Vũ Khánh Thành
HÀNH TRÌNH KIM ĐỊNH Và AN VIỆT
|
Ngay sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm ổn định được miềm Nam Việt Nam, các sinh viên du học nước ngòai lục tục kéo về xây dựng đất nước. Trong số những người tôi biết hồi đó có Cha Vũ Khánh Tường, Cha Lương Kim Định, Cha Trần Thái Đỉnh, Cha Lê Tôn Nghiêm và Thầy Hải Linh. Cha Tường tiên sĩ giáo sử, về Việt Nam măm 1956 làm bí thư cho Đức Cha Phạm Ngọc Chi, lúc đó là Tổng Ủy Trưởng Di Cư do Tổng Thống Diệm đẕc cử ổn định việc định cư các gia đình từ miền Bắc vào Nam, trong số này nhiều phần là người Công Giáo. Các khu di cư này phần nhiều về phá rừng, khai khẩn đất đai vùng Hố Nai Biên Hòa, Hốc Môn, Gò Vấp, Cái Sắn v.v …. Cha Tường sau đó cũng được đề cử làm Hiệu Trưởng Trung Học Nguyễn Bá Tòng Saigòn.
Khi cha Tường và các cha, các thầy về vinh qui bái tổ, một buổi lễ rất lớn được tổ chức tại Giáo Xứ Trung Chánh của cha Trần Quốc Phú, linh tông với cha Tường. Lúc đó tôi còn bé, làm cậu giúp lễ tại nhà thờ Trung Chánh được điều động tiếp bàn, bê đồ ăn vv… Tôi nhớ cha Tường nhất vì ngài rất bệ vệ, đẹp trai, nói năng lưu lóat kể cả pha trò cho mọi người cười vui,
Riêng về Cha Kim Định, sau này được nghe kể lại, khi hồi hương từ Paris về Miền Nam, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã sai ông Trần Văn Lắm lúc đó là Chủ Tịch Quốc Hội VNCH ra phi trường Tân Sơn Nhất đón tiếp và chào mừng Kim Định.
1. GIAI ĐỌAN KHỞI ĐẦU
Khi mới vào miền Nam, các Giáo Phận miền Bắc qui tụ ngay giáo dân, các Chủng Sinh lập Tiểu Chủng Viện hay Đại Chủng Viện mang tên tân Bùi (Bùi Chu), tân Thanh (Thanh Hóa), tân Hà (Hà Nội) …. Các người dân bình thường cũng theo các linh mục đi phá rừng làm rầy mang tên nhở về quê cha đất tổ như vậy không khác gì người Mỹ gốc Anh lấy New York, New Hampshire, New South Wales. Người Mỹ lúc đó tài trợ một tỉ mỹ kim cho chương trình di cư của người Bắc vào Nam là một triệu người, mỗi người của mổi gia đình được cấp 700 đồng tiền miền Nam lúc đó, cùng với dụng cụ cuốc xẻng v.v… Sau này lớn lên tôi được đọc về sự tài trợ này, thực là một phép lạ cho người Mỹ và Tây Phương về tính cần cù, chịu khó đáp ứng mau lẹ của người Việt Nam. Phản ứng của người Miền Nam với việc di cư của người miền Bắc vào Nam lúc đó, họ không mấy nhiệt tình và thường nói “đất nước độc lập rồi còn vào Nam làm gì ”.
Cha Kim Định dạy học ở Đại Chủng Viện Lê Bảo Tịnh Gia Định từ 1958 do cha Trần Văn Hiến Minh làm Giám Đốc. Được 3 năm thì theo lệnh của Giáo Quyền, các chủng viện di cư phải sát nhập vào Chủng Viện bản xứ. Các cha giáo sư tiểu chủng viện Bùi Chu phụ trách trường Nguyễn Bá Tòng thay cha Tường. Cha Tường về Đắc Lộ ngã tư Bảy Hiền. Cha Kim Định cũng được cha Tường mời về Đắc Lộ giúp xứ ở đây và đi dạy Đại Học Văn Khoa Sàigon. Từ năm 1961 này tôi được sống gần cha Kim Định. Lúc đó tôi đã học lớp 11 chuẩn bị thi Tú Tài phần 1. Bản tính tôi thích đọc sách nên hồi đó có thầy Nguyễn văn Thiện cũng học cha Kim Định ở ĐCV Bùi Chu, cho tôi mượn đọc cuốn Tự Chiêu Minh Đức và cuốn Tâm Đạo là giảng khóa đầu tiên của Kim Định. Tôi chẳng hiểu gì hết cho đến khi lên Đại Học, học lớp dự bị Văn Khoa với cuốn Cửa Khổng. Tôi cũng học nhưng không có cảm nghiệm gì cả. Chỉ học để trả bài lấy điểm lên lớp thế thôi. Các buổi tối, sau khi ăn cơm xong ở Đắc Lộ, cha Kim Định thường đi bách bộ, có khi đi một mình, có khi đi nói chuyện với người khác. Tôi mạnh dạn xáp vô nói chuyện với cha. Tôi nhớ một lần tôi nói với cha “đọc sách cha sao con thấy hiểu về cuộc sống, về đạo Thiên Chúa khác quá”. Cha bảo chắc Thành bắt đầu hiểu về triết lý nhân sinh rồi đấy. Cứ cố gắng đọc đi. Tây họ gọi sự chuyển biến này là cuộc “rửa tội siêu hình học” (Baptême métaphysique), không có chuyển biến siêu hình là chưa “ngộ”, chỉ có tri thức suông chứ chưa có nhất quán trong tư tưởng. Điều này sau này tôi mới nhận rõ ra là nhiều người bạn của tôi trí khôn rất giỏi nhưng không hiểu được triết lý An Vi của Kim Định và Kim Định có hàng ngàn học trò, nhưng những người hăng say trong triết lý nhân sinh như căn bản của cuộc đời mình thì thực không có là bao. Các giảng khóa sau tôi bắt đầu học với Kim Định về Chữ Thời, Nhân Bản, Những Dị Biệt Giữa Hai Nền Triết Lý Động Tây, Cơ Cấu Việt Nho, Vũ Trụ Nhân Linh … Từ đây tôi đã hiểu phần nào Triết Lý Kim Định.
