logos (duy lý) thì thế kỷ này là Muthos mà ta có thể dịch là Vô ngôn…..

Sở dĩ gọi là “Vô ngôn” vì chữ “ thần thoại” cùng gốc với chữ “câm” (Muthos = mutus) nhưng không là câm vì tật nguyền mà vì óc tế vi trước những cái âm u sâu thẳm của con người không thể nói ra nên phải dùng lối “nói mà không nói” của những thần thoại truyền kỳ: nó không nói cho lý trí, là lối nói thẳng = nói sao hiểu thế, nhưng nó nói đây mà phải hiểu kia, phải vượt ra ngoài lời nói để tìm giữa những dòng chữ những khe lời cái nghĩa tàng ẩn của nó. như vậy thần thoại là một lối nói bắt người nghe phải vận dụng nhiều cơ năng: không những lý trí mà cả tâm tình nên gọi được là nói với tâm hồn và chính vì vậy nên còn sống đến tận ngày nay vì in sâu vào lòng hơn cả những lời nói thẳng. Thời duy lý không hiểu được điều đó nên chỉ đập phá bôi nhọ mà không tìm hiểu, nói khác óc duy sử còn mang nặng tính chất tiêu cực nên đang bị vượt qua. (28)

Lấy thí dụ trong Huyền Thoại Việt về câu chuyện Mẹ Âu Cơ sinh ra cái “Bọc Trăm Trứng” chẳng hạn: Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, bà đem về nuôi nấng, không cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng úy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường

Trong thế kỷ trước, khi người Duy sử đọc tới đây, thấy “Mẹ Âu Cơ  đẻ cái bọc trăm trứng” thì liền chối bỏ, cho là Vô lý: người gì mà đẻ trứng, nhất là đẻ một lần  những trăm trứng! Nói thế là tại Duy sử không biết cất mình lên khỏi cõi hình thể. Nếu cất lên đựơc thì gọi là Hình nhi thượng, bên trên cả sự lẫn lý, không còn hữu lý với vô lý nữa, vì đã Siêu lý rồi !

Nghĩa là, như đã đề cập ở trên, Huyền thoại nói mà không nói tức là nó nói đây mà phải hiểu kia, Tức là cần phải   tránh hiểu theo nghĩa đen, vật chất trứ hình, mà phải biết vươn lên khỏi cõi hình thể nhằm đạt đến  tầng Ý Nghĩa thâm sâu  của nó !

Vậy nên, trong đồng văn của nền Văn Hóa VIỆT,  Mẹ Âu Cơ chính là hiện thân của Nguyên Lý MẸ, biểu tượng  của  nét  Hài Hòa lưỡng hợp, của tinh thần Công Thể tương trợ, đem tình thương cốt nhục ràng buộc mọi người trong nước để tất cả coi nhau như thân nhân cùng một Bọc, “Bọc Trăm Trứng” (“Trăm” ở đây không có tính cách đo đếm mà với ý nghĩa là “Toàn Thể” và “Trứng” vì “vật biểu” của  Mẹ Âu Cơ là “Tiên” được thăng hoa từ “vật tổ” “Chim”)

Mà hệ quả là hai chữ “Đồng Bào” (=cùng một bào thai)  bắt nguồn từ huyền thoại Bọc Trăm Trứng đã  gây âm vang một cách rất sâu xa và cụ thể vào xã hội Việt truyền thống  chứ không chỉ dừng ở lối nói suông. Thí dụ trong Kinh Tế là thể chế Bình Sản, trong Nghệ Thuật là nét Song Trùng, trong Triết Lý là thế Lưỡng Hợp… khiến cho xã hội Việt xưa kia không làm bằng tranh đấu bóc lột mà bằng Cộng Tác tương thân

Điều trên giải thích lý do tại  sao,  như  Học Giả Paul Mus nhận xét ở trên,  người thôn dân  Viêt xưa thích bị nuốt trôi vào Công Thể !!!. Là vì họ tìm thấy ở đây hội đủ các điều kiện giúp họ trở về với con người đích thực của chính họ, vượt qua được đợt ý thức hạn hẹp, đợt tiềm thức cá thể (personal unconscious), để đạt tới đợt  Vô thức Cộng thông (collective unconscious) nhằm sửa soạn  bước vào miền Tâm Linh miên viễn mà người xưa quen gọi là HỒN DÂN TỘC!

Gọi là Vô thức Cộng thông vì nó là tiếng nói của những ước vọng, nhu cầu sâu thẳm thuộc nhân tính mọi người, đến nỗi người ta không cần ý thức cũng cảm được lơ mơ. Bởi vậy tiếng nói của nó tỏ ra trung thực để biểu lộ những sự thực bao la vượt lý trí cá nhân vì thế được gọi là nền “Minh triết các quốc gia” (la Sagesse des nations) hay ngày nay có khi Tâm phân kêu là nền “Minh triết tự phát”, “Minh triết vô thức” (unconscient Wisdom) để chỉ tính chất đột khởi, hồn nhiên chưa bị ý hệ xuyên tạc, nguỵ tạo như nơi cá nhân ý thức (29)

…..