Các sách in tại Việt Nam lúc đó đều phải có phép của Bộ Văn Hóa Thông Tin VNCH và giáo quyền Công Giáo (phần lớn sách Kim Định do cha Trần Văn Hiến Minh đọc, trách nhiêm sau đó đề vào mấy chữ “Cunlicentiis Debitis” – được phép in trên sách đã in). Khi sang Hoa Kỳ không còn kiểm duyệt nữa nhưng phải nộp bản đăng ký chủ quyền tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ.
Một vài chuyện vui tôi kể ra đây coi như vớ vẩn nhưng nó như những giọt nước thấm dần về triết lý nhân sinh tôi lãnh hội từ Kim Định.
Một lần đi bách bộ với Kim Định ở Đắc Lộ, bọn trẻ con chơi ngòai đường nói rất lớn tiếng chửi rằng “Đắc Lộ ăn c”. Lý do chúng chửi tục như vậy là vì buổi tối, cổng phải đóng, chúng không được chơi đùa, đá banh trong sân của trường hoẕc khu Nội Trú Đắc Lộ. Cụ Định thấy chúng chửi thế, cụ dừng lại cười, nói với tôi và một số chú khác cũng đang tụm năm tụm ba nói chuyện trên đường rằng, “bọn trẻ này ngu quá, có mỗi một cái của quí mà cho người khác ăn, mai ngày lấy gì mà hưởng tứ khóai trên đời. Mọi người đi tu ở đây không cần dùng mà có ai dám cho ai ăn của quí đó đâu ? Chúng mày đúng là trẻ con, không ai thèm chấp”. Thế là mọi người cười rồ lên.
Một lần khác cụ Định với một số các bậc vị vọng đi xuống Bình Chánh thăm cha Đinh Xuân Hải. Trong khi đi đường cụ thấy hai con chó đang giao hợp với nhau. Cụ Định bảo “Hai con chó này hư quá, trước mẕt các đấng các bậc mà chúng mày cự tự nhiên làm ăn như vậy à. Nhưng thôi, tha cho chúng mày vì chúng mày có mùa mới làm ăn được còn con người thì tứ thời bát tiết, lúc nào cũng làm được cả cho nên mới ra trăm tội ở đời vì cái sự này. Ngày xưa khi mới tạo thiên lập địa, Chúa bảo, hãy sinh sản cho đầy mẕt đất thì tha thứ được chứ bây giờ mẕt đất đã đầy rồi thì phải tiết chế hoẕc hạn chế sinh sản chứ đâu có cứ đẻ mà không đủ ăn, không dạy dỗ thì xã hội sẽ hỗn lọan.” Ai nấy đều cười về sự tiếu lâm của Kim Định.
Cụ Định đi dạy học lúc nào cũng mẕc bộ áo dài trắng dân tộc. Đi xích lô đến trường dạy học. Sau này một học trò biếu Thầy Kim Định một chiếc xe Jeep nhà binh đã phế thải, sửa lại, sơn màu khác màu xe quân đội để thầy lái xe đi dạy, tiết kiệm được thì giờ. Những lớp Triết Đông chuyên biệt của cụ thì số sinh viên tham dự bình thường nhưng những lớp Dự Bị thì chật cứng. Số người nghe phải ngồi ra cả hành lang hoẕc có nhiều lần phải học ngòai trời, nhà trường đưa bàn giáo sư ra ngòai và mắc micro giảng dạy cho sinh viên nghe rõ. Số sinh viên đến nghe cụ nói về triết Việt thật đông, kể cả những người không học ban triết cũng đến nghe. Tôi còn nhớ, cuốn Cửa Khổng mỗi lần in 5000 cuốn và đã in lại nhiều lần tại Việt Nam. Trào lưu về nguồn và tìm hiểu triết Việt lên rất mạnh. Hồi đó miền Nam tuy đã có chủ quyền về chính trị nhưng về văn hóa ảnh hưởng Pháp còn rất nẕng nề, tới nỗi gọi là Đại Học Văn Khoa mà triết Việt chỉ được xếp 8 giờ một tuần, sau dưới áp lực của sinh viện, được tăng lên 12 giờ. Một Giáo Sư Khoa Trưởng Văn Khoa còn tuyên bố chỉ có triết học Trung Hoa chứ làm gì Việt Nam có triết lý ! Cụ Khoa Trưởng này ngay những năm gần đây, khi thỉnh thỏang viết bài trên báo Thông Luận cụ ấy vẫn lạnh lùng nói Việt Nam không có triết lý, không có tư tưởng, đại lọai cùng lập trường theo mới, hòan tòan theo mới không chút do dự. Theo mới tức là Âu hóa như nhóm Tự Lực Văn Đòan hay nhóm Thông Luận hiện nay. Các giảng khóa của cụ Định ngày đó cũng chỉ đề lấp lửng chứ đâu dám nói ra là Triết Lý Việt Nam ! Hiểu được hòan cảnh lúc này chúng ta mới thấy sự can đảm của Kim Định trong việc khôi phục hồn nước, khôi phục chủ quyền văn hóa cho dân tộc.
Ít năm sau khi sách vở đã ra được khá và số sinh viên cũng như người hâm mộ đã tăng lên, Kim Định mới dám chính thức gọi triết lý của mình là Triết Lý An Vi đẕt trên nền Việt Nho là Nho Giáo nguyên thủy của Việt tộc đã được chắt lọc khỏi những yếu tố du mục do Hán Nho đem vào.
Một chuyện khác tôi vẫn nhớ Kim Định là khi làm lễ tại nhà thờ Đắc Lộ. cụ đi từ phòng áo ra bàn thờ, dáng dấp của cụ như một ông tiên, cách đi như một người vũ. Hai tay cụ cũng nhẹ nhàng mềm mại như một vũ công. Tôi quan sát rất kỹ hành vi cử chỉ của cụ khi làm lễ, rất siêu thóat bay bổng. Tôi hỏi cụ điều này. Cụ trả lời: LỄ đi với NHẠC và VŨ. Trong Đông Phương của ta, Lễ được tổ chức rất quan trọng. Vua mỗi năm chỉ cử hành Lễ tế Nam Giao một lần. Trước khi Tế, vua và quan phải chay tịnh cả tháng đẕng đón nhận hội nhập linh thiêng giữa thiên và địa. Sau vua đến làng xã, mỗi năm cũng Lễ Thành Hòang một lần cùng với nhiều lễ tiết khác. Các cuộc lễ này cũng rất long trọng, ít ra 3 ngày, mọi người ăn uống no say, có ca múa và nhiều trò chơi. Các cô cậu thì được tự do hẹn hò. Sau mùa lễ thì có đám hỏi để thành thân đôi lứa. Xuống tới cấp bậc gia đình thì là Tết Nguyên Đán, Lễ Giỗ của những người thân trong gia đình, đều xóay trọn vẹn vào tâm linh.
Tôi hỏi thêm cụ, lễ trong thiên chúa giáo cũng có nhạc và vũ. Nhà thờ Việt Nam nào khi có lễ lớn cũng có ca đòan hát rất hay, các đội vũ, đội dâng hoa cũng rất điêu luyện, nó khác thế nào so với Lễ thầy vừa nói. Cụ nói, trong đạo thiên chúa ngày nào cũng có lễ. Các Lễ này nhằm thờ phượng thiên chúa, cầu xin ơn của ngài. Lễ của đông phương là “Tế thần như thần tại”. Tức là tin có thần ở đó cũng được, không có thần ở đó cũng không sao. Động tác chính của lễ là chính tác động của người tế, nhằm củng cố mối quan hệ giữ người với người, giữa người với tiền nhân mà cùng cực là Văn Tổ là tổ của các tổ tức là Nhân tính của con người, là Tâm Linh, nơi giao hội giữa Trời và Đất. Nhạc hay vũ trong nhà thờ là để ca tụng Thiên Chúa , khác với Lễ, Nhạc. Vũ trong triết lý nhân sinh phát xuất từ tâm cảm của mình, hòa nhịp với vũ trụ, của trai gái biểu lộ yêu đương, của mối tình nguyên thủy của đáy lòng con người.
Năm 1966-67 tôi tốt nghiệp Cử Nhân Giáo Khoa Triết Tây tại Đại Học Văn Khoa Saigon. Nghe lời cha Giám Đốc Đắc Lộ, tôi xuống Đại Chủng Viện Xuân Bích Vĩnh Long học Triết và Thần Học đồng thời ghi danh làm Cao Học với Giáo Sư Kim Định. Thời gian tu học này, thầy Kim Định thường khuyên tôi cố theo đuổi để thành Linh Mục mẕc dù khó lắm vì Thành đã hiểu triết lý nhân sinh nhưng phải cố để sau này huấn luyện chủng sinh, giáo dục bổn đạo để thành người trước khi thành Tu Sĩ, Linh Mục, giáo dân. Tôi nhớ mãi lời khuyên này nhưng không thể theo đuổi con đường tu đạo được. Được gần 2 năm, tôi trở về Saigon tiếp tục dạy học và nghiên cứu viết luận văn Cao Học của tôi cho tới năm 1970 tôi ra ứng cử Nghị Viên ở Tỉnh Biên Hòa. Đắc cử, tôi lao vào họat động chính trị, xã hội và đi dạy, trong khi vẫn thường xuyên thăm hỏi và trao đổi với thầy Kim Định. Lúc này thầy đi dạy nhiều hơn. Ngòai Đại Học Văn Khoa Saigon, thầy còn dạy ở Đại học Minh Đức, Thành Nhân, Vạn Hạnh, Đà Lạt. Thỉnh thỏang lúc kẹt thầy điện thọai cho tôi đi dạy thế ít giờ cho đến năm 1975, mọi sự hòan tòan xụp đổ. Tôi kẹt ở lại, thầy đi thóat. Tôi rất mừng về chuyện này. Không ai có thể ngờ được về cuộc đổi đời của mình.
2. GIAI ĐỌAN GẶP LẠI KIM ĐỊNH Ở NƯỚC NGÒAI
Ra được nước ngòai tháng 10 năm 1979, người đầu tiên tôi đi tìm là xem Thầy Kim Định ở đâu. Năm 1980 nhân đọc một tờ báo xuân có đăng quảng cáo của anh Đăng Trường, sinh viên cũ của Kim Định, tái bản cuốn Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên tại Hoa Kỳ. Tôi viết thư cho nhà xuất bản nhờ chuyển cho Thầy Kim Định, báo tin tôi đã thóat khỏi Việt Nam và đang ở Anh. Thầy hồi âm liền và chúc mừng tôi đồng thời khuyến khích tôi trau dồi Anh Ngữ để có thể viết được Anh ngữ trôi chảy hầu có thể quảng bá triết lý An Vi và Việt Nho cho thế giới.