Tóm lại, hình như có một sự NGỘ NHẬN To Lớn, Nền Tảng từ phía Tác giả bài viết khi tuyên bố :

“…..với người Việt Nam, quá khứ không có gì khác ngoài các câu chuyên kể…..chúng ta kể đi kể lại không biết mệt mỏi từ chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đến Trọng Thủy phản bội Mỵ Nương, chuyện Thánh Gióng  nhổ tre đánh giặc , chuyện Trưng Trắc trả thù chồng …..” (LVT viết chữ nghiêng và nhấn mạnh)

có vẻ với ngụ ý  rằng người Thôn dân Việt xưa chỉ thích nghe kể đi kể lại những câu chuyện huyền thoại quen thuộc  do tâm lý tò mò như trẻ thơ thích nghe kể chuyên “ Cổ Tich” chăng? Mà hoàn toàn không ngờ rằng Tiền Nhân Việt đã đi trước các khoa Nhân Văn mới nhất hiện nay trong lãnh vực Vệ Sinh TÂM THẦN

  • như qua việc Thể Nghiệm tinh thần Công Thể, giúp tránh tình trạng Ẩn Ức  do những ước muốn không được thỏa mãn nên bị giồn nén xuống làm thành Tiềm thức Cá nhân (personal unconscious) gây ra đủ thứ bệnh tâm thần cho con người ngày  nay và cũng là Đồi tượng Chữa trị của khoa Phân Tâm học,
  • như qua các câu chuyện Huyền Thoại là dịp người Thôn dân Việt SÔNG LAI với các Sơ Nguyên Tượng ( Archetype) giúp họ trở về với con người thâm sâu của chinh họ ở đợt  Vô thức Cộng thông (collective unconscious) mà căn cứ trên các khám phá gần đây nhất   của các khoa Nhân Văn mới mẻ  như Tâm lý Miền sâu, Thần thoại học, là SUỐI NGUỒN  của Sáng Tạo, Hạnh Phúc  và An Lạc.

Ngoài ra tuy hiện nay bên Âu Mỹ đã có trào lưu “phục hưng” thần thoại ở nhiều lãnh vực khác nhau  như vừa đề cập ở trên,  nhưng mới bằng cách đi tìm ý nghĩa của nó. Đó mới là sự nghiên cứu về, tức một tri thức suông; còn Huyền Sử thì muốn là một sự đi về với cả tâm hồn để sống lại những đức tính tiềm ẩn trong đó để được cảm hóa theo (nên gọi là văn hóa theo nghĩa uyên nguyên).(30)

Và đó cũng là Nhu Cầu thật CẤP THIẾT   đối với nước ta hiện nay sau hơn một thế kỷ bị các  trào lưu văn hóa cá nhân chủ nghĩa của Thực Dân rồi đoàn lũ chủ nghĩa của Cộng Sản cả hai đều phát xuất từ môi trường văn hóa Tây Âu,  đã  và đang làm tan rã tinh thần Dân Tộc đến cùng tột. Vì thế chúng ta phải tìm cách trả lại cho dân tộc một thế Quân Bình Mới bằng cách lay tỉnh tinh thần đoàn kết quốc gia đã giúp Tiền Nhân ta viết nên những trang sử oai hùng lẫm liệt ;và cho được thế thì cần đến ngôn ngữ của Vô thức Cộng thông (collective unconscious) qua việc  , như đã đề cập  ở trên, cùng với các  “Sơ Nguyên Tượng”   SỐNG LẠI các biến cố làm nên Công Nghiệp của Tiền Nhân Việt !  đồng thời  là nội dung của  những trang Huyền Sử tuy quen thuộc nhưng rất thâm sâu  về Ý Nghĩa và cũng lả Di Sản thiêng liêng cao quý , mà Tổ Tiên Lạc Việt đã  “trối trăng”  lại cho  muôn vạn  thế hệ con cháu !

…..

THẬT KHÁC XA với các bận tâm “rất chuyên môn”, “rất hình thức , thời thương”   mà ảnh hưởng có  vẻ cũng  “rất giới hạn” ở lãnh vực Văn Học hay chính xác hơn, Phê Bình Văn học   của Tác giả bài viết qua nội dung của câu phát biểu ở trên: “…..Nó không giống hình thức tồn tại dưới dạng sách với một hình thù nhất định để gợi ra cho người đọc và cả người viết ý niệm về cấu trúc, về hệ thống, về các yếu tố hình thức của nghệ thuật; với một cách đọc thầm lặng và cô độc để gợi ra ý niệm về nhu cầu diễn dịch và phân tích, từ đó, làm nở rộ các hoạt động phê bình và nghiên cứu văn học; và với một tên tác giả nhất định để gợi cho người đọc và cả người viết ý niệm về bản sắc cá nhân” !!!

Lê Việt Thường

CHÚ THÍCH

[Tác Giả] [Lãnh Vực]

 

Tìm Kiếm