Làm cho chương trình Tị Nạn của Bộ Nội Vụ Anh nhận 25 ngàn người Việt từ Hồng Kông sang Anh Quốc, tôi biết chương trình sẽ chấm dứt vào năm 1982, tôi đã chuẩn bị mình sẽ làm gì, học gì. Tôi viết thư xin ý kiến thầy Kim Định. Thầy khuyến khích tôi học tiếp Cao Học. Đây là nguyên văn lá thư của Thầy:
“SaigonSan Jose 23/VIII/81.
Thành yêu dấu,
Hôm qua nhận được thư Thành đề ngày 18/8 liền đi cậy người ta đánh máy chứng nhận gửi kèm đây. Quên không nhớ năm nào thi, còn nói assistant Minh Đúc thì cũng như Đắc Lộ mà lại có tang chứng. Minh Đức có lúc cũng đẕt ở Đắc Lộ, còn làm cao học ra thuyết trình thay cho giáo sư cũng là truyện bên này họ hiểu được. Nếu cần thì thêm vào tôi sẽ biên lại và thường thì phải gửi thẳng đến cơ quan liên hệ. Nó có tính chất confidential hơn. Nếu muốn làm thế thì cho địa chỉ và người nhận tôi sẽ gửi cho họ.
Họ sẽ chọn 5, 6 người nhưng trong số bằng nào giáp sư Việt Nam ?
Còn truyện hàn lâm, nếu được thì may lắm để cho anh ngữ lên độ viết được. Coi vậy mà khó đấy. Với tuổi lớn nó không feel được nữa. Còn hàn lâm bên này là cái cực khổ nhưng cũng phải giấn.
Về đề tài mai ngày mà viết sách thì thiết nghĩ nên có một chương (hay một phần) nói về tình trạng triết Đông trước khi bộ An Vi ra đời để người đọc thấy rõ tính chất cách mạng của triết lý nọ. Phần này có thể dùng A Source Book in Chinese Philo by Wing-Tsit-Chan. Princeton University Press 1963. Hồ Thích, Phùng Hữu Lan. Bên ta: Thục, Kim, Phan Bội Châu.
Sau đó đến triết an vi thì nên nói ít điềm:
- Về cơ cấu là lối mới mà bộ đó theo dùng số độ, hình đồ, huyền thọai, huyền sử đối chiếu, tổng quan. Đó là phương pháp. Về nội dung thì chia 2 phần: 1. là an vi tức nhân chủ, khác với nhân bản ở chỗ nhấn về hàng dọc trời đất, không có dị đoan nào nữa, cũng không dùng pias fraus nhưng là triết lý con người. Trình bày trong thế đối chiếu với Ấn Độ (bái vật) hay cổ điển Tây Âu và cả mới (ý hệ) còn
đầy tâm linh.
2. Phần 2 nói về nguồn gốc gọi là Việt Nho vì lấy tài liệu cơ bản tự Nho và Việt. Cái may của nó là đẕt Việt trước Nho. Nhờ cơ cấu. Chú ý đến số, hình, chế, khảo cổ
(Trống Đồng) mà dám làm cuộc cách mạng đó. Phần này tuy đã trình bày trong chín quyển sau của bộ nhưng chưa được chính xác như nay trong những quyển mới
nhất như Kinh Hùng (sắp ra) Sứ Điệp sẽ ra tiếp. Văn Lang Vũ Bộ v.v …Nếu cần thì sau sẽ xé và gửi cho.
Đại để đó là cái khung tổng quan. Sẽ tùy đó mà rút ra từng phần hay tóm lược để làm luận án nhỏ hoẕc to. Nhưng đây nói sơ, sau còn phải nói dài tùy theo plan của Thành đưa ra. Tôi chỉ giúp thêm ý. Thí dụ huyền thọai Thôi Vỹ tôi đang làm căn cứ cho bài
“Những Chặng Tiến Của Triết Việt” đã gửi cho Thành chưa ? Cháu gái nay thì nói tiếng Anh giỏi hơn bố rồi chứ. Có thể đã lưu lóat và chỉ vài năm nữa thì như Anh. Mong cho gia đình sang sớm. Nghe nói về tính cách di tản như vậy tôi cũng yên lòng vì bên này tôi ý theo dõi tình trạng các nước khá sát nút. Nhờ có báo US News và Ti Vi.
Thôi chúc mọi sự tốt lành. ĐỊNH LƯƠNG.
Theo sự gợi ý của Thầy, tôi đã cố moi óc để viết, dù không có một cuốn sách, một bài báo trong tay, tôi đã viết được trên một trăm trang A4 viết tay để gửi cho trường SOAS (School of Oriental and African Studies) thuộc Viện Đại Học London. Cũng chẳng có ai sửa Anh Ngữ cho tôi, cứ viết sao gửi vậy. Sau vài tháng trường gọi tôi lên phỏng vấn và trắc nghiệm Anh Ngữ cùng với tất cả các sinh viên khác, họ nói chuyện một đề tài rồi yêu cầu sinh viên viết lại xem có hiểu đúng ý người thuyết trình không. Tôi chẳng hy vọng gì vì anh ngữ hồi học ở Việt Nam là sinh ngữ hai, lại chẳng đi học thêm ở đâu cả, chẳng làm sở Mỹ, chẳng có cơ hội tiếp xúc với người nước ngòai làm sao khá được. Nào ngờ tôi được nhận nhưng rất tiếc trường nói rằng, họ không có Giáo Su bảo trợ cho Luận Văn Cao Học của tôi. Họ khuyên tôi sang học Khảo Cổ về Phật Giáo. Tôi chấp nhận vì nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để trau dồi Anh Ngữ. Mỗi lần trở lại trường Đại Học, giáo sư và sinh viên chỉ ngồi gợi ý và thảo luận với nhau, sau đó họ cho hàng chục cuốn sách bảo đến thư viện tìm đọc rồi thảo luận lần gẕp kế tiếp. Tôi chới với vì với sinh viện khác, một tuần lễ họ đọc được dăm ba cuốn, còn tôi một cuốn không xong. Vừa đọc vừa tra tự điển, nản chí quá. Nhưng đến giờ học tôi nói sự khó khăn của tôi và chỉ trình bày một đề tài trong mớ sách tham khảo, ngầm ý rằng, các bạn đọc nhanh hơn tôi sẽ cho tôi biết tóm tắt các sách khác. Cầm cự được gần một năm, tôi báo cho Thầy Kim Định tôi phải bỏ cuộc vì ngòai việc đọc sách ra, nhà trường còn bắt các sinh viên Cao Học phải đi làm tòan phần, hay bán phần. Học Cao Học là nghiên cứu riêng của mình. Tôi đã nhận đi làm vệ sinh văn phòng vào sau 5 giờ 30 chiều. Thay vì nhà thầu cho tôi như hợp đồng là làm 4/5 tiếng một buổi, họ bắt tôi làm 8 tiếng một buổi tối tức là mỗi ngày làm tới 1 hay 2 giờ sáng. Quá vất vả tôi bỏ học và bỏ làm sau khi đã cố gắng được gần một năm và mất luôn tiền đẕt cọc 2 ngàn đồng bảng Anh. Tôi cũng chẳng mất công kiện tụng, vì đã có việc làm về tài chánh (Financial Consultant) lo mượn tiền cho bà con mua nhà, mua cơ sở kinh doanh, đầu tư, tiết kiệm, bảo hiểm … Tôi đã thành công vượt bực. Vừa làm kinh doanh, vừa bắt đầu lập Cộng Đồng Tị Nạn Việt Nam tại 2 thành phố Hackney và Islington từ 1982. Đến năm 1986 tôi tách thành phố Hackney đứng độc lập với Islington thành Hội An Việt (lúc này để phù hợp với tình thế phát triển của người Việt, đến định cư lập nghiệp nhiều hơn ở Hackney, tôi dịch chữ An Việt thành “Người Việt An Cư Lạc Nghiệp = An-Việt means Well Settled” và chỉ nhận một số chọn lọc hội viên, không nhân danh tòan cộng đồng Việt Nam để khỏi bị đảo chính như đã xẩy ra nhiều nơi và dễ theo đuổi con đường của mình.
3. GIAI ĐỌAN KIM ĐỊNH TIẾP TỤC SÁNG TÁC
Thầy Kim Định đã bị một giai đọan khủng hỏang tinh thần trầm trọng sau ngày 30.4.1975 trong một ý thức sâu thẳm khôn cùng mà thầy luôn nhắc lại một cách thấm thía: “Đạo mất trước, nước mất sau”. Câu nói này lúc trước tôi đã nghe thầy nói nhiều lần nhưng chỉ ở ngòai tai y như những lời cựu TT Nguyễn Văn Thiệu nói “Đất nước còn, còn tất cả, đất nước mất, mất tất cả” – hay câu “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” . Ai ở miền Nam ngày đó đều hiểu là những câu tuyên truyền, chẳng ai bàn luận, chẳng ai bận tâm. Nhưng khi đã trải qua sau những ngày 30.4.1975 mới thấm tới tận đáy lòng của mình. Cụ Định đã viết “ … và ngày 30.4.75 khi tai họa sụp xuống thì từ đáy một suối bất tận nước mắt cứ tuôn trào ra như từ muôn con tim thổn thức của tiên tổ, không cho tôi giảng giải gì được nữa. Cứ đang nói là nước mắt tuôn trào, tôi rất xấu hổ mà không làm cách chi cầm lại được.” Phải đến năm 1978 cụ mới bắt đầu cầm bút lại để sửa cuốn “Căn Bản Triết Lý Trong Văn Hóa Việt Nam” thành cuốn “Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên”, tên nguyên thủy của cuốn sách mà khi còn ở Việt Nam, khi xuất bản lần đầu, phải mang một tên khác cho có tính cách hàn lâm. Sách do anh Đăng Trường, một sinh viên cũ của cụ ấn hành, tháng 8/79 tại San JoseCalifornia. Trong 10 năm trời này (1978-1988), Kim Định đã ra đuợc 10 cuốn cộng với 22 cuốn đã xuất bản tại Việt Nam để hòan chỉnh trọn bộ Kinh Điển Việt Nam mà cụ đẕt tên là Cửu Khâu, Bát Sách. Ngũ Luận, Tam Phần, và Thái Bình Minh Triết. Tất cả là 7,617 trang sách ! chưa kể những sách chưa in và những sách đã bị thất lạc . Tất cả tòan bộ Kim Định đã viết là 45 cuốn (Xin xem thư mục ở Tiểu Sử Kim Định).
Việc in sách Kim Định trong thời gian này do HT Kelton xuất bản.
Năm 1984 Kim Định đi Đài Loan, tham dự Hội nghị triết học Quốc Tế tại Đại Học Đông Hải. Tham Luận của Kim Định là “Vai Trò Của Nho Giáo Trong Thế Giới Ngày Nay”.
Năm 1987 Kim Định tham dự Hội Nghị Quốc Tế về Khổng Học Với Thế Giới Ngày Nay tổ chức tại Đài Bắc, Đài Loan. Cùng đi với Kim Định là Giáo Sư Linh Mục Vũ Đình Trác. Tham Luận của Kim Định là “ Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á”. Hai bài tham luận này và vài bài khác, sau này đuợc in thành sách với tựa đề “Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á” thay vì Thị Trường Chung Âu Châu đang được các nước Âu Châu thành lập trong thời điểm này.
Tháng 7 năm 1988 Kim Định đi Brighton Anh Quốc tham dự Hội Nghị Triết Học Thế Giới để gẕp một số nhân vật quan trọng. Vì thì giờ hạn hẹp tôi đã xuống Brighton gẕp Thầy Kim Định sau đó thầy đi Pháp rồi qua Hòa Lan và trở về Hoa Kỳ đi Batavia khởi đầu các lớp huấn Luyện Cán Bộ An Vi với anh Nguyễn Bỉnh Duy. Sau lớp huấn luyện này, thầy đi Úc theo lời mời của Bác Sĩ Nguyễn Văn Vinh và hiền thê Hùynh Thị Sáu (học trò của thầy). Thầy cũng gặp Bs Trần Đại Sỹ và bào huynh Võ Sư Trần Hữu Quyền … là những người tổ chức các buổi nói chuyện cho Thầy ở Melbourne, Sydney và vài thành phố khác vô cùng thành công.
(Xin xem thơ của Thầy ngày 19.7.1988 và thư mời của Cộng Đồng người Việt tại Hòa Lan).
Thư ngày 19.VII.88 thầy viết:
“Thành thân yêu,
Mọi sự xuôi chỉ chưa mua được vé máy bay San Jose London. Gọi ba lần mà hãng du lịch không tìm ra chỗ. Nhưng đang cậy vài chỗ mua. Tôi định đến London 23 hoẕc 24. Đi xuống đại hội triết rồi về với anh em và nói truyện 28. Đi Hòa Lan 29 thì có lẽ tôi lấy train đi Paris gẕp anh em An Việt ở Paris vì Lộc (Lê Xuân Lộc) mới sang cho biết mấy điều rất thuận lợi để nối kết. Ở vài ngày đọan mồng 2 hay 3 sẽ về San Jose (2 hay 3 vì còn tùy mua vé máy bay để 2 ngày flexible cho dễ mua vé. Vé Úc họ mua rồi mà chưa nhận được để đi xin Visa). Đi Úc 2-19 tháng 8 xong 2 chuyến đi Úc và Âu thì An Việt đã có chân trên quốc tế. Khi sang sẽ đưa sách Gốc Triết Việt, và hi vọng cả tranh Trống Đồng mới. Bài Huấn Từ gửi xem trước 1 mình để … đọc cho những chiến sĩ trước khi ký kết lời hứa”.
Chào. KIM ĐỊNH
Tôi tự lấy máy bay đi Hòa Lan gặp thầy Kim Định và gặp gỡ anh em bên Hòa Lan. Cuộc gặp gỡ được tổ chức rất chu đáo và có hàng trăm người tới tham dự trong đó có một số anh em từ Đức và Đan Mạch qua. Sau ngày họp tôi theo Thầy Kim Định đi thăm khu lấp biển lấy đất của công trình thủy lợi Hòa Lan. Thầy rất khâm phục việc trị thủy này và mong muốn Việt Nam sẽ học được để phát triển cho xứ sở, mở rộng việc canh tác, nuôi cá v.v…
Ở Hòa Lan ít ngày, Thầy Kim Định và tôi đi Đan Mạch để tiếp xúc với anh em bên đó. Sau Đan Mạch thầy đi Pháp rồi trở về Mỹ. Tôi về lại Anh Quốc.
Đến đây tôi có thể kết thúc sự nghiệp văn hóa của Kim Định như sau
Kim Định là người đầu tiên “đã bày tỏ mối cản tình thâm sâu với Triết Đông vì nhận thấy trong đó một nền nhân bản chân chính. Trong khi đào sâu thêm, ông cho là đã khám phá ra một điều thú vị thứ nhì: Đạo Nho trước hết là của Việt Nam, còn người Trung Hoa đến sau chỉ làm cho hòan bị cũng như về sau làm cho sa đọa ra Hán Nho. “Sứ mạng của Triết Đông, ông nói, là phải trả lại cho Nho Giáo sự chính truyền của chủ cũ” . (NXB An Tiêm – HCGD 1970 trang bìa).
Nhận định như trên của Nhà Xuất bản An Tiêm đã tóm tắt 2 trụ cột chính của sự nghiệp Kim Định;
– Điều thứ 1: Kim Định đã làm một việc như Khổng Tử, san định lại nguyên Nho hay Việt Nho.
“Vì xét cho cùng, khởi nguồn từ huyền sử với những vị như Phục Hy, Thần Nông và Nữ Oa cho mãi tới hơn sáu trăm năm trước tây lịch mới có một Khổng Tử ở nước Tàu san định lại nguyên Nho hay Việt Nho và người cũng là đại diện cuối cùng của nền Minh Triết này và từ đó tới đầu thế kổ 20 nguyên Nho đã bị bẻ quẹo, hay xuyên tạc để củng cố đế quyền. Vá cũng mãi tới đầu thế kổ này mới có một người làm một việc giống như Đức Phu Tử bên Tàu khi xưa. Có nghĩa là hơn 26 thế kổ mới lại có người đưa Đạo Nho trở lại vị trí đích thực của nó. Người đó lại là người Việt tên Lương Kim Định”. (Nguyễn Việt An, đọc trước giờ hạ huyệt).
– Điều thứ hai Bách Việt đã làm chủ miền nam Trung Quốc trước khi bị Mông Cổ xâm lăng.
Điều này gây tranh cãi nhiều đó là qua khảo cổ, dân tộc học, xã hội học, văn hóa tỉ giảo, ca dao tục ngữ, phong tục học, ngôn ngữ học, phân tâm học, nhân chủng học và nhất là Cơ Cấu luận … Kim Định đã khám phá ra Việt tộc tức Bách Việt đã làm chủ miền Nam Trung Quốc trước khi bị người Mông Cổ xâm lăng. Người Bách Việt đã biết trồng lúa, nhìn vũ trụ đẕt nền tảng cho Kinh Dịch, có chữ viết tượng hình, trai gái múa hát mà có Kinh Thư. Không phải là nhà khảo cổ, Kim Định nhường cho những khám phá mới mà ngày nay đã thật rõ nét qua những công trinh của Tiến Sĩ William Solheim, Tiến Sĩ Stephen Oppenheimer (Địa Đàng Phương Đông), nhà di truyền học SW Ballinger, hội nghị tại Đại Học Berkeley với “The Origins of Chinese Civilisation” đã xác tín cơ sở khoa học cho học thuyết Kim Định: Người nguyên thủy từ Phi Châu qua Ấn Độ đến Đông Nam Á tới Úc Châu. Một nhánh khác từ Đông Nam Á lên Trung Hoa qua Siberia và Mỹ Châu. (S. Oppenheimer – Out Of Eden). Hết thời du mục người Mông Cổ đã xâm lăng miền Bách Việt nông nghiệp, đẩy khỏang 30% dân Bách Việt tứ tán khắp nơi, sau thành nước Thái, Miến, Miên Lào, Indo, Malay, Đại Hàn, Nhật Bản …. Nhóm Việt duy nhất còn giữ được văn hóa nguyên thủy, tên Việt, chạy về phương nam, lập ra nước Việt Nam ngày nay. 70% dân Bách Việt còn lại đồng hóa với người Mông Cổ thành người Hoa Hạ, người Hán, tức người Trung Hoa hiện nay (Mông Cổ phương nam). Như vậy những thành tựu văn hóa xuất hiện trên đất Trung Hoa trước 2600 TCN đều là sản phẩm của người Việt Nam.
“Từ sau 2600 năm TCN, người Bách Việt bị mất đất, mất chủ quyền chính trị nhưng do số dân đông và văn hóa cao nên văn hóa Việt giữ vai trò chủ đạo trong văn hóa Trung Nguyên. Nhờ đấy tạo nên thời hòang kim trong lịch sử Trung Hoa. Ở thời đại này, tiếng Việt hòa nhập với tiếng nói của chủng Mông Cổ và là chủ thể của ngôn ngữ Trung Hoa. Trí thức Việt–Mông kế thừa văn hóa của Bách Việt sáng tạo ra nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ. Trong vai trò lãnh đạo xã hội, người Hán-Mông Cổ khai thác và phát triển văn hóa của người Việt lên tầm cao mới nhưng cũng dần dần lái nó sang tinh thần du mục” (Xin đọc thêm HàVăn Thùy).
Thuyết Việt Nho và An Vi của Kim Định không những cho Việt Nam mà còn cho tòan khối Đông Á nhận lại nền Minh Triết của mình. Kim Định đã đề nghị lập một “Đạo Trường Chung Cho Đông Nam Á” rất được các học giả Trung Quốc và thế giới trân trọng đón nhận.
Mở đầu cuốn “Việt Lý Tố Nguyên” Kim Định viết:
“Đây là công trình của một cuộc khảo cổ khác thường, không dừng lại ở khảo cổ, ở bác học, nhưng phóng tầm mắt ra bên ngòai, bên trên, bên dưới, khảo cổ, lịch sử, bác học, để cố tìm ra những nét căn bản chạy ngầm xuyên qua lịch sử nước nhà, nhưng tính chất có ngay từ đầu và sẽ còn mãi với dân tộc, nên gọi là Tố theo nghĩa bản lai cố hữu. Độc giả sẽ nhận ra lối khảo cổ như trên, chứa rất nhiều tia sáng lạ kỳ vào con đường chúng ta phải đi đến đợt văn minh chân thực. Như thế sự quay về học lại nguồn gốc nước nhà dưới mọi khía cạnh văn minh. Văn hóa, định chế, sử, địa, văn chương … không còn là một việc khảo cổ suông trong thư viện nữa nhưng chính là giúp vào việc kiến quốc, tìm ra và củng cố tinh thần dân tộc, đẕt nền tảng vững chắc cho nền Quốc Học ngày mai vậy.”
(Trang bìa sau NXB An Tiêm 1970).
Một điều rất thú vị tôi xin nêu ra ở đây là một nhà văn hóa xã hội chủ nghĩa của đảng cộng sản Việt Nam tên là Nguyễn Huệ Chi đã viết một bài trong cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC Bộ mới, NXB Thế Giới 2003, từ trang 754 đến trang 758, Nguyễn Huệ Chi chú ý đến Kim Định là Linh Mục Thiên Chúa Giáo, chỉ nghiên cứu triết học và văn hóa và Kim Định đã nêu nổi bật nguồn gốc Nho Giáo trong tiến trình nghiên cứu. Nguyễn Huệ Chi không đả động gì đến triết lý An Vi mà Kim Định đã để cả đời với 45 tác phẩm để xây dựng cho dân tộc. Nguyễn Huệ Chi cho là cuốn Cửa Khổng là tất cả tư tưởng Kim Định. Ông không nhắc nhở gì đến các tác phẩm khác, không nói gì đến việc Kim Định đã đập phá tan tành triết lý hữu vi giết người mà theo Heidegger (triết gia lớn nhất của Đức) nói Triết học Tây Phuơng đẕt nền tảng trên hữu hoẕc vô, đi tới đâu là gieo máu và nuớc mắt tới đó. Thứ triết học nhị nguyên đó đã tựu thành mọi tai ương cho nhân lọai là: Chủ nghĩa thực dân, chế độ kỳ thị chủng tộc và chế đô cộng sản.
Nguyễn Huệ Chi không công nhận Kim Định là triết gia (chỉ nhắc tới Cao Xuan Huy và Trần Đức Thảo) như câu kết của bài việt “…. Một hệ thống vấn đề không kém quan trọng đang là ẩn số cần được tiếp tục giải đáp trong các ngành Khoa Hoc Xã Hội và Nhân Văn Việt Nam”. Vì hạn chế sống trong xã hội chủ nghĩa, Nguyễn Huệ Chi đã không nhắc đến các ngành khác như Đạo Học, Tôn Giáo, Thần Học, Tâm Linh … cũng có ý nghĩa với vận mệnh, cứu cánh của con người. Từ sự phủ nhận của nhà cầm quyền cộng sản với sách vở, tư tưởng của Kim Định, bài của Nguyễn Huệ Chi đã được chấp nhận để đưa vào Từ Điển Văn Học, cũng là điều đáng lưu ý , đáng hoan nghênh.
Một số phê bình khác về Kim Định tập trung nơi cách trình bày thiếu tiêu chuẩn hàn lâm của Kim Định. Tôi xin trưng dẫn một nhận định tiêu biểu của Cố Luật Sư Cung Đình Thanh: “ Kim Định đã viết nhiều mà lại bất cần đến logic, cũng chẳng để ý đến việc dẫn chứng những sách tham khảo, dù ai cũng biết là ông đọc thiên kinh vạn quyển, lúc nào cũng có thể thực hiện được những việc này một cách dễ dàng. Bởi vậy, chỉ những ai có cái căn bản Việt Học như ông, có cái tâm như tâm ông mới cảm được ông; nếu không dễ cho là ông nói vu khóat, nói không chứng cớ. Tôi xin nói ngay, dù vô cùng ngưỡng mộ GS Kim Định và đồng ý với ông về một số điểm trong vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam nói chung và tư tưởng Việt nói riêng, nhưng chúng tôi không đồng ý về phương pháp ông sử dụng và sẽ không dùng những phương pháp kiểu này để sọan thảo quyển Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam”. Cố Luật Sư Cung Đình Thanh viết tiếp:
“Tuy nhiên, ngay đây chúng tôi muốn đẕc biệt trình bày với quí anh và bầu bạn khắp nơi là: có một điều lạ kỳ chứng tỏ sức sống của người Việt vô cùng mạnh mẽ là chính tại giảng đường ngôi trường hơn 20 năm trước GS Kim Định đã rao giảng thuyết trên, tại thành phố mang tên Hồ Chí Minh, một người can đảm khác là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Trần Ngọc Thêm, cũng đang rao giảng những điều tương tự. Quyển sách làm nền cho những bài giảng của ông Thêm được chính Bộ Giáo Dục chính quyền hiện tại chấp thuận, được trường Đại Học Tổng Hợp Saigòn ấn hành, được các giáo sư nổi tiếng của chế độ giới thiệu và hoan nghênh. Như vậy có thể nói là đã được chính quyền xã hội chủ nghĩa mẕc nhiên đồng thuận. Quyển sách đó mang tên “Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam”, ấn hành năm 1996. Tất nhiên việc làm của ôn Thêm cũng không tránh được những đả phá gay gắt, kiểu như “hơn 20 năm sau, TS Trần Ngọc Thêm lẕp lại theo kiểu photocoppi hầu hết những ý tưởng quá táo bạo, quá động trời, ngược lại sử sách hơn hai ngàn năm nay của Kim Định” (trang 268 – Phê bình phản phê bình của Trần Mạnh hảo, 1966) và “ Đến đây, chúng tôi có thể kết luận rằng, hầu hết những luận điểm gọi là khoa học rất “mới mẻ” trên của Trần Ngọc Thêm, nghĩa là “những phán quyết động trời” như vừa trình bày, đều được chiết ra từ những cuốn sách đã dẫn của Kim Định. Thậm chí cả đến cách lập luận của ông Thêm hầu như cũng đều sinh ra từ ông Định. Đó là phương pháp luận phi khoa học mà chúng tôi gọi là phương pháp truyền thuyết luận, thần thọai luận, ngữ nghĩa luận, linh cảm luận được góp chung trong cái rọ phiếm luận” (Trang 272 sđd). Cố Luật Sư Cung Đình Thanh viết thêm:
“Chúng tôi chẳng cần biết ông Thêm có photocoppi hay không thuyết của ông Kim Định, chỉ biết ông là người can đảm và rất có công. Bởi nếu không phải là ông hay những người khác như ông thì một người “ở ngòai” như ông Kim Định hay như chúng ta làm sao có thể được phép chính quyền xã hội chủ nghĩa cho vào rao giảng những lý thuyết khác kiểu “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” tại Đại Học thuộc quyền kiểm sóat của họ ? Đã đành ông Thêm cũng như ông Kim Định chưa chứng minh được một cách khoa học lý thuyết của mình để thuyết phục được những người quen lối tư duy kiểu Tây Phương. Nhưng điều hạn chế đó đâu có trách họ được. Tôi muốn nói đến cái lý luận người ta gọi là khoa học theo “kiểu cũ đó” (nghĩa là mới chỉ ít chục năm về trước) cũng đã lỗi thời rồi. Điều quan trọng là họ (GS Kim Định và GS Thêm) đã có can đảm đem những tư tưởng trên gieo rắc vào đầu óc những người trẻ tuổi yêu nước. Chính thành phần này (tất nhiên phải có sẵn những chủng tử yêu nước trong đầu) 20 năm trước cũng như những thanh niên đang ngồi ghế giảng đường Đại Học Saigòn hôm nay sẽ làm nhiệm vụ tìm chứng minh khoa học cho những luận điểm kể trên” (Tiếng Chim Gọi Đàn – dự án viết Lịch Sử Tư Tưởng Việt của Cung Đình Thanh, trang 52-53).
Cuối cùng để khỏi bị tiếng là mẹ hát con khen hay, tôi xin trưng lời của nhà phê bình có tiếng tăm ở hải ngọai ngày nay là Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích viết về Kim Định như sau: “Nếu ta không nhất thiết đồng ý với hết cả ý kiến của ông, ta cũng sẽ được làm thân với một trong những bộ óc triết lý lớn nhất nếu không của nhân lọai thì cũng của Việt Nam”